Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận Triết học CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.37 KB, 23 trang )

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Giảng viên phụ trách : TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện : TRƯƠNG PHÚ TRÍ
Stt : 74
Nhóm : 9
Lớp : Cao học Ngày 4
Khóa : 22
TP.HCM, tháng 12/2012
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Đặt chân vào nền triết học cổ điển Đức giai đoạn từ thế kỷ XVII – đầu thế kỷ
XIX, chúng ta bắt gặp hàng loạt các triết gia nổi bật như Imanuen Căntơ,
G.Phichto hay Hêghen với các công trình triết học khác nhau nhằm đóng góp
xây dựng một hệ thống triết học vạn năng. Trong số đó không thể không kể đến
Phoiơbắc – một triết gia từng được xem như là một lý tưởng Đức bị ảnh hưởng
sâu sắc bởi người thầy Hêghen, đồng thời cũng là bậc tiền bối của triết học Mác.
Người đã viết chương cuối cùng hùng tráng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật và
vô thần để kết thúc bản giao hưởng “Triết học cổ điển Đức”.
Tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết


học của Mác và Ăng-ghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của
Hêghen và triết học của hai ông. Các quan điểm của Phoiơbắc về con người, tôn
giáo rất được sự ủng hộ của Mác, mặc dù không phải là tuyệt đối. Sử dụng tính
duy vật khả tri và nhân bản trong triết học Phoiơbắc, Mác đã khởi nguồn tư
tưởng triết học của mình.
Với đề tài: ”Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự
ra đời của triết học Mác” hy vọng sẽ cung cấp được những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc, qua đó giúp ta thấy được những giá trị
cũng như những mặt còn hạn chế của những tư tưởng triết học của ông. Ngoài
ra, qua đề tài, cũng sẽ giúp chúng ta nhận thấy được vai trò của những tư tưởng
triết học của Phoiơbắc đối với sự ra đời của triết học Mác.
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu chuyên đề này, mặc dù đã rất cố gắng,
nhưng chắc chắn rằng sẽ còn những sai sót, cần bổ sung. Kính mong nhận được
sự chỉ bảo, sửa chữa, góp ý từ thầy.
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Chương I: Giới thiệu chung về Lútvich PhoiơBắc và chủ nghĩa duy
vật nhân bản
1. Sơ lược về Lútvich PhoiơBắc
Lútvich PhoiơBắc (1804-1872) là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển
Đức, nhà duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc
tiền bối của triết học Mác, ông là đại biểu cuối cùng của một trào lưu triết học
đặc sắc, người đã viết chương cuối hùng tráng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật
và vô thần để kết thúc bản giao hưởng “triết học cổ điển Đức”.
Ông sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Từ nhỏ,
Phoiơbắc đã có niềm đam mê nghiên cứu về tôn giáo, được sự cho phép của
cha, ông theo học tại Heidelberg năm 1823 để nghiên cứu về thần học. Sau đó
ông đã theo học ở trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia phái Hegel trẻ. Về

sau ông tách khỏi trường phái này, trở thành người phê phán hệ thống của
Hêghen, xây dựng hệ thống triết học duy vật riêng của mình. Các tác phẩm
triết học lớn của ông là “Phê phán triết học Hê-ghen” (1839), “Bản chất của
đạo Ki- tô” (1841), “Những nguyên lý cơ bản của
triết học tương lai” (1843), “Bản chất của cơ
đốc giáo”, “Lịch sử triết học”. Trong các tác phẩm này PhoiơBắc luận chứng
cho những quan điểm duy vật của ông.
Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Theo ông, con
người là đối tượng của triết học mới, và khoa học nghiên cứu bản chất của con
người là nhân bản học, nên triết học mới đó phải là triết học nhân bản, phải là
khoa học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa học.
2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản
2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Ở Đức cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát
huy truyền thống duy lí của phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học
là khoa học của mọi khoa học. Các triết gia ra sức xây dựng các hệ thống triết
học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người để làm cơ sở
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
cho những hoạt động đó. Mặt tích cực là họ đã tiếp thu những tư tưởng biện
chứng quý báu trong di sản triết học truyền thống của nhân loại, phát triển
thêm và xây dựng được phép biện chứng như một học thuyết triết học về mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới. Bên cạnh đó, do quan
điểm duy tâm chi phối mà nhiều triết gia của nền triết học này hiểu thực tiễn
chỉ là hoạt động sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý thức, biến ý
thức thành một lực lượng siêu nhiên có năng lực sáng tạo kì vĩ, vì vậy, triết học
của họ mang tính duy tâm.
Sau khi Hêghen mất, những người theo học thuyết Hêghen đã phân hóa thành
hai nhóm là “Hegel trẻ” và “Hegel già”. Phái Hêghen già thì bám lấy mặt bảo
thủ của hệ thống Hêghen, bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về mặt lịch

sử. Trái lại phái Hê ghen trẻ lại phát triển triết học Hêghen về phía lập trường
giai cấp tư sản cấp tiến, dân chủ, đòi hỏi cải cách nhà nước Phổ theo hướng tư
sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện chứng trong triết học Hêghen. Trong
nhóm “Hegel trẻ” có cả Phoiơbắc, Mác và Ăngghen.
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hêghen trẻ, tin rằng tôn giáo, các khái niệm
của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng
của các nhà khai sáng Pháp thế kỉ XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hêghen,
ngày càng ngả sang lập trường duy vật. Hạn chế cơ bản nhất của triết học
Hêghen, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, là quan điểm
duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi
toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu
như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa
chủ nghĩa duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối
tha hóa thành giới tự nhiên cũng như quan niệm chúa trời tạo ra thế giới).
Phoiơbắc chỉ ra rằng Hêghen chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một
hình thức khác để diễn đạt tư tưởng của mình, tức là ông đã biến lịch sử thần
học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì vậy, Phoiơbắc cho rằng: ”Triết học
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học… mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại như sau: tồn tại-chủ thể, tư duy-thuộc tính.”
Đối lập với triết học Hêghen, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ
của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên;
con người là biểu hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì
vậy, nhận thức con người là nền tảng và chìa khóa để nhận thức thế giới.
Phoiơbắc nói rằng, phải giải quyết vấn đề quan hệ tư duy-tồn tại trên lập
trường duy vật. Tư duy là chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là
cơ thể con người. Bản thân con người cụ thể là sự thống nhất giữa thể xác của
anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc và chức năng, giữa
giải phẫu và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy-

tồn tại, Phoiơbắc khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất –tinh thần
trong nhân nhân bản học, quy các vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ
giữa các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu và sinh lý, cấu trúc và chức
năng. Chân lý, theo Phoiơbắc , không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa
duy tâm… chân lý chỉ có thể là nhân bản học, tức học thuyết về con người.
Trên là những điều kiện kịch sử và tiền đề cho sự ra đời của triết học nhân bản
Phoiơbắc. Nội dung chi tiết sẽ được giới thiệu trong phần tiếp theo.
2.2. Những tư tưởng của chủ nghĩa duy vật nhân bản
2.2.1. Quan điểm về con người
Phoiơbac cho rằng không thể tách rời con người ra khỏi giới tự nhiên, vì con
người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ
sở không thể thiếu của đời sống con người. Do đó, theo Phoiơbắc, con người
vừa mang bản tính cá nhân, và con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng
đồng, có bản chất nằm trong tình yêu.
Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt
có lý trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam
mê, để rung động cảm xúc… Phoiơbắc cho rằng đó là những con người bằng
xương, bằng thịt đang sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không
phải là con người trong trí tưởng tượng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá
nhân của mỗi con người, chứ không phải xuất phát từ Thượng đế.
Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với
những người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc
của mỗi con người mà là hạnh phúc được tìm kiếm trong sự hòa hợp với mọi
người, trong cộng đồng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu
mênh mông dành cho con người, tình yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng
đồng của con người chứ không phải bắt nguồn từ Thượng đế.
Phoiơbắc cho rằng tình yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện vừa

là mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó còn là động lực tiến bộ
xã hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi con người.
Phoiơbắc quan niệm rằng: Chúng ta sẽ không thể là con người nếu không biết
yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là
tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người. Tuy
nhiên, trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì, tình yêu của người đàn
ông dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với Phoiơbắc, con người
và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách rời nhau.
2.2.2. Quan điểm về nhận thức
Khách thể của nhận thức- giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính
logic trừu tượng hay thượng đế. Chủ thể của nhận thức- Con người đang tồn
tại có cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận ;
tư duy lý luận xử lý tài liệu cảm tính để khám phá ra chân lý- Chân lý là sự phù
hợp của tư tưởng trong chủ thể đối với đối tượng được tư tưởng- khách thể.
Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có thể nhận thức đầy đủ
giới tự nhiên; đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ
khác nhau. Nếu một người không thể nhận thức được thế giới thì tất cả mọi
thế hệ nối tiếp có thể nhận thức được thế giới quan vô tận.
2.2.3. Quan điểm về tôn giáo
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang
đường mà còn là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Tôn giáo
chỉ là sự tha hóa bản chất của con người, còn Thượng đế chỉ là tập hợp những giá
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
trị, mơ ước, khát vọng mà con người muốn có, là nhân cách hóa được thần thánh
hóa. Vì vậy theo Phoiơbắc, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức
của con người; Không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã
sinh ra Thượng đế. Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế
nào thì chúa của con người như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con
người. Ý thức của Chúa là tự ý thức của con người, nhận thức của chúa là tự

nhận thức của con người"
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới cùng
con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm tha hóa
con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kìm hãm mà còn tước đi ở
con người tính năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực phán xét. Ông đòi hỏi
phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo- tín ngưỡng- thượng đế, hoặc là khoa học nhân
bản- tình yêu- con người.
Thực ra "bản chất thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người,
nhưng đã được tinh chế, khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng
xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con
người có trong tinh thần và trái tim của anh ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học.
Matxcơva 1957. T.2. tr. 42 - 43- Tiếng Nga).
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý,
tình cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung
nhân bản trong các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở
kinh tế chính trị- xã hội và văn hoá của vấn đề.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc
giáo. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con
người. Cho nên thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần một tôn giáo mới", vì chỉ
có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong
cuộc đời con người. Mặc dù sự an ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể
làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá đó. Đúng như Engel nhận xét rằng
"Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn
giáo. Ngay cả triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà Phoiơbắc đề
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
cao hiểu theo nghĩa của ông là tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa người
và người. Tôn giáo tình yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông.
Ông cho rằng nó phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó

cần thiết phải tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành
nên tình cảm tôn giáo.
3. Những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản
3.1. Giá trị
Nhìn chung, hệ thống triết học Phoiơbắc đã mang lại nhiều đóng góp quan trọng
cho triết học nhân loại nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng. Có thể kể
đến một vài giá trị mà chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc đã để lại như
sau:
 Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại
Triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong
hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát
triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước. Đây là một đóng góp rất đáng ghi nhận
của Phoiơbắc cho nền triết học nhân loại.
 Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc
Thượng đế chỉ là do con người tưởng tượng ra nhằm giải quyết các khó khăn
trong cuộc sống của con người. Bên cạnh đó, ông phê phán mạnh mẽ chính sự tin
tưởng vào Thượng đế đã kìm hãm và tước đi tính năng động, sáng tạo và năng
lực độc lập phán xét của con người. Rõ ràng, dưới góc nhìn của một nhà duy vật
nhân bản, Phoiơbắc đã làm tốt vai trò của mình khi chứng minh sự tồn tại độc lập
của con người với các ý niệm về thần thánh của chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ
đốc.
 Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học
Ông tìm hiểu sâu về bản chất con người, các mối liên hệ của con người với các
đối tượng khác trong triết học như giới tự nhiên, nhận thức, tôn giáo, để từ đó
khẳng định vai trò trọng tâm của con người cũng như loại bỏ bất kì ảnh hưởng
hay ý niệm nào về Thượng đế trong triết học.
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Đề cao vai trò của con người, Phoiơbắc phủ nhận mọi quan điểm triết học
không lấy con người làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, Phoiơbắc đã từng phê

phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan Phíchtơ do sự tuyệt đối hoá cái Tôi, cho dù đó
là cái Tôi dân tộc đi chăng nữa. Lần nữa Phoiơbắc khẳng định, không có cái Tôi
trừu tượng, mà chỉ có những con người bằng xương, bằng thịt - sản phẩm hoàn
thiện tư tưởng cải cách trong lý luận về con người – vấn đề chủ đạo của thuyết
nhân bản, hay nhân loại học.
 Cùng với Hêghen, triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác
Tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết
học của Mác và Ăngghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của
Hêghen và triết học của hai ông. Các quan điểm của Phoiơbắc về con người, tôn
giáo rất được sự ủng hộ của Mác, mặc dù không phải là tuyệt đối. Sử dụng tính
duy vật khả tri và nhân bản trong triết học Phoiơbắc, Mác đã khởi nguồn tư
tưởng triết học của mình.
3.2. Hạn chế
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, còn nhiều
quan niệm siêu hình phiến diện trong lý giải đối tượng triết học, trong phân tích
bản chất con người,…Đặc biệt, trong việc xác định nguồn gốc, động lực phát
triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của Phoiơbắc còn đầy tính duy
tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông cũng không nhất quán. Tất cả chúng được
thể hiện như sau:
 Phủ nhận phép biện chứng
Phương án cải cách của Phoiơbắc không tránh khỏi những ảo tưởng, do chịu sự
tác động của thời đại mình. Trong triết học tự nhiên, sự cải cách của Phoiơbắc
chỉ thể hiện được một nửa. Trước hết, trong khi phê phán triết học tư biện, duy
tâm của Hêgen, Phoiơbắc đã không biết kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học
Hêghen là phép biện chứng.
 Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt
Cách tiếp cận giá trị luận về con người của Phoiơbắc là cần thiết, nhưng chưa
đủ cơ sở đề lý giải bản chất thực sự của con người. Phoiơbắc lấy con người làm
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

điểm xuất phát, nhưng đó không phải là con người sống trong một thế giới hiện
thực với những quan hệ phức tạp, mà là con người trừu tượng, phi xã hội, mang
những đặc tính sinh học bẩm sinh, đặc biệt tuyệt đối hóa và coi tình yêu là bản
chất con người.
 Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm
Ông bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người, song ông cũng không biết
chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng như về con người hiện thực.Triết học
nhân bản của Phoiơbắc cũng chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm.
Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Ông
cho rằng cần phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối
mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư
sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu
thương con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
 Chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Phoiơbắc xuất phát từ những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những thế
kỷ trước để phủ nhận các giá trị thực sự của nó trong lịch sử, hay nói cách khác,
ông quy hiện tượng nhất thời của một khuynh hướng thế giới về bản chất của
nó, tức ”thấy cây mà không thấy rừng”. Ông nói nhiều đến vận động, phát triển,
song không lý giải một cách đúng đắn động lực của phát triển. Trọng tâm phân
tích của Phoiơbắc là làm sáng tỏ tính khách quan của tự nhiên, chứ không phải
tính biến đổi, tính quy luật, tính tất yếu khách quan và tính lịch sử của nó. Với
những điều vừa nêu, có thể thấy rằng Phoiơbắc chưa thể vượt qua khuôn khổ
của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra
đời của triết học Mác
4. Tiền đề lý luận cho sự ra đời của triết học Mác
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát
triển của tư tưởng triết học của nhân loại. Tuy nhiên, cần phải khẳng định
rằng tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác là triết học cổ
điển Đức mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc.

Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Khi xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan- đỉnh cao của nền triết
học cổ điển Đức, Hêghen đã trình bày đầy đủ và chặt chẽ hệ thống các tư
tưởng biện chứng theo tinh thần duy tâm. Bằng thiên tài của mình, C.Mác và
Ăngghen đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy vật để nó đóng vai trò công
cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Xuất phát từ giới tự nhiên vật chất, Phoiơbắc tìm hiểu các vấn đề về con người
và xây dựng nên chủ nghĩa duy vật nhân bản. Ông coi con người, với tư cách là
thực thể của giới tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông đối lập
chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình với triết học duy tâm biện chứng của
Hêghen trên cả hai bình diện là bản thể luận và nhận thức luận, đồng thời đòi
vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm và cả phép biện chứng của Hêghen… C.Mác và
Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng đồng thời
cũng phê phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của ông. Chính C.Mác và
Ăngghen là những người đã nhận thức một cách chính xác những thành tựu
và hạn chế của triết học Phoiơbắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xây
dựng thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
Sự ra đời của triết học Mác còn xuất phát từ những giá trị mà nhân loại đạt
được trong lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh (đại biểu là A.Xmít và Đ.
Ricardo), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh (đại biểu là Xanh
Ximông, S.Phurie, R.Ooen). Nhờ những giá trị tư tưởng trong các lĩnh vực này
mà C.Mác và Ăngghen thấy rõ nền tảng vật chất của sự phát triển lịch sử xã
hội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hội
hiện thực trong tương lai.
5. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của triết học
Mác
5.1. Quan điểm của Mác- Ăngghen đối với chủ nghĩa duy vật nhân bản
Trong phần III của tác phẩm “ Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức” được Ăngghen viết vào năm 1886 nhằm bảo vệ và phát triển chủ

nghĩa Mác, Ăngghen tập trung làm rõ quan điểm duy tâm của Phoiơbắc trong
các vấn đề tôn giáo và đạo đức.
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Về vấn đề tôn giáo, Ăngghen cho rằng, Phoiơbắc không đặt ra vấn đề xoá bỏ
tôn giáo, mà muốn hoàn thiện nó, triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Ông
còn coi các thời đại loài người chỉ khác nhau ở sự thay đổi về phương diện tôn
giáo. Tôn giáo theo ông là ở mối quan hệ thương yêu giữa người với người và
tình yêu nam nữ là hình thức cao nhất. Từ khi có loài người, mặc dù có những
quy định của nhà nước về hôn nhân, song tình yêu và tình bạn là không thay
đổi. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc, theo Ăngghen là ở chỗ ông coi
mối quan hệ thuần tuý giữa người với người là tôn giáo. Ăngghen viết: “Chủ
nghĩa duy tâm của Phoiơbắc là ở chỗ ông ta xét các mối quan hệ giữa người
và người, dựa trên cảm tính đối với nhau… Không phải chỉ đơn giản đúng y
như bản thân chúng là như vậy… Đối với ông ta, điều chủ yếu không phải ở
chỗ những quan hệ thuần tuý giữa người với người tồn tại, mà là ở chỗ những
quan hệ ấy phải được coi là một thứ tôn giáo mới, chân chính”. Phoiơbắc
muốn xây dựng một thứ tôn giáo không cần Thượng đế và Ăngghen coi đó
cũng như “Thuật luyện kim cũng không cần đến viên đá tạo vàng của nó”.
Ăngghen cũng phê phán luận điểm sai lầm của Phoiơbắc coi các thời đại của
loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về phương diện tôn giáo.
Trong vấn đề đạo đức, theo Ăngghen, Phoiơbắc hoàn toàn duy tâm khi coi lòng
mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó nó phải là cơ sở của
đạo đức. Và để thực hiện lòng mong muốn hạnh phúc đó, Phoiơbắc đòi hỏi
phải có sự tự hạn chế hợp lý bản thân mình và tình yêu giữa người với người
lại trở thành những quy tắc cơ bản của đạo đức. Bằng sự bóc lột giai cấp
trong xã hội có đối kháng giai cấp và sự bất bình đẳng xã hội, Ăngghen phê
phán quan điểm về đạo đức của Phoiơbắc, “nó được gọt giũa cho thích hợp với
mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó
có thể đem áp dụng được ở đâu cả, cả đối với thế giới hiện thực” và Ăngghen

cho rằng: trong thực tế mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo
đức riêng của mình và đều vi phạm đạo đức ấy. Như vậy, quan niệm về đạo
đức của Phoiơbắc vẫn chưa thoát khỏi sự trừu tượng, vì ông hiểu con người
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
một cách trừu tượng phi lịch sử, không thấy con người là sản phẩm của xã hội,
của lịch sử và con người là chủ thể của hoạt động. Điều đó biểu hiện trong
nhận xét rất chính xác của Ăngghen rằng, Phoiơbắc “bám hết sức chặt lấy giới
tự nhiên và con người; song đối với ông, cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là
những danh từ mà thôi. Ông không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác
về tự nhiên hiện thực, cũng như về con người hiện thực”.
Trên cơ sở phê phán một cách khoa học triết học của Hêghen và triết học của
Phoiơbắc, Ăngghen đã chỉ ra cho chúng ta thực chất cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học do Mác và Ăng-ghen thực hiện.
5.2. Đánh giá vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của
triết học Mác
Ăngghen đã chỉ ra sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của
quá trình cải tạo căn bản phép biện chứng của Hêghen và khắc phục tính
phiến diện, không triệt để của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Phép biện chứng duy vật đã kế thừa tất cả yếu tố tiến bộ của các hình thức
trước của nó, trong đó trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen. Nhưng phép
biện chứng của chủ nghĩa Mác hoàn toàn đối lập với phép biện chứng của
Hêghen. Ăngghen viết: “Ở Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu hiện trong
giới tự nhiên và trong lịch sử… chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý
niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu, nhưng dù sao
cũng độc lập đối với mọi bộ óc đang tư duy của con người. Sự xuyên tạc có tính
chất tư tưởng hệ ấy là cái cần phải gạt bỏ. Chúng tôi lại xem xét một lần nữa
một cách duy vật rằng những ý niệm trong đầu óc của chúng ta, coi đó là
những phản ánh của sự vật hiện thực, chứ không xem xét những sự vật hiện
thực, coi đó là những phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý

niệm…”. Trên cơ sở đó, Ăngghen nhắc lại định nghĩa kinh điển về phép biện
chứng duy vật và chỉ ra tính thứ nhất của biện chứng khách quan và tính thứ
hai của biện chứng chủ quan – biện chứng của ý niệm chỉ là sự phản ánh vào ý
thức sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực, cho nên quá trình cải tạo
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
phép biện chứng duy tâm của Hêghen bằng cách “đặt đầu lên trên hay nói
đúng hơn, từ chỗ trước kia nó đứng bằng đầu, bây giờ người ta đặt nó đứng
bằng chân”.
Ăngghen nhắc lại cơ sở khoa học tự nhiên dẫn đến sự cáo chung của phép siêu
hình và sự hình thành phép biện chứng duy vật. Chính việc phát triển của khoa
học từ khoa học sưu tập “về những vật chất bất biến” sang khoa học hệ thống
hoá, khoa học về quá trình dẫn đến làm sụp đổ phương pháp tư duy siêu hình
và khẳng định phương pháp tư duy biện chứng. Ăngghen cũng đánh giá một
lần nữa ba phát minh vĩ đại của thời đó là phát minh ra tế bào, phát minh ra
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng và thuyết tiến hoá của Đácuyn.
Ông cho rằng, nhờ ba phát minh vĩ đại đó khoa học tự nhiên “có thể chứng
minh những nét lớn của mối liên hệ giữa các quá trình của tự nhiên không
những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực riêng
biết ấy nói chung và có thể trình bày một bức tranh bao quát về mối liên hệ
trong tự nhiên”.
Về sự hình thành các quan điểm duy vật lịch sử cũng tương tự, Ăngghen coi
“cái đã đúng với giới tự nhiên mà do đó chúng ta coi là một quá trình phát
triển lịch sử, thì cũng đúng với tất cả các bộ môn của lịch sử xã hội và cũng
đúng với toàn bộ các khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con người (và
thuộc về thần thánh)”. Theo Ăngghen, phải loại bỏ những mối liên hệ nhân tạo,
và phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát hiện ra các quy
luật chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Đấy chính là nhiệm vụ của chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Ăngghen phân biệt sự khác nhau giữa quy luật lịch sử - đối tượng nghiên cứu

của chủ nghĩa duy vật lịch sử với các quy luật tự nhiên – đối tượng nhận thức
của các khoa học tự nhiên. Trong giới tự nhiên, các quy luật diễn ra tự động,
bên ngoài ý thức của con người trái lại các quy luật xã hội diễn ra thông qua
hoạt động có ý thức của con người. Nhưng cũng giống với các quy luật tự
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô số những ngẫu nhiên. Thông qua
vô số ngẫu nhiên đó, chúng ta phát hiện ra quy luật nội tại bị che giấu.
Ăngghen cũng chỉ ra đặc trưng của các quy luật xã hội. Ông cho rằng: “Con
người làm ra lịch sử của mình… bằng cách là mỗi người theo đuổi những mục
đích riêng, mong muốn một cách có ý thức, và chính kết quả chung của vô số
những ý muốn tác động theo nhiều hướng khác nhau đó và của những ảnh
hưởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài đã tạo nên lịch
sử”.
Tiếp theo, Ăngghen xem xét đến một vấn đề rất quan trọng của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, đó là vấn đề động lực của lịch sử. Theo Ăngghen, chủ nghĩa duy vật
cũ không bao giờ đặt vấn đề đó ra cả vì vậy quan điểm của họ về lịch sử, “về
bản chất, là quan điểm thực dụng chủ nghĩa; nó đánh giá mọi cái theo động cơ
của hành động”. Ăngghen đã phê phán quan điểm trên và cho rằng: “Chủ
nghĩa duy vật cũ không trung thành với bản thân mình, vì nó coi những động
lực lý tưởng tác động trong lĩnh vực lịch sử là những nguyên nhân cuối cùng,
chứ không nghiên cứu xem cái gì ẩn sau những động lực đó và những động lực
của những động lực đó là những gì”.
Hêghen cũng có công lao đặt ra vấn đề này, song, theo Ăngghen – Hêghen lại
không tìm động lực đó ở trong bản thân lịch sử mà lại “du nhập những động
lực đó ngoài, từ hệ tư tưởng triết học, vào trong lịch sử”.
Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ và chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen, Ăngghen cho rằng để xác định động lực thực tế cuối cùng của lịch sử
thì không thể nghiên cứu những động cơ của các cá nhân, mà phải nghiên cứu
“những động cơ của những người đã lay chuyển những quần chúng đông đảo,

những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi một dân
tộc; những động cơ đã đẩy họ… đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài
đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”. Và Ăngghen đã chỉ ra rằng, động lực
của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là cuộc đấu tranh giữa ba giai cấp lớn và
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
những xung đột về quyền lợi của họ - giai cấp địa chủ quý tộc, giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản.
Để tìm ra động lực của động lực, Ăngghen đi sâu vào xem xét nguồn gốc của
giai cấp và đấu tranh giai cấp, ông chỉ ra rằng, nguồn gốc của giai cấp và kết
cấu giai cấp xã hội là do nguyên nhân thuần tuý kinh tế quy định và cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư cấp tư sản,
cũng như cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì trước hết,
vấn đề là ở những lợi ích kinh tế. Chính mâu thuẫn trong kinh tế phản ánh qua
mâu thuẫn giữa các giai cấp. Ăngghen viết: “Những lực lượng sản xuất, do
giai cấp tư sản đại biểu, nổi dậy chống lại chế độ sản xuất do bọn chiếm hữu
ruộng đất phong kiến và bọn trùm phường hội đại biểu… ngày nay đại công
nghiệp cũng lại đã đi đến chỗ xung đột với chế độ sản xuất tư sản là chế độ đã
thay thế chế độ sản xuất phong kiến”. Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ dẫn đến phải
phá gông xiềng cho lực lượng sản xuất bằng cách thay đổi phương thức sản
xuất.
Từ những phân tích trên, Ăngghen đi đến kết luận: “Tất cả các cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa
– vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị - xét
đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”.
Với phương pháp như trên, Ăngghen tiếp tục xem xét mối quan hệ với cơ sở
kinh tế của một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước và pháp
luật, chính trị và hệ tư tưởng chính trị, triết học và tôn giáo. Khi xem xét mối
quan hệ giữa nhà nước và xã hội công dân, Ăngghen khẳng định nhà nước là
yếu tố tuỳ thuộc, “còn xã hội công dân, tức là lĩnh vực của những quan hệ kinh

tế, là yếu tố quyết định”.
Nếu như nhà nước và công pháp là do các quan hệ kinh tế quyết định thì tư
pháp cũng thế, vì tư pháp, theo Ăngghen, về bản chất, chỉ xác nhận những
quan hệ kinh tế hiện có và “những quy tắc của pháp luật tư bản chỉ là sự biểu
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
hiện – dưới một hình thức pháp lý – của những điều kiện sinh hoạt kinh tế của
xã hội”.
Về vấn đề chính trị và hệ tư tưởng chính trị cũng vậy, nhưng dường như trong
thực tế ý thức về mối liên hệ giữa chính trị và hệ chính trị với cơ sở kinh tế bị
mờ dần đi và thậm chí có thể hoàn toàn biến mất. Còn trong hệ tư tưởng cao
hơn, xa hơn cơ sở kinh tế như triết học và tôn giáo, thì do những khâu trung
gian mà mối liên hệ đó bị lãng quên. Song dù sao, theo Ăngghen, “mối quan hệ
đó vẫn tồn tại” và những tư tưởng triết học từ thế kỷ XV trở đi qua triết học
Pháp, triết học Anh và đến triết học của Hêghen đều phản ánh sự phát triển
của giai cấp tư sản.
Về tôn giáo, Ăng-ghen cho rằng tôn giáo là hình thái ý thức xã hội xa đời sống
vật chất hơn cả và hình như nó xa lạ với đời sống vật chất. Nhưng thực ra xét
đến cùng, tôn giáo cũng như các hình thái ý thức xã hội khác đều gắn liền với
những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Để làm rõ luận điểm ấy,
Ăngghen chỉ ra sự phát triển của tôn giáo có nguồn gốc ban đầu nguyên thuỷ
của nó “từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người về bản
chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài xung quanh họ”. Khi xem xét
tôn giáo phát triển từ tôn giáo dân tộc thành tôn giáo thế giới, đạo Cơ đốc
phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến, sự ra đời của giai
cấp tư sản gắn liền với cải cách tôn giáo, đạo Tin lành ra đời đối lập với đạo
Thiên chúa phong kiến, Ăngghen đi đến kết luận: “Tôn giáo, một khi đã hình
thành, luôn luôn chứa đựng một chất liệu truyền thống, cũng như trong tất cả
các lĩnh vực tư tưởng, truyền thống là một lực lượng bảo thủ lớn. Song những
sự biến đổi xảy ra trong chất liệu đó, đều nảy sinh ra từ những quan hệ giai

cấp, do đó từ những quan hệ kinh tế giữa những người gây ra những sự biến
đổi ấy”.
Cuối cùng, Ăngghen khái quát lại và đưa ra một nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản định hướng cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử: “Bằng chứng
phải được rút ra từ bản thân lịch sử… Bây giờ thì bất cứ ở đâu, vấn đề không
Trương Phú Trí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
còn là tưởng tượng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là phát hiện ra
chúng từ những sự thực”.
Trương Phú Trí
KẾT LUẬN
Đóng góp lớn nhất của Phoiơbắc chính là ông đã vượt qua lối tư duy cũ để hình
thành cách suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về lý luận nhận thức
lẫn trong cách hiểu về con người. “Triết học hiện đại từ bỏ tư tưởng kinh viện
”tuyên bố đó của Phoiơbắc trong “Những nguyên nhân cơ bản của triết học về
tương lai” đã thể hiện thiên hướng cải cách tích cực của ông. Triết học cần từ bỏ
tính sách vở, những biện luận thuần tuý của tư duy để đến với cuộc sống, được
vật chất hoá trong hoạt động thực tiễn của con người.
Có thể nói triết học mới vừa có tính phủ định, vừa có tính thống nhất, nó phủ
định cái phiến diện ở mỗi học thuyết và thống nhất các chân lý dù đối lập nhau
nhưng cùng đóng vai trò tích cực cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Triết học của
tương lai không phải là phép cộng hay sự chiết trung tư tưởng từ ngày hôm qua,
mà là thuyết nhân bản có định hướng thực tiễn, phát huy cao nhất quan hệ chân
chính, khắc phục tình trạng phân đôi bản chất của con người.
Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy tâm,
trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người
nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa
duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo; vì thế, quan điểm duy vật của
Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và phép biện chứng của
Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học Mác - Lênin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Bùi Văn Mưa, Triết học (phần I) “Đại cương về lịch sử Triết học” -
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết
học, 2011.
[2]. K. Marx và F. Engels toàn tập. Tập 3 (1845-1847) – NXB Chính trị quốc
gia, 1995- Feuerbach sự đối lập giữa quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật.
[3]. GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn- Quan niệm của Hêghen về bản chất của
triết học- Tạp chí triết học.
[4]. Nguyễn Huy Hoàng- Quan điểm của Phoiơbắc về văn hóa và con người-
Bài tạp chí triết học từ năm 2006 trở về trước.
[5]. Nguyễn Hoài Sanh- Lutvich Phoiơbắc bàn về tôn giáo- Nghiên cứu tôn
giáo số 3-2000.
[6]. Friedrich Engels – Lutvich Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức.
[7]. www.vientriethoc.com.vn

×