Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.75 KB, 12 trang )

Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

TP. HCM, Tháng 12/2012
1 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Gảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Kim Tuyến
STT: 79
Nhóm: 08
Lớp: Cao học Ngày 4
Khóa: K22
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN MỞ ĐẦU
Phoiơbắc nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước Mác, đại biểu nổi tiếng
của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản chủ nghĩa Đức. Phoiơbắc
đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen cũng như chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy
vật.
Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự nhiên tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức con người, là cơ sở sinh sống của con người, tồn tại vận động nhờ
những cơ sở bên trong nó.
Triết học của Phoiơbắc mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị nguyên luận
về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc
tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là óc người. Từ đó cho phép khẳng định mối
quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy. Ông không chỉ chống lại chủ nghĩa duy


tâm, mà với triết học nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan điểm
duy vật tầm thường quy các hiện tượng tâm lý bình thường về các quá trình lý hóa.
Ngoài ra ông còn đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên
chúa, đặt biệt quan niệm về Thượng đế.
Tuy nhiên, triết học của Phoiơbắc không tránh khỏi những hạn chế, thể hiện
qua một số đặc điểm sau: không triệt để chủ nghĩa duy vật, kiên quyết duy vật trong
tự nhiên, chung chung nhân đạo và ảo tưởng trong tình yêu.
Mặc dù còn những hạn chế, triết học của Phoiơbắc vẫn có ý nghĩa to lớn trong
lịch sử triết học Mác và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của
triết học Mác.
Bài viết được tìm hiểu chủ yếu dựa trên tác phẩm “L. Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức” của Ăngghen (1886-1888), ngoài ra còn có sự tham
khảo từ các sách báo, trang báo mạng…
1 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG : 1 NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
.1 Quan điểm Phoiơbắc về giới tự nhiên và con người.
Ông quan niệm, vật chất có trước, ý thức có sau, tồn tại vô cùng đa dạng,
phong phú và tự nó; không gian thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là
phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên; không gian và thời gian tồn tại
khách quan, không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian.
Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân
quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách
quan và tất cả điều đó dẫn đến sự vận động và phát triển của thế giới tự nhiên và cuối
cùng là con người xuất hiện. Con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ
chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của chính mình.
Con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, sống dựa vào giới tự
nhiên chịu ảnh hưởng bởi tự nhiên. Con người dựa vào giới tự nhiên để được thõa

mọi nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, sinh đẻ, Còn những cái đó đã ảnh hưởng đến
tâm tư, tình cảm, đam mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi người, làm cho
người này không giống người kia.
Con người của Phoiơbắc vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng và
nó tiềm tàng một năng lực sáng tạo với bản chất là yêu:
+ Bản tính cá nhân: Phoiơbắc là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản nên không
thể không bàn về tính cá nhân. Mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức. Với bản tính cá nhân, mỗi
người họ đều tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ, chứ không phải xuất phát từ
Thượng đế.
+ Bản tính cộng đồng: Con người được sống, ràng buộc với con người. Mỗi
cá nhân này ràng buộc với cá nhân khác, hạnh phúc của cá nhân chỉ có được khi hòa
hợp với cộng đồng.
+ Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng : Là cơ sở của tính ích kỷ hợp lý-
thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng đồng xã hội. Tính ích kỷ hợp lý
đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân con người phải phù hợp hài hòa với
2 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
quyền lợi chung của cộng đồng xã hội. Ông cho rằng tình yêu giữa con người với
nhau vừa là phương tiện, vừa là mục đích của sụ hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa nó
còn là động lực tiến bộ xã hội.
.2 Quan niệm về nhận thức
Khi đứng vững trên quan điểm duy vật về khả năng con người nhận thức được
và nhận thức ngày càng đầy đủ thế giới, Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con
người chứ không phải lý tính logich trừu tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận
thức. Chủ thể nhận thức cũng không phải là lý tính lôgích trừu tượng mà là con
người sống động, tồn tại trong thức tế có cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là
nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận xủ lý tài liệu cảm tính để khám phá
ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng trong chủ thể đối với đối tượng được
tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có khả

năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên, nhưng đó là một quá trình lâu dài, thông qua
các cá nhân và các thế hệ khác nhau. Nếu một người không thể nhận thức được thế
giới thì tất cả các thế hệ nối tiếp có thể nhận thức được thế giới khách quan vô tận.
.3 Quan niệm Phoiơbắc về tôn giáo.
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của
con người. Tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang đường mà còn
là những mơ ước, khát vọng đời thường của con người. Tôn giáo chỉ là sự tha hóa
bản chất của con người. Còn Thượng đế chỉ là sự tập hợp những giá trị, mơ ước khát
vọng mà con người muốn có. Vì vậy, giá trị, ước mơ, khát vọng của con người như
thế nào thì Thượng đế như thế ấy. Thượng đế là nhân cách cá nhân được thần thánh
hóa. Ông cho rằng, không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người đã
sinh ra Thượng đế.
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới
cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm tha hóa
con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kiềm hãm mà còn tước đi con
người tính năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi
phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo - tín ngưỡng - thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản
– tình yêu – con người.
3 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo. Ông phê phán
mạnh mẽ tôn giáo; nhưng càng phê phán ông càng nhận thức được nếu thiếu tôn giáo
thì con người sẽ khó sống, bởi con người cần có niềm tin để an ủi mình trước cuộc
đời bất hạnh. Vì vậy ông đã ra sức “xây dựng tôn giáo mới – tôn giáo tình yêu vĩnh
cửu phổ quát giữa con người. Trong tôn giáo đó, tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu
cánh của con người để con người thật sự sống đúng như bản tính của mình nhằm
biến trần gian thành thiên đàng trên mặt đất”.
4 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG : 2 NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY

VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC
.1 Những giá trị
.1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại.
Phoiơbắc đã khôi phục chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ
nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển chủ nghĩa duy
vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật; ông biết đặt
con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. Tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có
ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học Mác và Ăngghen lúc bấy giờ.
.1.2. Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học.
Triết học Phoiơbắc là triết học nhân bản, vì thế vấn đề con người luôn được
ông đề cao trong triết học của mình. Triết học Phoiơbắc đầy quan điểm về đạo đức
thể hiện rõ nhân bản dành cho con người, vì con người.
Phoiơbắc khẳng định con người là sự kết tinh toàn bộ giá trị người, mà những
giá trị người đó được tích luỹ trong quá trình vươn đến tự do, và được thể hiện trong
tư tưởng của các vĩ nhân lý trí (triết gia). Bản chất con người là tổng thể những khát
vọng, nhu cầu và cả khả năng tưởng tượng của anh ta.
Phoiơbắc đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng động và sáng
tạo, lợi ích, nhu cầu của con người, thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư sản tiến bộ
muốn giải phóng con người khỏi mọi quan hệ phong kiến bảo thủ ở Đức.
.1.3. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc.
Triết học Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo, đặc
biệt là quan niệm về Thượng đế. Ông chủ trương xóa bỏ sự tách rời giữa tinh thần và
thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tạo ra. Trái với các quan niệm
tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con
người tạo ra Thượng đế. Phoiơbắc cho rằng, Hêghen đã thêu dệt nên cả một huyền
thoại về lý trí, duy lý hoá niềm tin vào Thượng đế thậm chí xem lịch sử tôn giáo là
lịch sử vận động của ý thức phản tỉnh. Ngược lại, Phoiơbắc đưa bản chất tôn giáo về
bản chất con người, loại Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của triết học, đưa
hình ảnh đó về đúng vị trí của nó - thần học.
.2 Những hạn chế.

5 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
.2.1. Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc còn mang nặng tính siêu hình.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc đã
không biết kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen là phép biện chứng.
Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình,coi vật chất như
là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý giải được
nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động. Trọng tâm phân tích của Phoiơbắc là
làm sáng tỏ tính khách quan của tự nhiên, chứ không phải tính biến đổi, tính quy luật,
tính tất yếu khách quan và tính lịch sử của nó.
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học, Phoiơbắc trở
thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so với
các nhà triết học trước đây. Tuy nhiên, ông đã không thấy được phương diện xã hội
của con người. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại
sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, thuộc một giai cấp hay một tầng lớp xã
hội, một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Con người mà ông quan niệm là
con người bị tách khỏi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Như vậy, ông hiểu con
người một cách trừu tượng, phi lịch sử, không thấy được con người là sản phẩm của
xã hội, của lịch sử và càng không thấy được con người là chủ thể của hoạt động.
Trong quan niệm về nhận thức, Phoiơbắc cho rằng thực tiễn là hoạt động bản
năng mang tính thấp hèn, do đó nó cần dược loại ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi
hệ thống triết học, bản thân ông cũng không hiểu chính hoạt động khoa học cũng là
hoạt động thực tiễn, không thấy vai trò của thực tiễn đối với hoạt động nhận thức và
đối với đời sống xã hội.
.2.2. Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc không triệt để, duy tâm trong cách
hiểu về các hiện tượng xã hội
Trong quan niệm về nhận thức, Phoiơbắc cho rằng thực tiễn là hoạt động bản
năng mang tính thấp hèn, do đó nó cần dược loại ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi
hệ thống triết học, bản thân ông cũng không hiểu chính hoạt động khoa học cũng là
hoạt động thực tiễn. Ông coi nhận thức là một quá trình tĩnh lại thụ động của chủ thể

tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình mang tính thực tiễn
năng động, sáng tạo thế giới của con người – chủ thể nhận thức. Ông không chỉ
không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức mà ông cũng không thấy
6 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
được vai trò to lớn của thực tiễn đối với sự hoàn thiện con người, rằng chỉ có lao
động sản xuất con người mới tạo ra cho mình các phương tiện sống, hoàn thiện bản
năng. Và cũng trong quá trình sản xuất đó, con người khám phá ra sức mạnh tự
nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử thế
giới. Vì không thấy trong thực tiễn động lực thúc đẩy xã hội nên ông cố tìm nó trong
tình yêu. Do không xuất phát từ quan điểm thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội,
Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá
đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không
thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc còn thể hiện rõ trong quan niệm của ông vể
tôn giáo. Ông coi mối quan hệ thuần túy giữa người với người là tôn giáo. Trong
khái niệm tôn giáo mới đó, ông coi bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là
một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên
cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng
cần phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã
hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với
sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm. Ngoài ra ông còn duy tâm khi coi lòng
mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó, nó phải là cơ sở của mọi
đạo đức.
7 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG : 3 VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát

triển của tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật và của phép biện chứng. Đó là kết quả của sự phát triển của triết học
duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đồng thời cũng là kết quả của sự
phát triển của phép biện chứng trong cuộc đấu tranh với phép siêu hình, trong lịch sử
triết học. Trong đó tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác là triết học
cổ điển Đức mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc. Mác và Ăngghen
đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc,
qua đó hai ông đã nhận thấy triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu
hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Mác và Ăngghen đã kế thừa
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử
khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở
để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
PHẦN KẾT LUẬN
8 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
Xuất phát từ giới tự nhiên vật chất, Phoiơbắc tìm hiểu các vấn đề về con người
và xây dựng nên chủ nghĩa duy vật nhân bản. Ông coi con người là đối tượng nghiên
cứu của triết học. Ông đối lập chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình với triết học duy
tâm biện chứng của Hêghen trên cả hai bình diện là bản thể luận và nhận thức luận,
đồng thời đòi vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm và cả phép biện chứng của Hêghen…Chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc góp một phần không nhỏ trong nền triết học.
C.mác và Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng
đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của ông. Chính C.mác
và Ăngghen đã nhận thức một cách chính xác những thành tựu và hạn chế của triết
học Phoiơbắc , và dựa trên hệ thống triết học này để xây dựng thế giới quan duy vật
biện chứng của mình.
9 Học viên: Nguyễn Thị Kim Tuyến
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học, phần I, Đại cương về lịch sử Triết
học (dùng cho học viên cao & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học), Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM, 2011.
[2]. Ph.Ăngghen, Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
1888.
[3]. Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, 1977.
a. TS Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của L.Phoiơbắc về văn hóa và con
người, Tạp chí Triết học số 5 (180) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
b. Phó giáo sư – TS Đặng Hữu Toàn, “hệ tư tưởng Đức” – tác phẩm đánh
dấu sự ra đời một thế giới quan mới, một quan niệm duy vật về lịch sử,
Tạp chí Triết học số 1 (176) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=766&cat=48&pcat=
c. TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con
người trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí Triết
học số 11 (186) năm 2006 />vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[4]. Giáo trình triết học,Nxb Sự thật, 2004.
10
Tiểu luận Triết học GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 2
CHƯƠNG : 1NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 2
.1Quan điểm Phoiơbắc về giới tự nhiên và con người 2
.2Quan niệm về nhận thức 3
.3Quan niệm Phoiơbắc về tôn giáo 3
CHƯƠNG : 2NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC 5
.1Những giá trị 5

.1.1.Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại 5
.1.2.Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học 5
.1.3.Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc 5
.2Những hạn chế 5
.2.1.Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc còn mang nặng tính siêu hình 6
.2.2.Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc không triệt để, duy tâm trong cách hiểu
về các hiện tượng xã hội 6
CHƯƠNG : 3VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 8
PHẦN KẾT LUẬN 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
MỤC LỤC 2
10

×