Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.34 KB, 19 trang )

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC.

Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên : LƯƠNG MINH TÚ
STT : 76
Lớp : Cao học TCDN, N4
Khóa : 22 (2012 – 2014)
TP. HCM, tháng 12 năm 2012.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
LỜI NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC 2
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản 2
1.2. Nội dung triết học duy vật nhân bản 2
1.2.1. Quan niệm về con người 2
1.2.1.1. Con người với giới tự nhiên 2
1.2.1.2. Con người với con người 3
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại 4
1.2.2. Quan niệm về tôn giáo 5
Chương 2: Giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 6
2.1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật 6
2.1.2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và đặt con người vào tâm
điểm của phân tích triết học 7
2.1.3. Với Hêghen, triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác 8

2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 8
2.2.1. Phủ nhận phép biện chứng, chưa khắc phục hạn chế duy vật siêu hình 8
2.2.2. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt 9
2.2.3. Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm 10
CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC 11
3.1 Tổng quan sự ra đời chủ nghĩa Mác: 11
3.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội 11
3.1.2 Tiền đề lý luận 11
3.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên 12
3.2 Vai trò của Phoiơbắc đối với sự ra đời triết học Mác: 13
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
MỞ ĐẦU
Tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của phương Tây, triết học cổ điển Đức khôi
phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học với những nhà triết học
nổi tiếng như Hêghen và Phoiơbắc. Phoiơbắc là một trong những đại biểu ưu tú nhất
có công lớn phát triển chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật nhân bản nói
riêng tiến thêm một bước mới. Vì vậy, việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật nhân bản
của ông là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nghiên cứu chủ nghĩa duy vật và
lịch sử triết học. Sau khi nghiên cứu nhiều bài viết và những tài liệu liên quan đến
triết học Phoiơbắc: “Đại cương về lịch sử triết học”[1]; “L.Phoiơbắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức”[2]; “Quan niệm về con người trong triết học
L.Phoiơbắc”[3]; v.v…, tác giả đã rút ra những đóng góp quan trọng của triết học
Phoiơbắc đối với lịch sử triết học như: đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục
và phát triển chủ nghĩa duy vật truyền thống; phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm,
đạo Cơ đốc giáo và biết đặt con người vào tâm điểm của phân tích triết học; triết học
của Phoiơbắc cùng với Hêghen, là tiền đề lý luận của triết học Mác. Mặc dù có nhiều
đóng góp như vậy, nhưng triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế nhất định, triết học

của ông chưa thực sự sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện, phủ nhận phép
biện chứng; ông đề cao con người nhưng quan niệm về con người của ông rất hời hợt;
phủ nhận vai trò thực tiển sa vào chủ nghĩa duy tâm khi lý giải các vấn đề xã hội.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về nội dung, giá trị và hạn chế của triết học Phoiơbắc, tác giả
thực hiện tiểu luận “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời
triết học Mác”. Kết cấu tiểu luận bao gồm ba chương chính: chương 1, giới thiệu về
tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc; chương 2, giới thiệu về
những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc; chương 3: vai trò
của chủ nghĩa nhân bản đối với sự ra đời triết học Mác.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 1
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản
Lịch sử triết học phương Tây thời kỳ cận đại nói chung và triết học cổ điển Đức
nói riêng là các cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, khuynh hướng, trường phái triết học
khác nhau trong bối cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và nhanh
chóng được khẳng định. Giai đoạn này, một trong những yếu tố quan trọng trong
nghiên cứu triết học là đề cao vai trò của con người – chủ thể hoạt động cải tạo thế
giới. Xuất phát từ xu hướng đó, Phoiơbắc đã lấy con người làm đối tượng của nghiên
cứu triết học nhằm làm rõ bản chất của con người đang tồn tại để con người được
sống như chính mình, đồng thời giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Với
ông thì quan hệ này thuộc về bản chất của con người vì chỉ con người đang sống
(đang tồn tại) mới có tư duy, vì vậy để giải quyết mối quan hệ trên một cách đúng đắn
phải xuất phát từ con người. Vì ông xem con người là đối tượng nghiên cứu triết học
nên triết học mới phải là triết học duy vật nhân bản hay triết học duy vật nhân bản là
khoa học của mọi khoa học.
1.2. Nội dung triết học duy vật nhân bản
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về nội dung triết học nhân bản của Phoiơbắc, tác giả đi
sâu nghiên cứu hai vấn đề cơ bản của triết học là: quan niệm về con người và tôn

giáo.
1.2.1. Quan niệm về con người
Với Phoiơbắc, đối tượng nghiên cứu triết học của ông chính là con người, điều
này hoàn toàn mới so với nhiều nhà triết học trước đó. Vì vậy, nhằm nghiên cứu sâu
hơn về bản chất con người tác giả đi tìm hiểu các vấn đề: mối quan hệ giữa con người
và giới tự nhiên; mối quan hệ giữa người và người; mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại.
1.2.1.1. Con người với giới tự nhiên
Tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa duy vật, Phoiơbắc cho rằng giới tự
nhiên vật chất có trước ý thức, nó tồn tại đa dạng và phong phú, bản thân nó bị chi
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 2
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động và phát triển trong không
gian và thời gian theo quy luật khách quan nội tại. Đối với con người, theo ông con
người là một sinh vật có hình thể, vật chất, vì vậy nó mới có năng lực quan sát, tình
yêu, lý trí. Ông khẳng định: “Con người hoàn thiện có sức mạnh của tư duy, sức
mạnh của ý chí và sức mạnh của tình cảm. Sức mạnh của tư duy là ánh sáng của sự
nhận thức, sức mạnh của ý chí – năng lực của tính cách, sức mạnh của tình cảm –
tình yêu….” [4]. Như vậy ý chí, tư duy và tình cảm không chỉ là những năng lực cơ
bản của con người, mà còn là những sức mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con
người, là mục tiêu và phương tiện tồn tại của con người. Sự phát triển và tồn tại của
con người cũng giống như sự phát triển và tồn tại của các loài sinh vật khác, tuy
nhiên, con người là sản phẩm tiến hóa cao nhất của giới tự nhiên và là sinh vật bậc
cao có tính vượt trội so với các loài sinh vật khác ở đời sống tinh thần – đó là khác
nhau trong ý thức. Phoiơbắc cho rằng, con người và giới tự nhiên có mối liên hệ
khắng khít với nhau, theo ông, con người không thể tách rời khỏi giới tự nhiên và
ngược lại giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu của con người.
Như vậy, mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ảnh mối quan hệ thế
giới vô cơ và hữu cơ. Theo Phoiơbắc, con người chỉ tồn tại và phát triển trong thế giới
tự nhiên, và chính giới tự nhiên tác động lại quá trình tồn tại và phát triển của con

người chứ không phải là thần thánh là chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
1.2.1.2. Con người với con người
Với Phoiơbắc, “ông luôn coi bản chất con người là tổng thể các nhu cầu, khả
năng, khát vọng, ham muốn… Những bản chất này thật sự sống động khi con người
thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên và chan hòa với cộng đồng xã hội” [1,212]. Theo
Phoiơbắc, chính giới tự nhiên đã ảnh hưởng tới các nhu cầu của con người và chính
các nhu cầu tự nhiên đó đã tác động tới tâm tư, tình cảm, khả năng, khát vọng… hay
gọi là bản tính cá nhân và cơ bản làm cho người này không giống người kia. Nhưng
bản tính cá nhân không thể sống động nếu họ không có sự ràng buộc trong cộng đồng
xã hội - đó là tình yêu của mỗi con người đối với cộng đồng. Do con người mang bản
tính cộng đồng, nên “mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành cho con
người và tình yêu này tuôn trào từ tính cộng đồng chứ không phải bắt nguồn từ
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 3
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
Thượng đế” [1,211]. Tuy nhiên, bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng không phải
hoàn toàn độc lập nhau mà cái bản tính cá nhân của Phoiơbắc không tách khỏi sự bó
buộc, không nằm ngoài mối quan hệ mật thiết với cộng đồng xã hội. Trong cách nhìn
của Phoiơbắc thì con người có cái tôi, cái đơn tử, cái tuyệt đối được miêu tả trong triết
học của các nhà triết học trước đây chỉ là xuất phát điểm là nền tảng vật lý – sinh lý
của con người và bản chất đích thật của con người là một sinh thể có tính loài hay là
bản tính cộng đồng xã hội. Chính vì con người có bản tính cá nhân và bản tính cộng
động như đã phân tích ở trên nên nó là cơ sở hình thành tính ích kỷ hợp lý. Đây là
quan điểm hoàn toàn mới so với các nhà triết học trước thời điểm đó và khi nghiên
cứu triết học của Phoiơbắc, Lênin cho rằng đây là phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
Như vậy, Phoiơbắc cho rằng giữa con người với con người có mối quan hệ ràng
buộc lẫn nhau, giữa họ vừa mang bản tính cá nhân đồng thời vừa mang bản tính cộng
đồng. Hơn nữa, cái bản tính cá nhân không tách khỏi sự bó buộc, không nằm ngoài
mối quan hệ mật thiết với bản tính cộng đồng. Chính vì có mối ràng buộc như vậy là
cơ sở hình thành nên tính ích kỷ và tính ích kỷ đồng thời là động lực phát triển xã hội.

1.2.1.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Như tôi đã trình bày ở trên, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại thuộc về bản chất
của con người. Bản chất con người là tổng hợp trên hai phương diện là thể xác (tồn
tại) và tinh thần (tư duy), sự thống nhất hai phương diện này đảm bảo cho con người
tồn tại và phát triển. Phoiơbắc khẳng định rằng quan hệ thực sự giữa tư duy và tồn tại
là tồn tại – chủ thể, tư duy – thuộc tính. Để giải thích vì sao tồn tại là chủ thể còn tư
duy là thuộc tính, theo Phoiơbắc, tất cả hoạt động các cơ quan trên cơ thể con người
và ngay cả tư duy đều đến từ việc làm của cơ thể, của đầu óc con người, bản thân các
hoạt động đó khác nhau ở chổ nó là hoạt động của đầu óc. Tư duy xuất phát từ tồn tại
chứ không phải xảy ra ngược lại. Cơ sở tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm
tính, trí tuệ, tất yếu và chân lý. Bản chất tồn tại với tư cách là một tồn tại chính là bản
chất của giới tự nhiên. Theo Phoiơbắc, mỗi con người cụ thể đang sống và hoạt động
là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa
phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra một kết
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 4
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái gì khác như là
thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao – bộ óc con người. Chính ở
đây, ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học, những
điều suy nghĩ này đã được Ăngghen phát biểu một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm:
Lutvich Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức [2].
1.2.2. Quan niệm về tôn giáo
Phoiơbắc cho rằng, “tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang
đường mà là những ước mơ, khát vọng đời thường của con người” [1,213]. Dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng yếu tố quan trọng
hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của con người.
Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, tức là sự bất lực
trong nhận thức, sợ hãi, khó khăn, bế tắt… trong cuộc sống của con người là nguồn
gốc sâu xa của tôn giáo. Theo Phoiơbắc, tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người
nhưng giấc mơ đó không viễn vông mà nó là của hiện thực. Trong các hình thức tín

ngưỡng tôn giáo, nhà triết học cổ điển Đức rất quan tâm đến vấn đề cầu nguyện, bởi
đây là một hiện tượng tâm lý đặc biệt phản ánh thế giới nội tâm của con người một
cách sâu sắc nhất, toàn diện nhất, phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con người và
thần thánh. Phoiơbắc viết: " Bản chất thầm kín của tôn giáo được bộc lộ trong lời cầu
nguyện trong cầu nguyện, con người hướng một cách trực tiếp tới Thượng đế, cho
nên Thượng đế đối với con người là nguyên nhân trực tiếp thực hiện lời cầu nguyện"
[5]. Ông còn coi các thời đại loài người chỉ khác nhau ở sự thay đổi về phương diện
tôn giáo. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc, theo Ăngghen là ở chỗ ông coi
mối quan hệ thuần tuý giữa người với người là tôn giáo – đó là tôn giáo của tình yêu.
Từ những phân tích trên có thể hình dung được quan điểm của Phoiơbắc về tôn
giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người. Chính con người chứ
không phải ai khác sinh ra Thượng đế chứ không phải Thượng đế sinh ra con người.
Ông tuyệt đối hóa tôn giáo, các thời đại khác nhau chỉ thay đổi trên phương diện tôn
giáo, ông ra sức xây dựng tôn giáo - đó chính là tôn giáo của tình yêu, vì tình yêu là
cơ sở là cứu cánh của con người giúp con người sống đúng với bản tính của mình.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 5
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
Chương 2: Giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiơbắc
Dựa trên cơ sở tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc tác giả
đi sâu vào phân tích các giá trị cơ bản của triết học Phoiơbắc như: triết học của
Phoiơbắc có vai trò khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật truyền thống; phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và biết đặt con người vào tâm điểm của
phân tích triết học; triết học của Phoiơbắc cùng với Hêghen, là tiền đề lý luận của triết
học Mác.
2.1. Giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
2.1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật
Phoiơbắc là người đã khôi phục được truyền thống chủ nghĩa duy vật một cách
rõ ràng, ông đánh giá rất cao vai trò của con người và giới tự nhiên, đồng thời ông đã
phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước mới, đối với ông việc đi tìm triết học

ngay trong giới tự nhiên và con người là một hướng đi mới trong nghiên cứu triết học.
Bên cạnh đó, khi Ăngghen nghiên cứu triết học của Phoiơbắc, Ăngghen đã đánh giá
cao vai trò của Phoiơbắctrong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi
và phát triển chủ nghĩa duy vật. Ăngghen coi tác phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” có tác
dụng giải phóng và đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua.
Ngoài ra, vai trò quan trọng của chủ nghĩa duy vật được thể hiện rõ trong quan điểm
của ông khi cho rằng chủ nghĩa duy vật thuần túy khoa học tự nhiên là “cơ sở của tòa
kiến trúc tri thức con người, nhưng không phải là bản thân tòa kiến trúc đó” [3]. Vì
chúng ta không những chỉ sống trong giới tự nhiên, mà còn sống trong xã hội loài
người, mà xã hội loài người thì cũng có lịch sử phát triển của nó và khoa học của nó,
không kém gì tự nhiên. Do đó, vấn đề là làm cho khoa học xã hội, nghĩa là toàn bộ
khoa học được gọi là khoa học lịch sử và triết học, phù hợp với cơ sở duy vật chủ
nghĩa và xây dựng lại khoa học xã hội phù hợp với cơ sở đó.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 6
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
2.1.2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và đặt con
người vào tâm điểm của phân tích triết học
Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha
hoá của bản chất con người vào Thượng đế tức là Chúa. Ông lập luận rằng bản chất tự
nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp
nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con
người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Chúa,
từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Chúa siêu nhiên đứng ngoài
chi phối cuộc sống con người. Vậy, mặt tích cực trong triết học của Phoiơbắc ở chỗ ông
đấu tranh chống quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt là quan
niệm về Chúa.
Không chỉ ra sức phê phán mạnh mẽ tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm mà Phoiơbắc
còn xem con người là trung tâm của nghiên cứu triết học. Đối với Phoiơbắc, “con
người chính là một triết học mới, có sứ mạng mang lại cho con người cuộc sống thật
sự hạnh phúc trên trần gian và ông lấy con người là đối tượng nghiên cứu của triết

học” [1,209], như vậy, ưu điểm lớn của ông đã quan tâm nhiều đến vấn đề con người.
Quan điểm của Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu của triết học
trước Mác. Nhận xét về công lao của Phoiơbắc trong việc nghiên cứu vấn đề con
người, Mác và Ăngghen cho rằng, Phoiơbắc đã làm cho chủ nghĩa duy vật được đồng
nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Nhà triết học duy vật Đức vĩ đại này đã xây dựng quan
điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản
tư tưởng trước đó. Hơn ai hết, ông hiểu tính phiến diện và hạn chế của hàng loạt chủ
nghĩa khác nhau như: chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý.
Tóm lại, đóng góp của Phoiơbắc là ông tích cực phê phán mạnh mẽ và đấu
tranh đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt
là quan niệm về Thượng đế. Ông cũng có đóng góp to lớn với chủ nghĩa duy vật nhân
bản, ông luôn xem con người là trọng tâm của nghiên cứu triết học.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 7
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
2.1.3. Với Hêghen, triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác
Tư tưởng duy vật của Phoiơbắccó ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết
học của Mác và Ăngghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của
Hêghen và triết học của hai ông. Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí
tuệ nhân loại, chính Mác và Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư
tưởng nhân loại. Kế thừa thành tựu của nền triết học Đức với hai nhà triết học tiêu
biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác. Mác và Ăngghen
đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc,
qua đó hai ông đã nhận thấy triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu
hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Mác và Ăngghen đã kế thừa
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử
khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để
hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có nhiều giá trị đối với quá trình phát triển chủ

nghĩa duy vật, nhưng triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế nhất định như: triết học
của ông chưa thực sự sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện, phủ nhận phép
biện chứng; quan niệm về con người của ông rất hời hợt; phủ nhận vai trò thực tiển sa
vào chủ nghĩa duy tâm khi ông lý giải những vấn đề về xã hội.
2.2.1. Phủ nhận phép biện chứng, chưa khắc phục hạn chế duy vật siêu hình
Trong triết học của Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với
phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được Mác làm giàu bằng phương pháp
biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật.
Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được Mác phát triển
lên một trình độ mới về chất. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc
lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Cũng như các nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải
quyết các vấn đề xã hội. Với phép biện chứng thì lẽ ra Phoiơbắc phải nhìn nhận sự vật
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 8
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
trong mối liên hệ phổ biến, tìm ra các quy luật về sự vận động và phát triển của giới
tự nhiên, con người và tư duy. Ngược lại với phép biện chứng, ông không xem con
người trong mối liên hệ với xã hội, trong những điều kiện sinh hoạt làm cho con
người trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế nên ông vẫn
cứ dừng lại ở một sự trừu tượng, phi thực tiễn thậm chí là hời hợt, ông tuyệt đối hóa
tôn giáo tình yêu - các thời đại khác nhau chỉ trên phương diện thay đổi tôn giáo, đạo
đức nghèo nàn, bất lực… Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự
nhiên, của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên
diễn ra một cách khách quan, từ đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con
người. Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi vật
chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý giải
được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động. Vì những yếu kém và hời hợt về
phép biện chứng như vậy, nên để đạt được cái triết học bay lượn trên tất cả khoa học
riêng biệt và tổng hợp các khoa học ấy lại thành khoa học của các khoa học đối với
Phoiơbắc vẫn là một hàng rào không thể vượt qua.

Như vậy, ngoài sự đóng góp to lớn trong việc đánh thức chủ nghĩa duy vật.
Nhưng nội dung triết học của Phoiơbắc vẫn mang nhiều hạn chế của duy vật siêu
hình, coi vật chất là cái thuần nhất không tồn tại bên ngoài không gian và thời gian,
chính vì vậy mà ông đã tách rời chủ nghĩa duy vật của mình ra khỏi phép biện chứng.
2.2.2. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt
Tuy Phoiơbắc được đánh giá cao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa
duy vật nhân bản, nhưng trong quá trình nghiên cứu tư tưởng triết học của ông chúng
ta có thể nhận thấy hạn chế cơ bản của Phoiơbắc là do đứng trên quan điểm chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng mà quan niệm con người rất trừu tượng và phi lịch sử. Mác và
Ăngghen nhận xét về Phoiơbắc, là ông lấy con người làm xuất phát điểm, song ông
hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy, “con người mà
ông nói luôn là con người trừu tượng con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ,
mà lại sinh ra từ ông thần của các tôn giáo độc thần con người đó cũng không sống
trong thế giới hiện thực” [4]. Khi phê phán Phoiơbắc về quan điểm con người
Ăngghen viết, “về hình thức ông là con người hiện thực chủ nghĩa, ông ấy lấy con
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 9
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
người làm xuất phát điểm, song ông không nói đến thế giới trong đó con người ông
ấy sống, vì vậy con người mà ông nói luôn là con người trừu tượng” [1,275]. Trong
khi đó, trung tâm thế giới quan mới do Mác và Ăngghen đặt nền móng là chủ nghĩa
duy vật về lịch sử, con người không phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành
một sinh thể tự nhiên phổ quát như Phoiơbắc nhận định mà là tiến trình lịch sử. Theo
hai ông, con người khác với động vật trước hết không phải bởi nó có ý thức như
Phoiơbắc nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình các
phương tiện sống.
Vì vậy, con người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp và cực kì
trừu tượng. Thực tế, thì ông không vượt xa hơn các nhà khai sáng Pháp trong quan
niệm về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi là điểm mạnh nhất ở ông,
cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương thời và ở khía cạnh xã
hội, thì Phoiơbắc hầu như không đề cập đến, về sau được Mác nghiên cứu.

2.2.3. Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm
Ông tuyệt đối hóa tôn giáo, theo ông thì các thời đại khác nhau chỉ thay đổi trên
phương diện tôn giáo và ông đã ra sức xây dựng tôn giáo đó là thứ tôn giáo của tình
yêu. Điều này chứng tỏ ông đã sai lầm khi sa vào chủ nghĩa duy tâm, trong tác phẩm
“L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đã phê phán: "Chủ
nghĩa duy tâm thực sự của Phoiơbắc là ở chỗ ông xét các mối quan hệ giữa người và
người dựa trên cảm tình đối với nhau… Phoiơbắc cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có
giá trị đầy đủ, khi người ta đem lại cho chúng một sự tôn phong tối cao bằng cái tên
là tôn giáo" [2]. Và Mác nhận xét “ Phoiơbắc hòa tan bản chất con người và tôn
giáo. Nhưng bản chất con người không là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội” [1,247]. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc lộ rõ ra khi chúng ta nghiên
cứu tới triết học tôn giáo và đạo đức học của ông. Phoiơbắc hoàn toàn không muốn
xóa bỏ tôn giáo, bản thân triết học cũng phải hòa vào tôn giáo.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 10
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC.
3.1 Tổng quan sự ra đời chủ nghĩa Mác:
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một sản phẩm lý
luận của sự phát triển lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với những điều
kiện, tiền đề khách quan của nó.
3.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc là đặc điểm nổi bật
trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước chủ yếu của châu Âu.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng bất công
xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội thêm sâu sắc, những xung đột giữa vô sản và tư

sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
công nhân đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó, triết học Mác là hạt nhân lý luận chung của nó.
Chính sự ra đời của lý luận này đã lý giải một cách khoa học về sự xung đột không
thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản
cách mạng đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
3.1.2 Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều kiện
kinh tế - xã hội mà còn là sản phẩm tất yếu của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử
tư tưởng nhân loại. Triết học Mác ra đời là sự kế thừa biện chứng những học thuyết,
lý luận trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị
học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 11
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của
triết học Mác. Mác đã kế thừa bằng cách lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận
mới của phép biện chứng duy vật; dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết
học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc; đồng thời cải tạo chủ
nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó.
Từ đó C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp,
việc kế thừa và cải tạo những giá trị đó cũng là nhân tố không thể thiếu trong sự hình
thành và phát triển triết học Mác. Việc nghiên cứu những vấn đề triết học về xã hội
trên đã giúp C.Mác đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử, đồng thời xây dựng
nên học thuyết về kinh tế của mình.
3.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu khoa học tự nhiên là những tiền đề cho sự ra đời triết học Mác
bởi mối liên hệ khăng khít giữa triết học và khoa học nói chung. Trong những thập kỷ

đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực
của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới. Mặt khác, với những
phát minh của mình, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư
duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, đồng thời thoát
khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy tâm.
Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học
duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của R.Maye và
P.P.Giulơ, học thuyết tế bào của Svan và Slâyđen, học thuyết tiến hóa của Đácuyn.
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật
chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 12
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
công nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra
đời lý luận mới đã được nhân loại hình thành.
3.2 Vai trò của Phoiơbắc đối với sự ra đời triết học Mác:
Về mặt triết học chủ nghĩa Mác mang ảnh hưởng của hai thành tố: Thuyết biện
chứng nhưng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật máy móc của L.Phoiơbắc.
Học thuyết của L.Phoiơbắc quan niệm tất cả các nhận thức, ý tưởng, suy nghĩ, cảm
nhận hay còn gọi là ý thức là các biểu thị hay phản ánh của vật chất hoặc xuất phát
từ vật chất. Mác tiếp thu thế giới quan này của Phoiơbắc nhưng ông bổ sung thêm
phép biện chứng của Hêghen, gắn phép biện chứng Hêghen với ý tưởng của sự phát
triển liên tục tức chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chính với phát kiến này mà ông đã vượt
qua được cách nhìn của những nhà duy vật trước đó, những người luôn quan niệm thế
giới là không thay đổi. Vì vậy, Phoiơbắc có vai trò quan trọng trong việc hình thành
chủ nghĩa Mác về sau. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là một trong hai
thành tố tạo thành linh hồn của chủ nghĩa Mác: chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Trong xu thế cải biến phương pháp của Hêghen thành vũ khí chống lại tôn giáo,
L.Phoiơbắc (1804-1872) là nhân vật nổi bật nhất. Công trình Bản chất của đạo Cơ đốc
(1841) của ông có sức ảnh hưởng lớn đến các nhà Hêghen trẻ lúc bấy giờ, trong đó có
C.Mác.
Giống như Bauer, Phoiơbắc coi tôn giáo là một hình thức của sự tha hóa. Theo
ông, Thượng đế là bản chất của giống người đã được ngoại tại hóa và được phóng
chiếu thành một thực thể xa lạ. Sự thông thái, tình yêu, lòng nhân từ, vốn là các thuộc
tính của giống người, đã được chúng ta gán cho Thượng đế. Chúng ta càng làm giàu
khái niệm của mình về Thượng đế theo cách này bao nhiêu, thì chúng ta lại càng làm
nghèo chính mình đi bấy nhiêu. Giải pháp là thừa nhận rằng thần học là một thứ nhân
loại học bị mô tả sai. Điều mà chúng ta tin ở Thượng đế trên thực tế chính là điều
chúng ta tin ở chính mình. Vì thế, nhân loại mới có thể tìm lại được bản chất của
mình, vốn đã bị đánh mất trong tôn giáo.
Công trình nói trên không gây ấn tượng mạnh đối với Mác, bởi lẽ những ý tưởng
như thế này, lúc bấy giờ, ông tiếp thu từ Bauer. Chỉ các công trình sau này của
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 13
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
Phoiơbắc, nhất là Luận cương sơ bộ cho việc đổi mới triết học(1843) mới có sức ảnh
hưởng quyết định tới Mác, đánh dấu cho giai đoạn quan trọng tiếp theo trong sự phát
triển tư tưởng của ông.
Các công trình sau năm 1841 của Phoiơbắc đã vượt khỏi sự phê phán tôn giáo
thành sự phê phán bản thân triết học Hêghen. Ông cho rằng quan niệm của Hêghen
xem Tinh thần là lực lượng đang vận động trong lịch sử và con người là những sự
biểu hiện của nó là quan niệm đã đặt nhân loại nằm bên ngoài con người, và do đó
làm cho nhân loại tha hóa khỏi chính mình; thay vì triết học phải bắt đầu từ việc xử lý
các thực tại như Tinh thần, Thượng đế, cái Tuyệt đối như là những thực tại tối hậu và
xem những con người bình thường, các động vật, và các đồ vật trong thế giới vật chất
hữu hạn là sự biểu hiện có hạn chế và không hoàn hảo của thế giới tinh thần, triết học
phải bắt đầu với thế giới vật chất hữu hạn. Không phải tư tưởng có trước sự tồn tại,
mà sự tồn tại có trước tư tưởng.

Mác nắm lấy ngay cái ý tưởng đưa Hêghen xuống mặt đất bằng cách dùng các
phương pháp của Hêghen để công kích điều kiện hiện tại của con người này. Trong
khoảng thời gian ngắn ngủi làm biên tập cho tờ Rheinish Gazette, Mác đã từ trời cao
triết học Hêghen xuống các vấn đề thực tiễn hơn như tình trạng kiểm duyệt, ly hôn.
Khi tờ báo bị đình bản, Mác trở lại với triết học, ông áp dụng kỹ thuật của Phoiơbắc
để cải biến triết học chính trị của Hêghen.
Đến đây, Mác đã theo Phoiơbắc trong việc lý giải lại Hêghen như là một triết gia
về con người. Tuy nhiên, quan niệm của ông về con người lại đặt tiêu điểm vào
phương diện tinh thần của họ, tức các tư tưởng và ý thức của họ. Những dấu hiệu đầu
tiên của một sự chuyển đổi sang sự nhấn mạnh sau này của ông đến các điều kiện vật
chất kinh tế của đời sống con người xuất hiện trong ‘Vấn đề Do Thái’ (1843). Ý
tưởng nổi bật của tiểu luận này ở chỗ nó xem đời sống kinh tế, chứ không phải tôn
giáo, là hình thức chủ yếu của sự tha hóa của con người. Như vậy, cũng trên con
đường cải biến Hêghen nhưng Mác đã lật ngược đầu xuống dưới, bằng cách dùng chữ
“tiền” thay cho chữ “Thượng đế”. Không phải tôn giáo, cũng không phải triết học, mà
chính tiền mới là vật chướng ngại trên con đường đi đến sự tự do của con người.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 14
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
KẾT LUẬN
Nghiên cứu triết học nhân bản của Phoiơbắc giúp ta tìm hiểu về chủ nghĩa nhân
bản của triết học cổ điển Đức. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử xã hội Đức làm cho
triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa khắc phục quan điểm siêu hình,
phủ nhận phép biện chứng, quan niệm về con người của ông rất hời hợt và chưa khắc
phục hoàn toàn chủ nghĩa duy tâm. Mặc dù còn nhiều khuyết điểm, nhưng trong giai
đoạn Phoiơbắc trở về trước chính ông chứ không phải ai khác là người đã khôi phục
được truyền thống chủ nghĩa duy vật một cách rõ ràng.
Triết học cổ điển Đức không chỉ là thành tựu to lớn của tư tưởng nhân loại mà
nó còn là tiền đề lý luận triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Phương
pháp biện chứng duy vật – linh hồn của chủ nghĩa Mác – là kết quả của sự cải biến
chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và phát triển phép biện chứng của Hêghen.

Bải tiểu luận đã giúp ta tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật, phân tích những giá trị và
hạn chế của nó. Nó giúp ta tìm hiểu tư tưởng của Phoiơbắc về các khía cạnh con
người, tôn giáo. Bên cạnh đó, bài tiểu luận trên giúp ta đánh giá, phân tích vai trò
quan trọng của Phoiơbắc đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác một cách chi tiết,
từng giai đoạn cụ thể.
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 15
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và vai trò đối với sự ra đời triết học Mác
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học, phần 1, Lưu hành nội bộ,
ĐH.Kinh Tế TP.HCM, TP.HCM, 2011.
[2]. H.Phuc, Bài dịch L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
15/1/2012, Diễn đàn kiến thức, < c-
phuong-dong/54673-lut-vich-phoi-o-bac-va-su-cao-chung-cua-triet-hoc-co-dien-duc.
>.
[3]. Lê Công Sự, Quan niệm về con người trong triết học L.Phoiơbắc,
16/1/2012, Tạp chí Nghiên cứu con người,
< />[4]. Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của Phoiơbắc về văn hóa và con người,
16/1/2012, Viện triết học,
< />vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat>
[5]. Sự hình thành chủ nghĩa Mác, vai trò của Phoiơbắc
< />marx?showall=&start=1>
[6]. Hồ Xuân Bảo, 2008. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc, Tiểu luận
triết học, ĐH.Sư Phạm Đà Nẵng.
[7]. Lê Thị Thanh Hà, Một số vấn đề triết học về con người trong hệ tư
tưởng Đức, 02/2/2012, Viện triết học,
< />vientriet=articles_deltails&id=767&cat=48&pcat>
[8]. Mác và Ăng-ghen, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
[9]. Mác và Ăng-ghen, Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
[10].Bùi Văn Mưa, Các chuyên đề về triết học Mác – Lênin, phần 2, Lưu hành
nội bộ, ĐH.Kinh Tế TP.HCM, TP.HCM, 2011.

[11]. Đặng Hữu Toàn, Hệ tư tưởng Đức, 02/02/2012, Viện triết học,
< />vientriet=articles_deltails&id=766&cat=48&pcat>
Lương Minh Tú, STT: 76, Lớp Cao học ngày 4 K22 Trang 16

×