Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.36 KB, 116 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







Họ và tên: Nguyễn Đình Quyết







QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
TẠI HUYỆN YÊN THẾ - TỈNH BẮC GIANG








LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC







Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước, sự
nghiệp giáo dục nước ta đã có chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng, cả về qui mô và loại hình đào tạo. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế; trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam”. Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là mục
tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển
khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất
lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tại, kỹ năng thực hành để một
mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội [10, tr8].
Xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng, đòi hỏi giáo dục cũng

phải biến đổi theo để đáp ứng yêu cầu của xã hội, nó đặt ra cho giáo dục
những thách thức không nhỏ về chất lượng giáo dục, về cơ cấu ngành nghề,
về chất lượng nguồn nhân lực… Vì thế, việc quản lí cũng ngày càng có nhiều
phức tạp và nhạy cảm mà trọng tâm là quản lí nhà trường.
Để giáo dục phát triển thì một trong những nhân tố quan trọng là phải
xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên tiểu
Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
học nói riêng. Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thu Trung ương đã nêu rõ: Tăng
cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn
diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến
lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển và chấn hưng
đất nước [01]. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai – Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã khẳng định “…Khâu then chốt để phát triển chiến lược
giáo dục là đặc biệt chăm lo đào tạo và tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cũng
như đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và
năng lực chuyên môn nghiệp vụ” [02].
Như vậy có thể khẳng định, công tác bồi dưỡng giáo viên nói chung và
đào tạo đội ngũ giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp nói riêng có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc phát triển giáo dục. Đây là vấn đề được Đảng,
Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, việc phát triển công tác này
trong thời gian qua cũng có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Chẳng hạn, việc nhận định và đánh giá hiệu quả của ba chu kỳ
bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên (1992-1996; 1997-2000 và 2003-
2007). Có ý kiến đánh giá kết quả còn hạn chế, nội dung còn bất cập, phương
pháp đánh giá còn chung chung, hình thức và chưa phù hợp. Phần tự học và
vận dụng vào giảng dạy hàng ngày của giáo viên với nội dung bồi dưỡng chưa
được phát huy. Tuy nhiên, khi triển khai Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học thì thực tế việc bồi dưỡng thường xuyên hay các chuyên đề bồi dưỡng

cho giáo viên tiểu học của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Giang, Phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện Yên Thế trong thời gian qua cũng cho thấy chất lượng
chuyên môn của đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng lên qua các đợt hội
giảng, hội chọn thi giáo viên dạy giỏi các cấp, hội thảo chuyên đề…
Trong những năm qua, Yên Thế rất quan tâm và chăm lo đến công tác
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nói chung, đội ngũ giáo viên tiểu học nói riêng.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
Hàng năm đều được tuyển bổ sung giáo viên nên đã cơ bản đủ về số lượng,
đáp ứng nhu cầu dạy học 2buổi/ngày. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là 100%,
trong đó số giáo viên có trình độ trên chuẩn ngày một được nâng lên. Vì vậy,
phần lớn giáo viên có ý thức chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
chuyên môn đã phần nào đáp ứng yêu cầu trong việc nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển trong thời kỳ đổi mới,
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế, bất cập. Một
phần đội ngũ do lịch sử để lại, họ được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều hệ khác
nhau. Tình trạng cơ cấu đội ngũ có nơi thiếu, nơi thừa, có sự mất cân đối giữa
các vùng miền, giữa các môn… đang tồn tại. Chất lượng chuyên môn của một
bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung, chương
trình và phương pháp giáo dục, một bộ phận còn thiếu gương mẫu trong đạo
đức, lối sống, chưa làm tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
Hiệu quả và thành quả thực hiện đạt được cao hay thấp phụ thuộc rất
lớn và đội ngũ nhà giáo. Vì vậy, việc vận dụng lý luận khoa học giáo dục để
phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiểu
học theo chuẩn nghề nghiệp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
là một yêu cầu bức thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý

hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề ngiệp tại huyện Yên
Thế – tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và điều tra khảo sát thực
tiễn công tác quản hoạt động bồi dưỡng của giáo viên cấp tiểu học huyện Yên
Thế, tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
đội ngũ giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp của huyện nhằm đáp ứng
yêu cầu của xã hội.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các biện pháp quản lý của phòng Giáo dục và Đào tạo đối với hoạt
động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiểu học ở huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang
theo chuẩn nghề nghiệp.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiểu học của phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiểu
học theo chuẩn nghề nghiệp trên cơ sở:
- Dựa vào chuẩn nghề nghiệp do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành;
- Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của phòng Giáo dục và Đào tạo;
- Huy động được mọi nguồn lực tham gia vào hoạt động bồi dưỡng;
sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học ở huyện
Yên Thế tỉnh Bắc Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý và quản lý hoạt động bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp.

- Tìm hiểu, phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên tiểu học và
công tác quản lý bồi dưỡng giáo viên học theo chuẩn nghề nghiệp ở huyện
Yên Thế tỉnh Bắc Giang trong 4 năm (2009 - 2012).
- Đề xuất biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên tiểu học theo chuẩn
nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục trong giai đoạn
công nghiệp hóa hiện đại hóa ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên tiểu học của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Thế, tỉnh
Bắc Giang.
6.2. Giới hạn khách thể điều tra
Lãnh đạo, cán bộ phụ trách công tác tổ chức và công tác đào tạo bồi
dưỡng của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và đội ngũ giáo viên các trường tiểu học
trên địa bàn huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Tất cả các trường tiểu học trên địa bàn huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
6.4. Giới hạn số liệu điều tra
Các số liệu điều tra trong 4 năm học (2009 - 2012)
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp các văn kiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các
tài liệu, văn bản của các cấp quản lý về nhiệm vụ phát triển giáo dục- đào tạo,
các tài liệu khoa học có liên quan đến nội dung của đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm

- Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp quan sát
7.3. Các phương pháp bổ trợ khác
- Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp chuyên gia
Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
8. Cấu trúc luận văn
- Mở đầu
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp
- Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ và quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo
viên tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
- Chƣơng 3: Những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
tiểu học theo chuẩn nghề nghiệp
- Kêt luận và khuyến nghị
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục

















Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG
GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
* Tình hình bồi dưỡng đào tạo cán bộ, giáo viên ở một số nước trong
khu vực Đông Nam Á và Châu Á
Như chúng ta đã biết đội ngũ giáo viên đóng vai trò vô cùng quan trọng,
quyết định chất lượng của giáo dục và đào tạo vì “không có hệ thống giáo dục
nào vươn quá tầm của người giáo viên làm việc cho nó”.
Trên thế giới, các nước như Mỹ, Nhật Bản, Singapore… luôn xem giáo
viên là điều kiện tiên quyết của sự nghiệp giáo dục và phát triển giáo dục. Vì
vậy mà khi quyết định đưa giáo dục Mỹ lên hàng đầu thế giới trong thế kỉ
XXI, chính phủ Mỹ đã lấy giáo viên làm then chốt.
Tác giả V.A Xukhomlinxki cho rằng muốn nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên thì phải dự giờ và phân tích sư phạm tiết dạy. Theo ông, người tham
gia dự giờ phải chỉ rõ thực trạng yếu kém của việc phân tích sư phạm tiết dạy.
Thực tế nhiều quốc gia đã khẳng định: “Bồi dưỡng giáo viên là vấn đề
phát triển cơ bản trong phát triển giáo dục”.
Hoạt động bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ các nhà giáo ở các
nước trên thế giới được tổ chức độc lập như các viện nghiên cứu, các trung
tâm bồi dưỡng và đào tạo sư phạm. Ở đa số quốc gia, người ta đã thành lập

trường sư phạm có nhiệm vụ thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo
rất phong phú đa dạng phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
+ Philippin: Công tác bồi dưỡng cho giáo viên không tổ chức trong
năm học mà tổ chức bồi dưỡng vào các khóa học hè.
Hè thứ nhất bao gồm các nội dung môn học, nguyên tắc dạy học, tâm lý
học và đánh giá trong giáo dục.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
Hè thứ hai gồm các môn về quan hệ con người, triết học giáo dục, nội
dung và phương pháp giáo dục.
Hè thứ ba gồm nghiên cứu giáo dục, viết tài liệu giám sát trong giáo dục.
Hè thứ tư gồm kiến thức nâng cao, kỹ năng nhận xét, vấn đề lập kế
hoạch giảng dạy, viết tài liệu giảng dạy sách giáo khoa, sách tham khảo,…
+ Malaysia: Có 3 hình thức bồi dưỡng;
- Lớp bồi dưỡng tập trung trong hè về nghiệp vụ cho Vụ Giáo dục giáo
viên hoặc do cơ quan thanh tra trường học tổ chức.
- Khóa bồi dưỡng từ 6 tháng đến 1 năm cho những giáo viên đã dạy 5
năm, được lựa chọn để trở thành cốt cán.
- Chương trình bồi dưỡng từ qua kênh truyền thông, có sự giúp đỡ của
giáo viên cốt cán ở địa phương, kết hợp với những buổi thuyết trình ở trường
đại học. Hình thức này dành cho những giáo viên tốt nghiệp cao đẳng muốn
lên trình độ đại học.
+ Thái Lan: Chiến lược cải cách sư phạm (1992) chủ trương xác định tỷ
lệ phần trăm kinh phí bồi dưỡng so với kinh phí đào tạo, tạo điều kiện cho
giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, tổ chức các hội thảo, các đợt tập
huấn định kỳ, chú ý trước hết các giáo viên đầu đàn, tạo điều kiện cho họ đạt
trình độ đại học, sau đại học, kể cả đi học tập ở nước ngoài, dựa vào họ để
xây dựng mạng lưới bồi dưỡng, phát huy tác dụng đối với toàn đội ngũ.
Chính phủ chủ trương dành một phần kinh phí để hỗ trợ cho các Hội

khoa học chuyên ngành (toàn, văn, khoa học, nhạc, họa) để họ tổ chức chuyên
môn các hội viên là giáo viên.
Giáo viên phải tham gia các khóa bồi dưỡng ít nhất 5 năm 1 lần hoặc
tùy theo thảo luận, thành tích tham gia các đợt bồi dưỡng là một tiêu chuẩn để
xét đề bạt giáo viên.
Có 3 phương pháp bồi dưỡng:
Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
- Lấy chuyên gia làm trung tâm: Chuyên gia cung cấp kiến thức và kinh
nghiệm, giáo viên tiếp thu và vận dụng.
- Lấy phương tiện làm trung tâm: Sử dụng các phương tiện thông tin để
chuyển tải nội dung huấn luyện đến giáo viên.
- Lấy học viên làm trung tâm: Nhấn mạnh việc giáo viên tự lực thực
hiện chương trình bồi dưỡng với sự giúp đỡ của hướng dẫn viên.
+ Nhật Bản: Ban giáo dục tổ chức các lớp tập huấn ở Trung ương để
bồi dưỡng cho Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên tư vấn bộ môn; hằng
năm gửi 5000 giáo viên ra nước ngoài để học mở rộng tầm nhìn, nâng cao ý
thức nghề nghiệp. Bộ cung cấp kinh phí bồi dưỡng giáo viên cấp tỉnh.
Ban giáo dục tỉnh lên kế hoạch và thúc đẩy việc bồi dưỡng ở các trường
công lập trong tỉnh. Các Trung tâm giáo dục tỉnh với đầy đủ tiện nghi sinh
hoạt, trang thiết bị giáo dục và đội ngũ chuyên môn, có trách nhiệm bồi
dưỡng GVTH.
Từ năm 1989, Nhật Bản quan tâm đặc biệt việc bồi dưỡng giáo viên tập
sự mới được tuyển dụng trong các trường quốc lập, kể cả trường trẻ em
khuyết tật. Chương trình tập luyện tập sự được rải trong một năm học, với
tổng số ít nhất 90 ngày, trong đó 60 ngày là thời gian ở trường để giáo viên
tập sự, các giáo viên tư vấn chỉ đẫn về giảng dạy và không ít hơn 30 ngày
tham dự các buổi giảng bài, hội thảo, thực hành, bao gồm cả 5 ngày tập huấn
ở các trung tâm giáo dục hoặc các cơ sở giáo dục khác ngoài nhà trường. Ban

giáo dục khác ngoài nhà trường. Ban giáo dục tỉnh, thành xây dựng kế hoạch
cụ thể các đợt tập huấn, để tăng cường giao lưu giữa giáo viên của các tỉnh,
các loại trường khác nhau, Bộ tổ chức chuyển đi trên biển 11 ngày với sự hợp
tác của ban giáo dục các tỉnh.
Ban Giáo dục các tỉnh cũng chỉ đạo các lớp bồi dưỡng theo chu kỳ cho
giáo viên sau 5 năm, 10 năm, 20 năm công tác. Một loại hình bồi dưỡng nữa
Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
là các lớp học trực tiếp đáp ứng nhu cầu học tập của giáo viên ở những cương
vị khác nhau như Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên tư vấn.
+ Trung Quốc: Trong 10 năm qua việc bồi dưỡng GVTH tập trung vào
nâng cao trình độ chính trị, văn hóa chuyên môn và gần đây là năng lực giáo
dục, dạy học. Năm 1995, cả nước có hơn 2000 trường bồi dưỡng giáo viên ở
cấp tỉnh và chủ yếu là ở cấp huyện. Trường bồi dưỡng cấp huyện làm nhiệm
vụ bồi dưỡng GVTH. Các trường sư phạm cũng tham gia bồi dưỡng GVTH.
Ngoài ra còn có các chương trình bồi dưỡng giáo viên phát trên đài truyền
thanh và truyền hình. Việc bồi dưỡng giáo viên kiên trì dựa vào hình thức tự
học tại chức, kết hợp với các đợt trung ngắn hạn, quan tâm tới hiệu quả.
+ Triều Tiên: Là một trong những nước có chính sách rất thiết thực về
bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ giáo viên. Tất cả đội ngũ giáo viên đều phải
tham gia học tập đầy đủ các nội dung, chương trình về nghiệp vụ quản lý
chuyên môn theo quy định. Nhà nước Triều Tiên đã đưa ra hai chương trình
lớn được thực thi trong thập kỷ vừa qua. Đó là: “Chương trình bồi dưỡng giáo
viên mới” để bồi dưỡng giáo viên trong 10 năm và chương trình trao đổi,
chương trình đào tạo trong nước.
+ Pakistan: Đối với giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm, có chương
trình bồi dưỡng về sư phạm do nhà nước quy định trong thời gian 3 tháng,
gồm các nội dung như giáo dục nghiệp vụ dạy học, cơ sở tâm lý giáo dục,
phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét học sinh,…

Giáo dục tiểu học (Primary Education) đã có lịch sử phát triển rất lâu
trên thế giới, nhưng cho đến nay vẫn có những quan điểm khác nhau về khái
niệm giáo dục tiểu học.
Quan niện thứ nhất: Coi bậc tiểu học là bậc học cơ sở nhằm chuẩn bị
cho số đông trẻ em ra trường tham gia lao động sản xuất, học nghề hoặc tiếp
lên trung học, hết cấp I đã “phân luồng” học sinh. Số học sinh năm học cấp I
Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
ở các nước theo quan niệm này kéo dài thường tư 7 đến 8 năm. Trong các
nước này, có nước lại chia thời kỳ tiểu học thành 2 giai đoạn: Bậc dưới
(Lower Primary và bậc trên (Upper Primary).
Quan niệm thứ hai: Đa số các nước (Kể cả nước đang phát triển) đã có
truyền thống giáo dục lâu đời như Pháp, Nhật… cho đến nay vẫn coi tiểu học
là bậc học vừa chuẩn bị cho một bộ phần học sinh ra trường tham gia sản
xuất, vừa chuẩn bị cho một bộ phân học sinh tiến lên. Tùy điều kiện và truyền
thống của mỗi nước mà số năm học tiểu học 5 hoặc 6 năm.
Quan niệm thứ ba: Một số nước coi tiểu học là cấp học thuần túy, cấp
học chuẩn bị cho toàn bộ học sinh học tiếp lên. Họ đã tuyên bố hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học. Vì lẽ đó không cần dạy những nội dung có tính
hoàn chỉnh, do đó thời gian dành cho tiểu học chỉ có 3 hoặc 4 năm.
Bậc tiểu học trên thế giới có nước hoàn thành trong 5 năm có nước 6
năm. Mục tiêu chung của trường tiểu học là truyền thụ cho tất cả học sinh
những cơ sở ban đầu để tiếp tục giáo dục ở bậc học trên. Như vậy trường tiểu
học phấn đấu thúc đẩy sự phát triển nhân cách của trẻ, khơi gợi những năng
lực tiềm ẩn, khơi dậy những hững thú và năng lực như tưởng tượng, sáng
kiến, tự lập và hợp tác xã hội, tăng cường niềm vui học tập.
Ở nước ta, mục 2, giáo dục phổ thông, điều 26 Luật Giáo dục 2005 có nêu:
Giáo dục tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp 5.
Tuổi học sinh vào lớp 1 là 6 tuổi. Một số trường hợp từ 7, 8 tuổi.

Tóm lại, giáo dục tiểu học ở đa số các nước, dù có những quan niệm
khác nhau, vẫn là một bậc học, phản ánh trình độ học vấn của một bộ phận
dân cư, thậm chí của số đông cộng đồng dân cư ở một vùng lãnh thổ hay một
số vùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và hệ thống
giáo dục phổ thông nói riêng.
* Khái quát hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở Việt Nam.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
Ngay sau năm 1975, việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên nói chung
được thực hiện trong bối cảnh cả nước phải tập trung phát triển kinh tế, khắc
phục hậu quả khốc liệt do chiến tranh chống Mỹ để lại nên công tác bồi
dưỡng giáo viên nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Chương trình đào tạo giáo
viên ở các vùng miền được tổ chức theo các hình thức khác nhau, nội dung
đào tạo khác nhau dẫn tới trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo
viên cũng khác nhau. Để đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo dục, Đảng và Nhà
nước ta có những chủ trương cấp bách để đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên theo nhiều loại hình khác nhau đặc biệt là đội ngũ GVTH như: đào tạo
chính quy, tại chức, ngắn hạn và cấp tốc theo các hệ khác nhau 4 + 3, 7 + 2, 7
+ 3, 9+3, 10 + 2, dẫn đến trình độ của GVTH không đồng đều.
Từ năm 1986, cả nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện để thực
hiện mục tiêu CNH-HĐH, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng phát triển
giáo dục nhằm tạo động lực phát triển KT-XH. Bắt đầu từ đây, việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đã có những chuyển biến tích cực nhằm dần dần
chuẩn hoá đội ngũ này, mặc dù nguồn ngân sách giáo dục còn rất hạn hẹp. Ba
chu kì bồi dưỡng thường xuyên 1992-1996, 1997-2000 và 2003 - 2007 đã cho
phép đúc rút được những kinh nghiệm bổ ích về hoạt động bồi dưỡng nâng
cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên phổ thông nói chung và GVTH
nói riêng; đồng thời cũng bộc lộ nhiều điều bất cập về nội dung, chương trình,
hình thức tổ chức, cơ sở vật chất, tài liệu, thời gian, và đặc biệt cho thấy

những hạn chế trong các công tác quản lý của các cấp, dẫn đến hiệu quả bồi
dưỡng thường xuyên chưa cao, chưa đáp ứng kịp với sự phát triển giáo dục.
Do đó vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng nâng cao chất lượng của đội ngũ
giáo viên nói chung và GVTH nói riêng còn cần phải tiếp tục nghiên cứu để
đề ra những biện pháp hữu hiệu và có tính khả thi đáp ứng yêu cầu của giai
đoạn mới.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà giáo dục học và các nhà sư phạm cũng
luôn nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp quản lí, nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên. Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học liên quan đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của nhiều tác
giả, tiêu biểu như: Trần Hồng Quân, Trần Bá Hoành, Phạm Minh Hạc,
Nghiêm Đình Vì, Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Ngọc Dũng….
Đề tài do TS Nguyễn Thị Quý (Viện nghiên cứu giáo dục - Trường Đại
học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) thực hiện nhằm khảo sát năng lực giáo
viên tiểu học đồng bằng sông Cửu Long. Theo bà muốn nâng cao năng lực
giáo viên cần thiết phải thực hiện hai vấn đề cơ bản là giáo viên phải có mức
lương đủ sống để nuôi gia đình mà không phải làm thêm nghề khác, giáo viên
được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thiết thực để nâng cao tay nghề. Theo
bà, bồi dưỡng giáo viên tiểu học bằng những công việc cụ thể, hoạt động hỗ
trợ dạy học (xây dựng khối cộng đồng giáo dục: nhà trường- gia đình- xã hội)
hỗ trợ tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện nhiệm vụ được giao, tăng cường
thiết bị phục vụ cho việc dạy học, đặc biệt đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện
đại như máy vi tính, máy chiếu… tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên truy cập
tài liệu, thông tin và áp dụng phương pháp dạy học tích cực có sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin.
Gần đây nhất có dự án phát triển giáo viên thực hành của Bộ GD&ĐT.
Công trình nghiên cứu “Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ

giáo viên” của các tác giả trong trường Đại học Vinh do PGS-TS Nguyễn
Ngọc Hợi chủ nhiệm đề tài đã đề ra được các giải pháp cơ bản, có tính hệ
thống, tính chiến lược để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Song đề tài
này nghiên cứu trên phạm vi rộng với nhiều đối tương giáo viên từ tiểu học
đến trung học phổ thông; mặt khác chưa nghiên cứu, thử nghiệm việc áp dụng
bồi dưỡng theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học. Vì thế nếu đưa vào áp
Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
dụng trên một địa bàn hẹp thì đòi hỏi phải có những giải pháp sao cho phù
hợp với tình hình kinh tế, chính tri, văn hóa và giáo dục của địa bàn đó.
Sự phát triển của giáo dục đòi hỏi ở người thầy phải học tập, được bồi
dưỡng thường xuyên và nhận thức sâu sắc rằng muốn cống hiến được nhiều
hơn cho giáo dục, cho xã hội thì phải biết tích lũy tri thức, muốn tích lũy tri
thức, muốn tích lũy tri thức phải thường xuyên rèn luyện, bồi dưỡng và học
tập suốt đời.
Trong suốt các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, vấn đề bồi
dưỡng cán bộ luôn được chú trọng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết”. Ngay sau cách mạng tháng tám 1945, Người đã quan tâm xây dựng
một nền giáo dục toàn dân, chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên, từng bước
đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng để phục vụ sự nghiệp giáo dục, sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Theo quan điểm của Người thì “ Không thể đáp
ứng được yêu cầu chất lượng GD & ĐT thế hệ trẻ - rường cột xây dựng và
bảo vệ đất nước mai sau, nếu không có một nền giáo dục tốt”.
Các Nghị quyết Đại hội IV, V đặc biệt là đường lối đổi mới do Đại hội
VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã tạo đà cho sự
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, trong đó có giáo dục. Trong những
năm gần đây, đã có nhiều nhà nghiên cứu luận bàn về vấn đề trong lĩnh vực
văn hóa-giáo dục, bồi dưỡng giáo viên. Các tạp chí, tập san, chuyên san, báo

ngành cũng xuất hiện ngày càng nhiều và càng phong phú về nội dung về vấn
đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tuy vậy, những vấn đề lí luận bồi
dưỡng giáo viên vẫn chưa được thể hiện rõ nét, cần phải được làm sáng tỏ
hơn về lí luận và thực tiễn.
Ở nước ta, trong điều 11, Luật Giáo dục 2005 có nêu “Giáo dục tiểu
học là cấp học phổ cập nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo
đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập trong cả nước”. Điều 2 Luật Phổ cập
Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
giáo dục chỉ rõ: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục
quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm
mỹ và thể chất của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn
diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Luật Giáo dục năm 1998 và Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005, 2009 là
những văn bản pháp lí cao nhất của nước ta quy định sự hoạt động thống nhất,
toàn diện trong hệ thống GDQD Việt Nam, tăng cường hiệu lực quản lí Nhà
nước về giáo dục. Với bậc tiểu học “Điều lệ trường tiểu học” ra đời là cẩm
nang trong việc chỉ đạo thực hiện mục tiêu giáo dục và định hướng cho việc
xây dựng đội ngũ giáo viên tiểu học theo phương châm đào tạo kết hợp với sử
dụng, bồi dưỡng giáo viên trên cơ sở đề cao việc tự bồi dưỡng và tự học của
giáo viên.
Chỉ thị 18/2001/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị 40/CT-
TƯ ngày 15/6/62004 của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất lược đội
ngũ nhà giáo và CBQL được ban hành, đã định hướng và tạo hành lang pháp
lí cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên tiểu học, việc bồi dưỡng giáo viên theo
hướng chuẩn hóa, đồng bộ hóa và từng bước hiện đại hóa đặt ra những yêu
cầu mới, vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Ngày 11/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
09/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt dự án: Xây dựng nâng cao chất lượng đội

ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục giai đoạn 2005-2010. Với mục tiêu
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng
cao chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú
trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm
nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”
[09].
Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
Và để đáp ứng được số lượng CBQL, giáo viên đảm bảo về cơ cấu,
chất lượng, Đảng và Nhà nước ta đã coi công tác bồi dưỡng thường xuyên là
rất quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên về chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý giáo dục để đáp ứng nâng cao chất
lượng giáo dục. Trọng tâm là chương trình bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ
1992- 1996, 1997- 2000. Đặc biệt là nhằm đáp ứng với chương trình đổi mới
giáo dục phổ thông ở chương trình bồi dưỡng thường xuyên 2003- 2007 với
mục tiêu:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị cho đội ngũ nhà giáo
và CBQL giáo dục; thực hiện cuộc vận độnghọc tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức người giáo viên nhân dân.
- Nắm vững mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông; nắm
vững yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học theo chương tình sách giáo
khoa. Vận dụng có hiệu quả vào quá trình chỉ đạo, quản lý, dạy học ở trường
tiểu học theo tinh thần bám sát đối tượng, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
địa phương. Đặc biệt là dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ
của từng môn, từng lớp học.
Song song với các chu kì bồi dưỡng thường xuyên còn có các chương
trình đào tạo, đào tạo lại bồi dưỡng chuẩn hóa. trên chuẩn đối với giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục.

Từ thực trạng đội ngũ GVTH của Việt Nam và qua việc tiếp nhận các
tri thức và kinh nghiệm các nước về chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Năm học
2002-2003 dự thảo văn bản Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học được thử
nghiệm ở diện hẹp trên 2200 giáo viên để khảo nghiệm, áp dụng trên diện
rộng, đến tháng 5/2007 văn bản mới chính thức được ban hành. Năm học
2007- 2008, mới chỉ có khoảng 60/% địa phương sử dụng chuẩn nghề nghiệp
GVTH trong quá trình đánh giá, xếp loại GVTH . Số địa phương còn lại do
Số hóa bởi trung tâm học liệu

17
điều kiện khách quan (kinh phí, tài liệu…) chưa tổ chức tập huấn cho giáo
viên. Đến năm học 2008- 2009 mới tiến hành đánh giá, xếp loại theo chuẩn
nghề nghiệp GVTH .
Ngày 4/5/2007, Bộ GD& ĐT đã ban hành quyết định số 14/2007/QĐ-
BGD&ĐT về ban hành Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học [5]. Văn bản
này quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học bao gồm các yêu cầu về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; kiến thức, kỹ năng sư phạm, tiêu chuẩn
xếp loại, quy trình đánh giá, xếp loại GVTH. Quy định này áp dụng đối với
mọi loại hình GVTH tại các cơ sở giáo dục phổ thông trong hệ thống GDQD.
Việc ban hành văn bản quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học đã đưa ra được mục đích, ý nghĩa cho việc bồi dưỡng GVTH như sau:
* Mục đích
- Làm cơ sở để xây dựng, đổi mới nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên tiểu học ở các khoa, trường cao đẳng, đại học sư phạm.
- Giúp GVTH tự đánh giá năng lực nghề nghiệp, từ đó xây dựng kế
hoạch học tập, rèn luyện phấn đấu nâng cao phẩm chất đọa đức, trình độ
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ.
- Làm cơ sở để đánh giá GVTH hằng năm theo quy chế đánh giá xếp
loại giáo viên mầm non và phổ thông công lập ban hành theo Quyết định số
06/2006/ QĐ- BNV ngày 21/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phục vụ công

tác quy hoạch, sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Làm cơ sở để đề xuất chế độ, chính sách đối với GVTH được đánh giá
tốt về năng lực nghề nghiệp nhưng chưa đáp ứng về điều kiện văn bằng của
ngạch ở mức cao hơn.
* Ý nghĩa
- Đánh dấu quá trình chuyển từ xây dựng, phát triển, quản lí đội ngũ
GVTH theo chuẩn trình độ đào tạo (chú trọng nhiều đến văn bằng người giáo
Số hóa bởi trung tâm học liệu

18
viên đạt được) sang phát triển, quản lí đội ngũ GVTH theo chuẩn nghề nghiệp
giáo viên tiểu học (chú trọng nhiều đến văn bằng người giáo viên đạt được)
như ở các nước tiên tiến đang làm. Quá trình chuyển đổi này có thể sẽ kéo dài
năm, bảy hoặc mười năm mới có thể hoàn thành.
- Tạo nên sự thay đổi trong cơ bản quan niệm về người giáo viên, về
chất lượng đội ngũ giáo viên, về yêu cấu nội dung đào tạo, bồi dưỡng GVTH.
Theo quan niệm này, năng lực nghề nghiệp người giáo viên đạt được sau thời
gian hành nghề là hạt nhân quan trọng nhất khi đánh giá và xác định nội dung
đào tạo, bồi dưỡng GVTH.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Hệ thống giáo dục là một hệ thống xã hội. Quản lý giáo dục (QLGD) là
một lĩnh vực quan trọng của quản lý xã hội, cũng chịu sự chi phối của các quy
luật xã hội và tác động của quản lý xã hội. Có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm quản lý, sau đây là một số quan điểm chính.
Thuật ngữ "Quản lý" lột tả bản chất hoạt động điều khiển các hoạt động
của một tổ chức nhằm đạt tới mục tiêu. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là
trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” hoặc “Quản lý là tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.” [24].
Trong thực tiễn, đã có nhiều cách hiểu và biểu đạt về khái niệm quản

lý, tuỳ theo mục đích tiếp cận khác nhau của mỗi tác giả.
- Paul Hersey và Ken Blanc Hard: “Quản lý là quá trình cùng làm việc và
thông qua các cá nhân, các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các
mục đích tổ chức”[19].
- Theo sự phân tích của K.Mác thì "Bất cứ nơi nào có lao động, nơi đó
có quản lý" [14]. Trong tác phẩm: "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" tác giả
HaroldKontz viết "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp
Số hóa bởi trung tâm học liệu

19
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm về thời gian,
tiền bạc và sự bất mãn cá nhân ít nhất" [13].
- Khái quát hơn các tác giả ở khoa Sư phạm - ĐHQGHN là Nguyễn
Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc đưa ra quan niệm: "Quản lý là sự tác động có
chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức" [08, Tr.26].
- Theo tác giả Trần Kiểm: "Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài nước (chủ yếu là nội
lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất"
[15].
Như vậy, quản lí bao hàm cả tri thức và lao động. Giá trị của quản lí
bằng tri thức và lao động cộng lại. Nếu quản lí đạt hiệu quả tốt thì xã hội phát
triển tốt, ngược lại nếu giá trị quản lí đạt hiệu quả thấp thì xã hội không những
không phát triển mà còn tụt hậu.
Như vậy, tất cả các khái niệm trên đây tuy khác nhau song chúng vẫn
có những dấu hiệu chung chủ yếu như sau:
- Hoạt động quản lí được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- Hoạt động quản lí là tác động có tính hướng đích.
- Hoạt động quản lí là những tác động phối hợp nỗ lực của một cá nhân

để nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Từ nhiều góc độ khác nhau, khái niệm quản lí bao gồm các vấn đề cốt lõi sau:
- Ai quản lí? (chủ thể quản lí)
- Quản lí ai? Quản lí cái gì? (khách thể quản lí).
- Quản lí như thế nào? (phương thức quản lí)
- Quản lí bằng cái gì? (công cụ quản lí)
- Quản lí để làm gì? (mục tiêu quản lí)
Số hóa bởi trung tâm học liệu

20
Theo những quan điểm phổ biến hiện nay, quản lí là một hệ thống gồm
4 chức năng sau:
- Kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích
của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu,
mục đích đó. Đây là chức năng đầu tiên của hoạt động quản lí.
- Tổ chức: Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ
giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực
hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
- Lãnh đạo (chỉ đạo): Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người
khác và động viên họ hoàn thành nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu
của tổ chức. Đây là chức năng kết nối hai chức năng trên.
- Kiểm tra: Kiểm tra là hoạt động theo dõi, giám sát các thành quả hoạt
động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết của cá
nhân, nhóm hoặc một tổ chức. Đây là chức năng cơ bản.
Tùy theo từng cấp quản lí mà người quản lí có những bổn phận khác
nhau. Dù người quản lí ở cấp nào đi nữa thì cũng cần phải có các kĩ năng
quản lí hóa; các kĩ năng giao tiếp; các kĩ năng liên nhân cách; các kĩ năng
khái quát nhau. Người quản lí cấp thấp cần nhiều đến các kĩ năng chuyên môn -
kĩ thuật; chức năng khái quát hóa chưa cần ở mức độ cao. Người quản lí cấp cao
lại cần nhiều đến mức độ nhận thức - khái quát, các kĩ năng liên nhân cách - giao

tiếp ở mức độ trung bình, còn các kĩ năng chuyên môn - kĩ thuật chỉ cần ở mức
độ thấp. Người cán bộ quản lí cấp trung gian thì mức độ các kĩ năng được chia
đều cho nhau.
Từ đó có thể khái quát: Quản lí là sự tác động liên tục có tổ chức, có
định hướng của chủ thể (người quản lí, tổ chức quản lí) lên khách thể (đối
tượng quản lí) về mặt chính trị, văn hoá, KT-XH, các chính sách, các nguyên
tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và
điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

21
1.2.3. Quản lí giáo dục
Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người nó được thực hiện một
cách tự giác, nó tồn tại, vận động, phát triển với tư cách là một hệ thống.
Cũng như quản lí nói chung, quản lí giáo dục cũng có rất nhiều quan điểm
khác nhau, quản lí giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo
đuổi những mục đích của mình. Quản lí giáo dục là những tác động tự giác của
chủ thể quản lí đến tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả các mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội yêu cầu.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “QLGD là sự tác động có ý thức
của chủ thể quản lí tới khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ
thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất” [20].
- P.V. Khuđôminxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến
tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục
cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa
của họ” [18, tr. 50]; còn M.I.Kônđakôp khẳng định: “Quản lý giáo dục là tập
hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung
tiêu nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống
giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số

lượng cũng như chất lượng” [17, tr.17].
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, quản lý giáo dục (QLGD) theo nghĩa
tổng quát, là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo
dục quốc dân, điều hành các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu đẩy
mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển của xã hội (Nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài) [03]. Còn theo tác giả Nguyễn Ngọc
Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
Số hóa bởi trung tâm học liệu

22
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất” [21].
Theo tác giả Trần Kiểm, khái niệm quản lý giáo dục đối với cấp vĩ mô:
"QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ quản lý đến tập thể giáo
viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha me học sinh và các lực lượng xã
hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu giáo dục của nhà trường" [16].
Từ đây ta có thể khái quát QLGD là sự tác động chủ đích, có căn cứ
khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan… của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn giáo dục, từ
đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục đạt được các mục
tiêu giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra hai loại QLGD:
+ Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn quốc
trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, thành phố…)

+ Quản lý nhà trường: QLNT ở tầm vĩ mô, trong phạm vi một cơ sở giáo
dục - đào tạo.
QLGD có những đặc trưng riêng khác với mọi quản lí khác:
- QLGD là một hoạt động mang tính xã hội. Bởi mục tiêu phát triển giáo
dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội.
- QLGD là một hoạt động mang tính nhân văn. Nó thu hút mọi thành
viên trong xã hội tham gia và có tác động rất lớn đến mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

23
- QLGD là một hoạt động mang tính sáng tạo. Đối tượng của hoạt động
QLGD là con người với sức sáng tạo là vô tận. Con người là nguồn tài
nguyên vô tận mà nhân loại không bao giờ khai thác hết.
- QLGD là một hoạt động mang tính học thuật và nghệ thuật. Vì QLGD
là quản lí con người với nhiều mối quan hệ phức tạp, đòi hỏi quản lí vừa
mang tính khoa học nhưng cũng vừa phải mang tính nghệ thuật cao.
QLGD chịu sự chi phối và tác động của các quy luật xã hội. Bởi vì hệ
thống giáo dục là một phân hệ trong toàn bộ hệ thống xã hội. Chính vì thế mà
QLGD cũng có các chức năng như kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Đặc
điểm khác biệt của QLGD là quản lí con người với những đặc điểm tâm sinh
lí, năng lực, phẩm chất, nhân cách đa dạng phức tạp. Kết quả giáo dục không
hoàn toàn phụ thuộc vào nhà giáo mà phục thuộc cả vào người học, vào nhận
thức và thái độ học tập của họ. Bởi người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể
của hoạt động giáo dục. Sản phẩm của giáo dục là nhân cách con người, vì
vậy không được phép tạo ra phế phẩm. Đặc điểm tiếp theo QLGD phải mang
tính kế thừa, tính thống nhất, tính toàn diện, tính liên tục, tính phát triển và
tính linh hoạt. Ngoài ra QLGD phải phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ ba môi
trường giáo dục: gia đình -nhà trường - cộng đồng xã hội. Trong đó nhà
trường giữ vai trò trung tâm và có tính quyết định tới chất lượng giáo dục.

1.2.4. Quản lí nhà trƣờng
Nhà trường là trường học, là nơi tiến hành giảng dạy, đào tạo toàn diện
hay về một lĩnh vực chuyên môn nào đó cho học sinh, học viên.
Mười nhân tố đặc trưng cho nhà trường:
- Mục tiêu đào tạo
- Hình thức đào tạo
- Nội dung đào tạo
- Điều kiện đào tạo
- Phương pháp dào tạo
- Môi trường đào tạo.
- Lực lượng đào tạo(thầy)
- Bộ máy đào tạo
Số hóa bởi trung tâm học liệu

24
- Đối tượng đào tạo(trò)
- Quy chế đào tạo
* Điều 48 luật giáo dục 2005 có nêu:
“1. Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các
loại hình sau đây”
a. Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, bảo
đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên;
b. Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động.
c. Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài nhân sách nhà nước.” [06, tr.17].
Khi nói về vị trí của trường tiểu học, điều 2 điều lệ trường tiểu học có
nêu: “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học có tư cách pháp nhân và có

con dấu riêng” [06, tr.1].
Trường tiểu học do Phòng Giáo dục và Đào tạo quản lí, chỉ đạo trực tiếp.
các cơ sở giáo dục tiểu học khác được một trường tiểu học công lập bảo trợ và
quản lí theo quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trường tiểu học do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập.
Quản lí các hoạt động của một nhà trường là Ban giám hiệu, bao gồm
hiệu trưởng và một đến hai phó hiệu trưởng do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
huyên bổ nhiệm theo đề nghị của Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo.
1.2.5. Quản lí giáo viên
Công tác quản lí giáo viên là công việc không thể thiếu được trong hoạt
động của người quản lí. Quản lí giáo viên không chỉ đơn thuần là “coi sóc”
giáo viên làm việc phải đúng thời gian quy định, phải có hồ sơ lên lớp, phải
thực hiện tốt các quy định của cấp trên,… mà “quản lí là quá trình đạt đến

×