Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.17 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đ Ti S 11:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI
TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC
GVHD: TS. Bi Văn Mưa
HVTH: Trần Thị Trang
Lp: CH Ngy 4 - K22
Nh&m: 08
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
STT: 71
TP Hồ Chí Minh, tháng 12/2012
LỜI MỞ ĐẦU
Ludwig Feuerbach (Phoiơbắc) là đại diện cuối cùng trong triết học cổ điển Đức, là
nhà duy vật đầu tiên trong những năm 40 của thế kỷ XIX, là bậc tiền bối của triết học
Mác. Trong cuộc đời của mình, Phoiơbắc đã hoàn thành việc chứng minh các quan điểm
duy vật, qua đó ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc đã đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận. Song, nguyên lý nhân bản của
Phoiơbắc không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực
thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được vai trò của thực tiễn sản xuất vật
chất quyết định sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Tuy vậy triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và nhân bản, nó là cội
nguồn tư tưởng, là tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mác.
Đề tài “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc & vai trò của nó đối với sự ra đời
của triết học Mác” nghiên cứu nhằm đem đến một cái nhìn rõ hơn về các quan điểm của
Phoiơbắc về tự nhiên, con người, nhận thức và tôn giáo Đồng thời xem xét sự kế thừa
và khắc phục của Mác- Ph.Ăngghen thông qua những thành tựu và hạn chế của Chủ nghĩa
duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Từ đó đánh giá vai trò của nó đối với sự ra đời của triết


học Mác.
Tài liệu nghiên cứu dựa chủ yếu trên Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao
học và nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); tác phẩm “L. Phoiơbắc và
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” của Ăngghen (1886-1888); Các bài giảng của TS
Bùi Văn Mưa và một số tài liệu liên quan trên các báo và Internet.
- 2 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Chương I: Khái quát về triết học Lútvich Phoiơbắc và chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.1. Bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế
và chính trị so với nhiều nước châu Âu như Anh và Pháp. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản
đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Italia, Pháp, Anh đem lại một sức sản xuất
chưa từng có trong lịch sử. Tấm gương các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản
kháng cách mạng của gia cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử giai cấp tư sản Đức đã không thể tiến hành cách mạng tư
sản trong thực tiễn, mà tiến hành cuộc cách mạng trong tư tưởng. Thời kỳ này xuất hiện
nhiều thành tựu khoa học gắn liền với các phát minh, cùng các tác giả nổi tiếng, như
Lơvenhúc với việc phát hiện ra tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của
Lơmanôxốp, Cantơ với thuyết “Tinh vân nguyên thuỷ”…
Bối cảnh chính trị -xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc
đó chứng tỏ sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình. Nó đòi hỏi cần phải có cách lý
giải mới về bản chất của các hiện tượng tự nhiên và lịch sử nhân loại, cũng như cần có
quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời là
nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng (phép biện chứng),
nhưng hình thức của nó lại cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ (chủ nghĩa duy tâm
và hệ thống siêu hình).
Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động của con người, coi con
người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Bên cạnh đó, triết học cổ điển Đức đã xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp

luận triết học đối lập với phương pháp siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự
nhiên xã hội.
- 3 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Có thể nói triết học cổ điển Đức đã tạo ra được những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết
học, đã nhận ra những hạn chế và phê phán phép siêu hình để xác lập vị trí xứng đáng cho
phép biện chứng. Tuy nhiên, bản thân nền triết học này cũng còn các hạn chế như tính
chất duy tâm và thần bí, hoặc tính chất trực quan trong các quan niệm duy vật … Những
kết quả mà triết học cổ điển Đức đã đạt được là một trong những nguồn gốc lý luận của
triết học Mác sau này.
1.2. Sơ lược về Lútvich Phoiơbắc
L.Phoiơbắc (1804 – 1872), nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức. Ông sinh
năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Ông đã theo học ở trường đại học
tổng hợp Béclin, tham gia phái Hêghen trẻ. Về sau ông tách khỏi phái này, trở thành
người phê phán Hêghen, xây dựng hệ thống triết học duy vật của mình. Các tác phẩm lớn
của ông là Những nguyên lý của triết học tương lai (1843), Về bản chất đạo Cơ đốc
Ông là nhà triết học duy vật lỗi lạc trước Mác, là người đã khôi phục địa vị xứng đáng
cho chủ nghĩa duy vật trước Mác. Triết học của ông là một trong những tiền đề lý luận
trực tiếp của triết học Mác. Do một số tư tưởng vô thần chống lại giáo hội của ông, ông đã
bị nhà nước Phổ giam lỏng ở một làng quê ở biên giới phía Đông nước Đức, tiếp giáp với
biên giới Ba Lan từ lúc khoảng 32 tuổi đến cuối đời
Vấn đề trung tâm trong triết học của ông là vấn đề con người và về cơ bản ông giải
quyết trên tinh thần duy vật. Nên triết học của ông được gọi là triết học nhân bản.
1.3. Chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.3.1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mô hình cổ điển về văn hoá dựa trên ba nguyên lý cơ bản: nhân văn, duy lý và lịch
sử đã được hình thành trong triết học cổ điển phương Tây. Mô hình này đã phát triển theo
hai đường hướng lý giải chủ yếu: cách lý giải theo chủ nghĩa tự nhiên thông qua các nhà
Khai sáng Pháp và cách lý giải theo chủ nghĩa duy tâm thông qua hai đại biểu xuất sắc

của triết học cổ điển Đức - I.Cantơ và G.V.Ph.Hêghen. Để mô hình cổ điển về văn hoá
tiếp tục phát triển, nó cần phải được lý giải trên mảnh đất của chủ nghĩa duy vật và người
thực hiện trọng trách đó chính là L.Phoiơbắc.
- 4 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
L.Phoiơbắc bắt đầu học tập và nghiên cứu triết học với tư cách là học trò của
Hêghen. Trong hai năm, ông đã nghe những bài giảng của Hêghen ở Béclin với lòng nhiệt
thành và sự chăm chú. Được đào luyện trong hệ thống triết học tư biện của Hêghen,
những năm đầu trong sự nghiệp của mình, L.Phoiơbắc trở thành nhà triết học duy tâm là
một điều dĩ nhiên. Nhưng chính nhờ được tôi luyện trong cái “lò bát quái” tư biện ấy,
L.Phoiơbắc đã nhìn thấy những mâu thuẫn, những nghịch lý trong hệ thống triết học của
Hêghen. Tuy nhiên, việc đoạn tuyệt với triết học duy tâm ấy cũng là một quá trình.
LPhoiơbắc cho rằng mình có sứ mạng phải xây dựng một nền triết học mới – triết
học về chính con người để tạo cho con người một cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần
gian. Xuất phát từ quan điểm này mà Phoiơbắc đã coi con người là đối tượng nghiên cứu
của triết học. Ông cho rằng, xưa nay triết học nghiên cứu quan hệ giữa tư duy và tồn tại,
nhưng đây lại là vấn đề thuộc về bản chất của con người; bởi vì, chỉ có con người đang
sống, đang tồn tại mới có tư duy. Ông luôn nhấn mạnh, chỉ khi xuất phát từ gốc độ đó thì
vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại mới được giải quyết một cách đúng đắn và có ý
nghĩa thật sự.
Do khoa học nghiên cứu bản chất của con người là nhân bản học, và con người là
đối tượng của triết học mới, nên triết học mới đó – triết học tương lai nhất thiết phải là
triết học nhân bản.
1.3.2. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những
tác động của nó.
 Quan điểm về duy vật trong tự nhiên
Phoiơbắc quan niệm duy vật về giới tự nhiên, ông cho rằng vật chất không do ai
sáng tạo ra, nó tồn tại vĩnh viễn và vô hạn. Thế giới tự nhiên, thế giới vật chất có trước ý
thức, ý thức có sau vật chất, chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc
biệt là bộ óc con người. Thế giới tự nhiên đương đại là kết quả tiến hóa theo quy luật vốn

có của nó. Theo ông phải tìm nguyên nhân của thế giới tự nhiên ở chính trong thế giới tự
nhiên, sự sống và con người cũng là kết quả tiến hóa hết sức lâu dài của chính giới tự
nhiên.
- 5 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Ông cũng có quan điểm duy vật về không gian và thời gian. Theo ông không có vật
chất ngoài không gian và thời gian, không gian và thời gian chỉ là những hình thức tồn tại
của vật chất. Bản thân giới tự nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không
ngừng vận động, phát triển trong không gian, thời gian, theo các quy luật khách quan nội
tại. Trong những điều kiện nhất định, quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự
ra đời của đời sống sinh học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người.
Con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm
giác và tư duy của chính mình – một đóa hoa rực rỡ của giới tự nhiên, để nhận thức giới
tự nhiên, tức tất cả những gì không phải là siêu nhiên…
Nhìn chung ông có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng còn thô sơ và siêu hình.
Bởi lẽ, vật chất theo ông mới chỉ là những gì cảm giác được. Hay là khi đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm nói chung, chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói riêng, ông đã không
thấy được “hạt nhân hợp lý” trong triết học của Hêghen và đã phủ định một cách tuyệt
đối, như “hất chậu nước tắm và cả đứa trẻ trong đó”.
 Quan điểm về con người
Con người là vấn đề trung tâm trong triết học của ông và về cơ bản ông giải quyết
vấn đề con người trên tinh thần duy vật. Con người theo ông là một bộ phận của thế giới
tự nhiên, gắn liền với tự nhiên. Con người là một sinh vật có hình thể vật chất ở trong
không gian và thời gian, vì vậy, con người có khả năng quan sát, suy nghĩ. Con người có
ngôn ngữ, tư duy, có những nhu cầu, ham muốn, có niềm vui, nỗi buồn, sự suy tư, trăn
trở Tuy nhiên, những yếu tố đó được ông xem xét tách rời điều kiện sống, môi trường
văn hóa, xã hội, phi giai cấp, phi lịch sử.
Phoiơbắc đã phần nào nhìn khía cạnh giao tiếp xã hội như là một yếu tố tạo bản chất
con người. Tuy nhiên, quan điểm này chưa được ông phát triển đầy đủ. Do vậy, ông chưa
thấy được con người xã hội, con người giai cấp, mới chỉ thấy được con người sinh học,

con người có tính loài, con người tự nhiên chủ nghĩa.
Phoiơbắc cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì con người là
sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu
của đời sống con người. Con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mọi nhu cầu cần
- 6 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
thiết như ăn, mặc, ở, sinh đẻ Còn những cái đó đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, đam
mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi con người, mà xét đến cùng, chúng làm cho
người này không giống người kia. Do đó, theo Phoiơbắc, con người vừa mang bản tính cá
nhân, và con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng.
Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để rung
động cảm xúc Đó là con người đang tồn tại bằng xương, bằng thịt, đang sống, đang làm
việc, đang yêu, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ không phải con người trong ý
tưởng - con người trừu tượng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một năng lực
sáng tạo kỳ vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá nhân của mỗi con người, chứ
không phải xuất phát từ Thượng đế.
Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với những
người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi con người
mà là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa hợp với mọi người, trong cộng đồng. Với
bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành cho con người, tình
yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng đồng của con người chứ không phải bắt nguồn từ
Thượng đế.
Từ đây, Phoiơbắc coi bản chất con người là tổng thể các nhu cầu, khả năng, khát
vọng, ham muốn… Bản chất đó chỉ thật sự sống động khi mỗi cá nhân con người được
sống trong sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên và sự chan hòa với nhau trong cộng đồng xã hội.
Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng của con người, theo Phoiơbắc, là cơ sở của tính
ích kỷ hợp lý, – thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng đồng xã hội. Tính ích
kỷ hợp lý đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân con người phải phù hợp hài hòa
với quyền lợi chung của cộng đồng xã hội.

Phoiơbắc cho rằng, tình yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện vừa là mục
đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó còn là động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là
sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi con người. Phoiơbắc quan niệm rằng: Chúng
ta sẽ không thể là con người nếu không biết yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn
khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó
không yêu con người. Tuy nhiên, trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì, tình yêu
- 7 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
của người đàn ông dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với Phoiơbắc, con
người và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách rời nhau.
Nhìn chung, quan niệm của Phoiơbắc về con người thể hiện quan điểm của giai cấp
tư sản muốn khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi con người. Nó có ưu điểm là đã quan
tâm đến con người (chủ yếu mặt tự nhiên - sinh học). Song, nó còn có hạn chế là đã tuyệt
đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất con người mà không chú ý mặt lịch sử - xã hội,
không thấy điều kiện chính trị - xã hội mà con người phải sống trong đó. Quan niệm về
con người của ông rất trừu tượng, bởi vì nó không mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính
dân tộc.
 Quan điểm về tôn giáo
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang đường
mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Sự bất lực trong nhận
thức, sự sợ hãi, đau khổ, khó khăn triền miên, niềm mơ ước khao khát vươn lên trong
cuộc sống đầy đau khổ bất hạnh, đầy bế tắt buồn thương của con người đã sản sinh ra tôn
giáo. Tôn giáo là sự tha hóa bản chất của con người. Còn Thượng đế chỉ là tập hợp những
giá trị, mơ ước, khát vọng mà con người muốn có. Vì vậy, giá trị, mơ ước, khát vọng của
con người như thế nào thì Thượng đế như thế đó. Thượng đế là nhân cách cá nhân được
thần thánh hóa, là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người; không phải
Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã sinh ra Thượng đế.
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới cùng
con người thành thế giới trần tục và thế giới hoang đường, tôn giáo làm tha hóa con người
để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kìm hãm mà còn tước đi ở con người tính

năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi phải lựa chọn:
hoặc là tôn giáo – tín ngưỡng – thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản – tình yêu – con
người.
Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo; tuy nhiên, càng phê
phán tôn giáo ông càng thấy rằng nếu thiếu tôn giáo, con người sẽ khó sống được, bởi vì
con người cần có niềm tin để an ủi mình (dù là giả tạo) trước cuộc đời đầy đau khổ. Vì
vậy, ông ra sức xây dựng một thứ tôn giáo mới thay cho Cơ đốc giáo. Đó là Tôn giáo của
tình yêu vĩnh cữu phổ quát giữa con người (trước hết là tình yêu nam nữ) dựa trên tính
- 8 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
nhân bản mà trong đó vai trò Thượng đế được giao cho chính con người đảm trách. Theo
ông, tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu cánh của con người để con người thật sự sống đúng
như bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành thiên đàng trên mặt đất.
Nhìn chung, quan niệm về tôn giáo của ông còn nhiều hạn chế. Ông chưa hiểu được
các nguồn gốc tâm lý, kinh tế - xã hội, giai cấp, văn hóa của tôn giáo. Mặc dù ông đã thấy
được mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông cho rằng, xã hội loài người cần
đến tôn giáo vì nó có thể đáp ứng những thiếu hụt mà con người không có được. Hơn nữa,
ông không muốn khắc phục những điều kiện làm nảy sinh tôn giáo, muốn thay Cơ đốc
giáo bằng một tôn giáo mới – Tôn giáo tình yêu – khi ấy người với người là thượng đế
của nhau.
 Quan điểm về nhận thức
Khi đứng vững trên quan điểm duy vật về khả năng con người nhận thức được và
nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới, Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người chứ
không phải lý tính lôgích trừu tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận thức. Chủ thể
nhận thức cũng không phải là lý tính lôgích trừu tượng mà là con người sống động, tồn tại
trong thực tế, có cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận,
còn tư duy lý luận xử lý tài liệu cảm tính để khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp
giữa tư tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực
của cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên, nhưng
đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ khác nhau. Nếu một

người không thể nhận thức được thế giới thì tất cả mọi thế hệ nối tiếp có thể nhận thức
được thế giới khách quan vô tận.
Dù có quan điểm khả tri, nhưng Phoiơbắc chỉ coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại,
thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình mang
tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người – chủ thể nhận thức. Trong lý
luận nhận thức của mình, Phoiơbắc hoàn toàn không thấy được vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức. Theo ông, thực tiễn mang tính thấp hèn, do đó, nó cần được loại ra khỏi
nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học. Bản thân ông cũng không hiểu chính hoạt
động khoa học cũng là hoạt động thực tiễn. Ông không thấy được vai trò to lớn của thực
- 9 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
tiễn là làm hoàn thiện con người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung.
Vì không thấy trong thực tiễn động lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình
yêu.
 Quan điểm về đạo đức
Xuất phát từ tinh thần nhân bản nên quan niệm về đạo đức của ông cũng đầy tính
nhân bản, với ông khát vọng hạnh phúc là cơ sở của mọi hành vi của con người. Về bản
chất con người cố gắng đạt cái mà mình cho là tốt, tránh cái mà mình cho là không tốt.
Ông gắn cảm giác với đạo đức vì theo ông điều tốt đem lại cho con người cảm giác vui,
hạnh phúc, thỏa mãn. Ngược lại, điều xấu đem lại cảm giác đau đớn, xót xa, dằn vặt
Ông khuyên răn con người không nên tham lam, ích kỷ.
Tuy nhiên ông lại cho rằng các hiện tượng phi đạo đức chỉ là những hiện tượng ngẫu
nhiên trong xã hội, bằng tình yêu sẽ xây dựng đạo đức mới, đạo đức có sự thống nhất giữa
lợi ích cá nhân và xã hội. Đặc biệt, ông đã xây dựng nên một thứ đạo đức trừu tượng, tách
rời đời sống xã hội, phi giai cấp, phi lịch sử, thứ đạo đức vĩnh hằng cho mọi thời đại. Về
cơ bản ông chỉ nói đến tính nhân loại của đạo đức, chưa nói đến tính dân tộc, tính giai
cấp, tính lịch sử của đạo đức.
 Quan điểm chính trị - xã hội
Ông là người có tư tưởng dân chủ cấp tiến, căm ghét nhà nước quân chủ Phổ phong
kiến, ông gọi nó là vô đạo đức, đòi thay nó bằng nhà nước cộng hòa tư sản. Theo ông con

người nên có của riêng, nhưng có ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên ông đề cao chủ nghĩa vị
kỷ thông minh, nghĩa là lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội không được mâu thuẫn với nhau.
Ông cho rằng con người về bản tính là bình đẳng nên phải xóa bỏ bất công xã hội.
Tuy nhiên, ông lại sai lầm khi cho bất bình đẳng, tệ nạn xã hội chỉ là những hiện tượng
ngẫu nhiên đi chệch hướng bản chất của con người và những hiện tượng này có thể khắc
phục bằng giáo dục, bằng tình yêu của con người. Ông căm ghét thói đạo đức giả, phê
phán nó và muốn xây dựng một xã hội “cộng đồng chung” mà ở đó có sự thống nhất về
dân chủ và công bằng.
Nhìn chung, quan niệm về chính trị - xã hội của ông có yếu tố tiến bộ, nhưng cũng
còn chứa đựng nhiều yếu tố không tưởng.
- 10 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
1.3.3. Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
 Thành tựu:
Phơiơbắc đã khôi phục & phát triển thêm chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn
cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị ở Phương Tây. Khác với các bậc tiền bối của triết học
cổ điển Đức, Phoiơbắc trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật và phê phán triệt để chủ
nghĩa duy tâm & Cơ đốc giáo. Mặt khác, ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân
tích triết học.
Có thể khẳng định rằng, Phoiơbắc là một nhà triết học trước Mác đã có một cái nhìn
khá toàn diện và sâu sắc về tôn giáo. Ông đã vượt lên các nhà duy vật Pháp và Spinoza cả
về nội dung lẫn cách thức nhìn nhận tôn giáo.
Nền triết họcPhoiơbắc để lại những dấu ấn đậm nét cho sự phát triển tiếp tục của tư
duy triết học nhân loại trong các thời đại lịch sử tiếp theo.
 Hạn chế:
Phơiơbắc hiểu về phép biện chứng, lý giải đối tượng triết học, phân tích bản chất
con người, hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức, trong đời sống xã
hội… còn hời hợt & siêu hình; quan niệm về xã hội còn đầy tính duy tâm; thái độ đối với
tôn giáo không nhất quán…
Quan niệm của Phơiơbắc về con người rất trừu tượng, phi lịch sử (giai cấp, dân tộc);

chỉ quan tâm đến mặt tự nhiên siêu hình mà không chú ý mặt xã hội và điều kiện chính trị
xã hội của con người; tuyệt đối hóa tình yêu và coi tình yêu là bản chất của con người.
Bên cạnh đó, Phơiơbắc coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể
tiếp nhận hình ảnh của khách thể; coi thực tiễn mang tính thấp hèn, cần được loại ra khỏi
nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học; không hiểu hoạt động khoa học cũng là
hoạt động thực tiễn; không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối trong quá trình nhận
thức hay hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội
nói chung.
- 11 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Mặt khác, Phơiơbắc đề cao sức mạnh tinh thần (giáo dục, đạo đức, pháp luật), không
thấy được nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội.
Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với sự ra đời của
triết học Mác
2.1. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết học
Mác
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay.
Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học
và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn của con người.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức
với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học
Mác.
Học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại
thấm nhuần quan điểm duy vật. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng
nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học
thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách
hữu cơ.

Những tư tưởng triết học duy vật và vô thần của Phoiơbach đã tạo tiền đề lý luận
quan trọng cho C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật
bằng cách loại bỏ tính siêu hình và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ chỉ nhận thức giới tự
nhiên sang nhận thức cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và
triệt để. Những giá trị tư tưởng của triết học Phoiơbắc là điều không thể phủ nhận được.
- 12 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
2.3. Sự kế thừa và khắc phục của C.Mác – Ph.Ăngghen đối với chủ nghĩa duy
vật nhân bản Phoiơbắc
Mác và Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của Phoiơbắc nói chung, chủ nghĩa
duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa nhận mình là môn đồ của Phoiơbắc, chào
đón những quan điểm mới một cách nhiệt liệt, tin và đi theo Phoiơbắc với một tinh thần
hào hứng, phấn khởi.
Tuy đánh giá cao Phoiơbắc như vậy, nhưng Mác – Ăngghen cũng nhận thấy rằng
hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Phoiơbắc là chủ nghĩa nhân đạo
trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. "Lấy con người làm xuất phát điểm, song ông
hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy con người mà ông
nói luôn là con người trừu tượng con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại
sinh ra từ ông thần của các tôn giáo độc thần con người đó cũng không sống trong thế
giới hiện thực".
Luận cương về Phoiơbắc được coi như là bản tổng kết toàn bộ những khiếm
khuyết trong triết học Phoiơbắc, trong đó khi phê phán quan điểm về con người trừu
tượng của nhà triết học này, Mác viết: " Phoiơbắc hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất
con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội”.
Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen đã dành hẳn một chương bàn về triết
học Phoiơbắc, theo các ông, thì "so với các nhà duy vật "thuần tuý", Phoiơbắc có ưu điểm
lớn là ông thấy rằng, con người cũng là một "đối tượng của cảm giác", nhưng ông vẫn
còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của

họ, trong những điều kiện sinh hoạt làm cho họ trở thành những con người đúng như họ
đang tồn tại trong thực tế nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng.
Trung tâm thế giới quan mới do Mác và Ăngghen đặt nền móng là chủ nghĩa duy
vật về lịch sử. Theo ý kiến của họ, con người không phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự
nhiên thành một sinh thể tự nhiên phổ quát như Phoiơbắc nhận định, mà nó trở thành như
- 13 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
vậy trong tiến trình lịch sử. Con người khác với động vật trước hết không phải bởi nó có ý
thức như Phoiơbắc nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình
các phương tiện sống.
Những năm cuối đời, Ph.Ăngghen đã dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu
triết học. Phoiơbắc, kết quả cụ thể của việc nghiên cứu đó là tác phẩm “Ludvig Feuerbach
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”. Trong tác phẩm nổi danh này, Ph.Ăngghen
phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của Phoiơbắc: "Chủ nghĩa duy tâm thực sự của
Phoiơbắc - Ăngghen viết là ở chỗ ông xét các mối quan hệ giữa người và người dựa trên
cảm tình đối với nhau, như tình yêu nam nữ, tình bạn, lòng thương xót, tinh thần tự hy
sinh Phoiơbắc cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị đầy đủ, khi người ta đem lại
cho chúng một sự tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn giáo". Do dựa trên một quan niệm
duy tâm sai lầm như vậy, nên "học thuyết của Phoiơbắc về đạo đức thì cũng giống như tất
cả những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân
tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu
cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó cũng bất lực như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Kant
vậy". Sự bất lực đó của nhà triết học trước thực trạng xã hội Đức đương thời đã làm cho
ông "không tìm thấy con đường thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, mà bản thân
ông ghét cay ghét đắng để đi tới hiện thực sinh động. Ông bám hết sức chặt lấy giới tự
nhiên và con người, song đối với ông, tất cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh
từ mà thôi.
Phoiơbắc không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện thực,
cũng như về con người hiện thực". Nhưng lịch sử phát triển của nhận thức loài người có
tính logic của nó, những gì mà Phoiơbắc chưa thực hiện đã được Mác tiếp thu và hoàn

thiện trong các tác phẩm của mình.
- 14 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Nhiệm vụ của triết học là đem lại cho con người một quan niệm mới về bản thân
mình”. Triết học mới của Phoiơbắc phản ánh chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải
những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông
đều bất lực: "Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải
là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản học".
có công trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm trong triết học của Hêghen, tích
cực đấu tranh chống tôn giáo. Tuy nhiên, triết học của Phoiơbắc chưa thoát khỏi sự hạn
chế đối với chủ nghĩa duy vật đương thời, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc,
duy vật về tự nhiên và duy tâm về xã hội. Đó là sự không triệt để trong chủ nghĩa duy vật,
sự ảo tưởng trong tình yêu, sự nhân đạo chung chung trửu tượng và kiên quyết duy vật
trong tự nhiên.
Đóng góp lớn nhất của Phoiơbắc chính là ở chỗ, ông đã vượt qua một thói quen tư
duy để hình thành cách suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về lý luận nhận
thức lẫn trong cách hiểu về con người. Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận
thuần tuý của tư duy để đến với cuộc sống, được vật chất hoá trong hoạt động thực tiễn
của con người. Cái cần có trong dự án cải cách triết học của Phoiơbắc - sự kết hợp giữa
chủ nghĩa duy vật và thuyết nhân bản đã được hiệu chỉnh, hoàn thiện, phát triển lên trình
độ cao, trình độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng triệt để và khoa học.
Với những thành tựu trong triết học của mình, Phoiơbắc xứng đáng là một trong
những người đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển rực rỡ của triết học Mác sau
này.
- 15 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh, 2010.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Lút vích Phoi Ơ Bắc và sự cáo chung của Triết học cổ
điển Đức.
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
4. Website:
5. Lê Công Sự “Luận cương về Feuerbach” (trong C. Mác-Ăngghen: Tuyển tập, T.I.
Sự thật, Hà nội, 1980, tr. 255).
6. Lịch sử tư tưởng trước Mác, Trần Đức Thảo, NXB. Khoa học xã hội, 1995
MỤC LỤC
 
- 16 - HVTH: Trần Thị Trang
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
 !"#
$%&'()*+,-+."/"#0(123,#40567
8+9(12,:; <;97)2=>)"?>!8)3@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@AA
B+9-+"#!C*0DE+!<2F7G8+9
9H$50569'?>I9H(12'?J*(12-+"#7
;.+K;5'"K;5'!-+"#@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@AA
L5M."/'928)6NMO2-+-%/6
-+?)7"$%&9+ !P:"M+?Q/O(!+
?Q7?>"M2?"+R'"M2$%&7?>!;
+,"=-+$%&"8)6/+;"')"#
IS;)0(!.5(12.@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@AA
TH?)+"09M%:E)"<OM")/F?>!;
U2$)'%M"(12@VWWXY+,-+-Z+<;
/"=0$+#-+T)@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@A[
\T)]^5+#CD+?_`W`')"';+;@\C?+#
T)]^51M"+922)9M"*0D'a'=8+
)/-+"M2/R"M2$%&-+"#@@@@@@@@@@@@A[

b(;<$;-+96+:9=J"MV@T)'@cd1?C+
e'$"*0Da"M@\b=+'%5
f5d'"'U$%-+T)@f;";,
9+H8+90562<M!9:8+9<;/@V@T)'
@cd1?C+-Z+<;/-+"?O 056'eM
*0D?)-+.(;<$5J/9=-+-Z+<;/@\C.M"+0a+>
(;<$5;9=".-Z+<;/'!
92)e@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@A[
gea<;/'>:-+"+1M"%/8+"
V@T)'@cd;-Z+<;90+-Z+<;/h)"MQ 05
6'9a2;!;CiG/=$50+/(12"'
#'9"-Z+<;/a5"'*'@ge)*a-+
"'?>-/@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@A[
MỤC LỤC 16
- 17 - HVTH: Trần Thị Trang

×