Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đánh giá công tác giải phóng mặt bằng tại dự án khu tái định cư xã Kỳ Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.04 MB, 101 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM









ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
TẠI DỰ ÁN KHU TÁI ĐỊNH CƢ XÃ KỲ LONG,
HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số: 60.85.01.03


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn khoa học





THÁI NGUYÊN - 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Những số liệu,
kết quả thu được trong luận văn trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu, báo cáo nào. Tất cả những giúp đỡ trong khi thực hiện đề tài
đều đã được cảm ơn. Các thông tin trích dẫn đều chỉ rõ nguồn gốc. Nếu có gì sai
phạm tôi xin chịu trách nhiệm trước Nhà trường và Pháp luật.
Kỳ Anh, ngày 15 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn





Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong 2 năm học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, được sự nhiệt tình giảng dạy của các thầy cô trong trường nói chung và
trong k
biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học, toàn thể các quý thầy cô đã
giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân,
tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Hƣng - Thầy đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận.

Qua đây, tôi cũng xin chân trọng gửi lời cảm ơn tới các cán bộ ban ngành xã
Kỳ Long, huyện Kỳ Anh và các cán bộ phòng chuyên môn của UBND huyện Kỳ
Anh đã giúp đỡ tôi hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này.
Do trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn, phương pháp nghiên cứu khoá
luận của tôi vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô và bạn bè để luận văn tốt nghiệp của tôi hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.
Kỳ Anh, ngày 15 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn




Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 2
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 3
1.1.1. Mối quan hệ giữa TĐC và thu hồi đất 9
1.1.2. Khái quát về chủ trương, chính sách TĐC của Đảng 12

1.2. Quy trình thực hiện công tác bồi thường hỗ trợ và tái định cư để giải phóng
mặt bằng 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bồi thường, giải phóng mặt bằng 19
1.3.1. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó 19
1.3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 20
1.3.3. Công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 21
1.3.4. Yếu tố giá đất và định giá đất 22
1.3.5. Thị trường bất động sản 24
1.3.6. Công tác đo vẽ thành lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất 24
1.3.7. Trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 25
1.3.8. Thủ tục hành chính 25
1.4. Công tác giải phóng mặt bằng trên Thế giới và trong nước 26

Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv
26
số tỉnh trong nước 32
Chƣơng 2. , NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 42
2.1. Đối tượng, địa bàn nghiên cứu 42
2.2. Nội dung nghiên cứu 42
2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực nghiên cứu: xã Kỳ
Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 42
Kỳ Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 42
42
2.2.4. Đánh giá những thuận lợi và khó
đề xuất phương án giải quyết 42
2.3. Phương pháp nghiên cứu 42
2.3.1. Điều tra các số liệu thứ cấp 42
2.3.2. Điều tra các số liệu sơ cấp 43

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 44
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực nghiên cứu 44
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 44
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của xã Kỳ Long 50
3.1.3. Tình hình sử dụng đất và quản lý đất đai 57
3.2. Đánh giá công tác giải phóng mặt bằng của dự án Tái định cư xã Kỳ Long,
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 60
3.2.1. Tổng quan về dự án Khu tái định cư xã Kỳ Long 60
67
3.2.3. Đánh giá việc thực hiện các qui định, chính sách của Nhà n
72
72
74

Số hóa bởi trung tâm học liệu
v
75
3.2.7. Đánh giá về chính sách hỗ trợ và công tác bố trí tái định cư 76
dân trong khi thực hiện dự án 77
3.3.1. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước 77
3.3.2. Đánh giá tình hình công việc của người dân sau tái định cư 78
79
79
3.4.2. Đề xuất phương án giải quyết và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công
tác bồi th 80
KẾT KUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 84
1. Kết luận 84
2. Đề nghị 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 90



Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB
: Ngân hàng phát triển Châu Á
GPMB
: Giải phóng mặt bằng
HĐND
: Hội đồng nhân dân
NĐ-CP
: Nghị định-Chính phủ
QĐ-UBND
: Quyết định - Uỷ ban nhân dân
QL1A
: Quốc lộ 1A
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
TĐC

THCS
: Trung học cơ sở
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TP
: Thành phố
TT-BTC
: Thông tư Bộ tài chính

TT-BTNMT
: Thông tư - Bộ tài nguyên môi trường
TTLT/BTC-BTNMT
: Thông tư liên tịch/Bộ tài chính-Bộ tài nguyên môi trường
UBND
: Uỷ ban nhân dân
WB
: Ngân hàng thế giới












Số hóa bởi trung tâm học liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành 50
g h 2011 52
Bảng 3.3: Dân số, lao động và việc làm 53
, liên thôn của xã Kỳ Long 55
56
Bảng 3.6: Cơ cấu diện tích các loại đất năm 2012 của xã Kỳ Long 58

Bảng 3.7: Tổng hợp diện tích thu hồi của dự án Formosa tại xã Kỳ Long 61
Bảng 3.8: Đất đai bị ảnh hưởng của dự án Formosa tại địa bàn xã Long 66
Bảng 3.9: Số hộ, số khẩu bị ảnh hưởng của dự án Formosa tại địa bàn xã Kỳ Long 66
Bảng 3.10: Thống kê độ tuổi bị ảnh hưởng của dự án Formosa trên địa bàn Huyện
Kỳ Anh 67
Bảng 3.11: Tổng hợp kinh phí BT - HT - GPMB thực hiện dự án Formosa trên địa bàn
xã Kỳ Long 71
Bảng 3.12: Kết quả di chuyển các hộ trong khu vực
khu tái định cư xã Kỳ Long 75
Bảng 3.13: Kết quả điều tra ý kiến ngư 75
Bảng 3.14: Chính sách hỗ trợ của Nhà nước 77
Bảng 3.15: Kết quả điều tra tái định cư xã Kỳ Long 78
Bảng 3.16: Kết quả điều tra tình hình công việc của những người trong độ tuổi lao
động của dự án 78

Số hóa bởi trung tâm học liệu
viii
DANH MỤC HÌNH

1: Cơ cấu sử dụng đất của xã Kỳ Long năm 2012 58

Số hóa bởi trung tâm học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một trong những tài nguyên có giá trị đối với nhân loại cũng
như của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, là điều kiện vật chất của
mọi ngành sản xuất, sinh hoạt và xây dựng.
Trong tình hình hiện nay, nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường

với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng phát triển. Điều này đã
làm cho việc xây dựng các khu dân cư mới, các khu công nghiệp tăng lên
mạnh mẽ và để có đất phục vụ cho việc xây dựng các công trình, hoàn thiện cơ
sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội ngày càng tăng lên,
hàng loạt các dự án lớn nhỏ được triển khai thực hiện với sự gia tăng đầu tư
trong và ngoài nước cả về quy mô và số lượng thì vai trò, vị trí của công tác giải
phóng mặt bằng, đền bù và bố trí tái định cư ngày càng quan trọng hơn, nhằm
đáp ứng đất đai cho quá trình phát triển là một việc tất yếu.
Đặc điểm của công tác giải phóng mặt bằng, đền bù và bố trí tái định cư là
mang tính nhạy cảm, đa dạng và phức tạp. Trong khi hệ thống pháp luật chính
sách về đất đai và nhà ở hiện nay chưa thực sự hoàn thiện còn nhiều vấn đề bất
cập cần phải sửa đổi, bổ sung cộng với công tác quản lý còn yếu kém gây ra tình
trạng kiện cáo, khiếu nại kéo dài.
Công tác giải phóng mặt bằng, đền bù và bố trí tái định cư liên quan đến lợi
ích của Nhà nước, người bị thu hồi đất. Trong điều kiện đất đai ngày càng có giá trị
cho nên vấn đề lợi ích đó càng cấp thiết hơn, quyết định đến sự thành công hay tiến
độ thực hiện các dự án và thể hiện chính sách công bằng của Nhà nước ta.
Xã Kỳ Long - huyện Kỳ Anh - tỉnh Hà Tĩnh là xã nằm trong vùn
- , đã và đang hình thành hướng đi thích
hợp trong việc khơi dậy tiềm năng và thế mạnh tại địa phương, hoàn thiện xây
dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp ở Kỳ Anh nên công tác giải phóng mặt
bằng, đền bù và bố trí tái định cư ở đây được đẩy mạnh và sôi nổi hơn. Tuy

Số hóa bởi trung tâm học liệu
2
nhiên, hiện nay công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và bố trí tái định cư ở xã
vẫn chưa đạt đựơc hiệu quả cao vì còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết.
Xuất phát từ những vấn đề trên và nhận thấy được tầm quan trọng của công
tác g
: “Đánh

giá công tác giải phóng mặt bằng tại dự án tái định cư xã Kỳ Long, huyện Kỳ
Anh, tỉnh Hà Tĩnh”.
2. Mục đích của đề tài
Đánh giá kết quả công tác giải phóng mặt bằng dự án: Khu tái định cư xã Kỳ
Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”.
Đánh giá ảnh hưởng của công tác giải phóng mặt bằng đến đời sống của
người dân trong khu vực giải phóng mặt bằng dự án: Khu tái định cư xã Kỳ Long,
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Đề xuất phương án giải quyết có tính khả thi và rút ra những bài học kinh
nghiệm cho công tác giải phóng mặt bằng.
3. Yêu cầu của đề tài
- Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực nghiên cứu: xã
Kỳ Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
- tái định cư xã Kỳ
Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
-
.
-
và đề xuất phương án giải quyết.





Số hóa bởi trung tâm học liệu
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
* Khái niệm

Giải phóng mặt bằng là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di
dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất
nhất định được quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình mới.
Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành Hội đồng
giải phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là
một quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên
quan trực tiếp đến các bên tham gia và của toàn xã hội.
Khái niệm TĐC
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay ở Việt Nam,
TĐC cho người dân bị mất đất ở là một vấn đề rất bức thiết, được dư luận quan tâm.
Bởi vậy, thuật ngữ “TĐC” được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như trong cuộc sống của người dân. Nó cũng là một thuật ngữ pháp lý
được đề cập nhiều trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản pháp luật về đất
đai. Vậy “TĐC” là gì?
“Từ điển Luật học” - cuốn sách tập hợp những giải thích trên khía cạnh pháp
lý về các thuật ngữ pháp lý thông dụng không đưa ra định nghĩa về “TĐC”.
Trong “Đại từ điển Tiếng Việt” do Nguyễn Như Ý chủ biên cũng không giải
thích về thuật ngữ “TĐC”. Tuy nhiên, tác giả lại chỉ rõ: “tái: hai lần hoặc lần thứ
hai; lại một lần nữa”

[46, tr.1485]; “định cư: ở lại một nơi nhất định để sinh sống và
làm ăn, phân biệt với du cư” [46, tr.641]. Như vậy, có thể hiểu TĐC là việc một lần
nữa chuyển đến một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn ổn định. Có thể thấy cách
hiểu về TĐC như trên không chỉ áp dụng trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất
của người sử dụng đất mà còn áp dụng đối với một số trường hợp khác không liên
quan đến thu hồi đất như TĐC cho đồng bào dân tộc ít người sinh sống du canh du
cư, hoặc TĐC tự phát của từng người dân riêng lẻ…

Số hóa bởi trung tâm học liệu
4

“TĐC” là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản quy
phạm pháp luật, bởi vậy các nhà làm luật đã có giải thích về thuật ngữ này tại Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc bồi thường, hỗ trợ
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi tắt là Nghị định 197/2004/NĐ-CP). Theo
đó, “người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà
phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
1. Bồi thường bằng nhà ở
2. Bồi thường bằng đất ở
3. Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới” (Điều 4)
Có thể thấy, quy định trên mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra các hình thức TĐC
mà chưa chỉ rõ nội hàm của “TĐC”. Các nhà làm luật mới chỉ liệt kê được các hình
thức TĐC mà chưa định nghĩa được TĐC là gì.
Bởi vậy, trong thực tế, có một số tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau
về TĐC.
Theo tác giả Nguyễn Quang Tuyến, “TĐC là việc người sử dụng đất được bố
trí nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi
thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà
nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở” [39].
Theo tác giả Trịnh Thị Hằng Nga, “TĐC là biện pháp nhằm ổn định, khôi
phục đời sống cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án, khi mà đất định cư cũ bị thu hồi
hết hoặc thu hồi không hết, mảnh còn lại không đủ điều kiện để ở lại nơi ở cũ, phải
di chuyển đến nơi ở mới” [26, tr.66].
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới được ghi nhận trong Khung chính
sách TĐC thuộc khuôn khổ Dự án Quản lý thủy lợi phục vụ Phát triển Nông thôn
vùng Đồng bằng sông Mê Kông (MDWRM-RDP), “TĐC là thuật ngữ chung liên
quan tới việc thu hồi đất và bồi thường cho tổn thất về tài sản khi có di dời, tổn thất
đất, nhà ở, tài sản hoặc phương tiện sinh kế khác” [23, tr.5]. Tuy nhiên, định nghĩa
trên đã đưa ra cách hiểu khá rộng về TĐC, bao gồm cả công tác bồi thường do tổn
thất nhà ở, tài sản hoặc phương tiện sinh kế khác. Theo quan điểm của pháp luật
Việt Nam, những công tác nêu trên thuộc về phạm vi bồi thường về đất và tài sản

gắn liền trên đất. Như vậy, quan điểm của Ngân hàng thế giới và của pháp luật Việt
Nam về nội hàm khái niệm “TĐC” có điểm không tương đồng với nhau.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
5
Xem xét khái niệm TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, có thể thấy rất rõ TĐC là
hậu quả pháp lý của việc thu hồi đất của Nhà nước. Nói cách khác, vấn đề TĐC chỉ
đặt ra khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất của người
sử dụng đất. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có hành vi thu hồi đất
là phát sinh vấn đề TĐC. Để công tác TĐC được tiến hành phải đáp ứng được một
số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật, trong đó điều kiện về thu hồi đất
là tiên quyết, quan trọng nhất.
Khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất, bên cạnh việc tổ chức TĐC
cho người dân không còn chỗ ở thì Nhà nước còn phải thực hiện việc bồi thường,
hỗ trợ cho người sử dụng đất. Như vậy, TĐC chính là một trong các công việc của
hậu thu hồi đất.
Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra khái niệm về TĐC như sau: TĐC là một
trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu
hồi đất và phải di chuyển chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng
nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo
chỗ ở mới. TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước.
TĐC có các đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, TĐC là việc giải quyết hậu quả pháp lý của một hành vi hành
chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi họ ra quyết định thu hồi đất ở của
người đang sử dụng đất
Thứ hai, về đối tượng, TĐC chỉ áp dụng đối với trường hợp người sử dụng
đất ở bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở;
Thứ ba, mục đích của TĐC là nhằm giải quyết chỗ ở mới cho người bị thu hồi
đất và phải di chuyển chỗ ở để giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và sinh hoạt.
Đây là mục đích xuyên suốt trong chính sách, pháp luật về TĐC. Việc di

chuyển chỗ ở đã tạo ra sự xáo trộn lớn trong cuộc sống của người dân bị thu hồi đất,
thậm chí trong rất nhiều trường hợp nó đã tạo ra những bất lợi lớn cho người được
TĐC khi chỗ ở mới không phù hợp với tập quán sinh hoạt, nghề nghiệp cũ của họ.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
6
Bởi vậy, để đảm bảo lợi ích của những đối tượng được TĐC, Đảng và Nhà nước
luôn quán triệt nguyên tắc TĐC là chỗ ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
Thứ tư, TĐC không phải là một biện pháp chế tài của Nhà nước áp dụng đối
với người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà là nghĩa vụ của Nhà
nước đối với người bị thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự án, là
khâu đầu tiên để thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh là một
nửa dự án”. Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước,
của chủ đầu tư, mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của
người bị thu hồi đất.
- Về mặt tiến độ hoàn thành của dự án.
+ Tiến độ thực hiện các dự án phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như:
Tài chính, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, tập quán của người dân trong
diện bị giải toả… Nhưng nhìn chung, nó phụ thuộc nhiều vào thời gian tiến hành
giải phóng mặt bằng.
+ Giải phóng mặt bằng thực hiện đúng tiến độ đề ra sẽ tiết kiệm được thời gian
và việc thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại giải phóng mặt bằng kéo dài gây ảnh
hưởng đến tiến độ thi công các công trình cũng như chi phí cho dự án, có khi gây ra
thiệt hại không nhỏ trong đầu tư xây dựng. Chẳng hạn một dự án dự kiến hoàn thành
đến hết mùa khô nhưng do giải phóng mặt bằng chậm, kéo dài nên việc xây dựng phải
tiến hành vào mùa mưa gây khó khăn cho việc thi công cũng như tập trung vốn, lao
động, công nghệ cho dự án này và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án khác.
- Về mặt kinh tế của dự án: Giải phóng mặt bằng thực hiện tốt giảm tối
đa chi phí cho việc giải toả đền bù, có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các

công trình khác. Giải phóng mặt bằng kéo dài dẫn đến chi phí bồi thường lớn,
không kịp hoàn thành tiến độ dự án dẫn đến sự quay vòng vốn chậm gây khó
khăn cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, các nhà đầu tư trong nước có nguồn vốn hạn
hẹp thì việc quay vòng vốn là rất cần thiết để đảm bảo tận dụng cơ hội đấu thầu
của các công trình khác.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
7
- Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu công tác giải phóng mặt bằng không được thực hiện tốt sẽ xảy ra hiện
tượng “treo” công trình làm cho chất lượng công trình bị giảm, các mục tiêu ban
đầu không thực hiện được, từ đó gây lãng phí rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặt
khác, khi giải quyết không thoả đáng quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị
thu hồi sẽ dễ dàng nổ ra những khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể, làm
cho tình hình chính trị - xã hội mất ổn định.
* Cơ sở thực tiễn
Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa Kỳ Anh đã có nhiều bước
phát triển vượt bậc. Trong quá trình đổi mới phát triển, Huyện đã có nhiều các dự
án quy hoạch phát triển, mở rộng khu dân cư, khu đô thị. Việc thực hiện các dự án
trên đã có nhiều ảnh hưởng tới việc sử dụng và quản lý đất đai của Huyện Kỳ Anh.
Nhất là việc sử dụng đất nông nghiệp, đất ở. Để giải quyết vấn đề đó Huyện đã thu
hồi một phần không nhỏ diện tích đất đang sử dụng và có phương án đền bù.
5 xã tiến
hành giải phóng mặt bằng của Tổng dự án Khu công nghiệp gang thép và cảng sơn
dương của tập đoàn Formosa. Xã nằm tại vị trí trọng điểm của tổng dự án. Dự án đã
thu hồi một diện tích đất đang sử dụng của xã Kỳ Long. Việc thu hồi và đền bù giải
phóng mặt bằng đã thực hiện bước đầu, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Đề tài nghiên cứu chính sách về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
của dự án và đề xuất hướng hoàn thiện chính sách kèm theo các giải pháp thực hiện.
Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá tại địa phương, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất
đai nói chung và hoàn thiện chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
nói riêng trên địa bàn huyện; Góp phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu
kiện của công dân khi bị thu hồi đất đất để thực hiện dự án trên địa bàn.
TĐC là một chính sách nhất quán của Nhà nước được áp dụng thống nhất
trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, các địa phương ban
hành các quy định phù hợp với thực tế của địa phương mình. Có thể nói, TĐC

Số hóa bởi trung tâm học liệu
8
không phải là một chính sách đơn nhất, áp dụng cứng nhắc ở mọi địa phương như
nhau. Bởi lẽ, ở các địa phương khác nhau có sự khác biệt rõ nét về vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội…, dẫn đến việc giải quyết vấn đề nhà ở
TĐC ở các địa phương là không giống nhau. Trong quá trình tìm hiểu về TĐC, có
thể nhận thấy một đặc thù là việc giải quyết TĐC ở đô thị có các hình thức đa dạng
hơn so với ở khu vực nông thôn. Ở khu vực đô thị việc giải quyết TĐC có thể bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong khi ở khu vực nông thôn hầu như chỉ áp dụng hình
thức TĐC bằng đất ở.
Đối với đất đô thị, đất bị thu hồi là đất ở thì được bồi thường bằng tiền, nhà ở
chung cư hoặc đất ở tại khu vực TĐC. Diện tích bồi thường cho mỗi hộ gia đình
theo hạn mức đất ở do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định,
nhưng không được vượt quá diện tích của đất bị thu hồi. Mức tối đa được bồi
thường bằng mức ở nơi ở mới do UBND cấp tỉnh phê duyệt. Trong trường hợp đất
ở bị thu hồi lớn hơn diện tích bị thu hồi thì có thể bồi thường thêm một phần diện
tích đất ở tùy theo quỹ đất tại địa phương, phần còn lại bồi thường bằng tiền. Đối
với đất ở thu hồi thuộc nội thành đô thị loại đặc biệt và loại 1 thì chủ yếu bồi thường
bằng nhà ở hoặc bằng tiền, việc nhận nhà hay tiền do người bị thu hồi quyết định.
Ngoài ra, trong một số ít trường hợp người bị thu hồi đất cũng có thể được bồi
thường bằng đất ở nếu như thỏa mãn điều kiện: có dự án TĐC ở ngay trong khu vực
thu hồi đất, TĐC ở các khu quy hoạch dân cư hoặc các khu dân cư khác thuộc nội

đô thị đó đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đối với đất ở thu hồi
tại các đô thị khác không thuộc loại đô thị đặc biệt và loại 1 thì được bồi thường
bằng đất, bằng tiền hoặc nhà ở theo đề nghị của người có đất bị thu hồi. Trong
trường hợp trong nội đô thị không có đất để bồi thường thì bồi thường bằng đất ở tại
ngoại đô thị [14, tr.65-66].
Đối với khu vực nông thôn, TĐC chủ yếu được thực hiện dưới hình thức
TĐC bằng đất ở. Đó có thể là đất ở xen dắm trong các khu dân cư, hoặc cũng có thể
là đất ở tập trung trong các khu TĐC được quy hoạch. Chỉ trong trường hợp người
bị thu hồi đất không có nhu cầu nhận đất ở TĐC mà yêu cầu nhận bồi thường bằng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
9
tiền để tự lo chỗ ở mới thì họ sẽ được đáp ứng. Riêng đối với hình thức TĐC bằng
nhà ở hầu như không được áp dụng đối với việc TĐC ở khu vực nông thôn.
Lý do dẫn đến tình trạng như trên xuất phát từ thực trạng quỹ đất ở hiện
nay ở các địa phương. Đối với khu vực đô thị, với việc gia tăng nhanh dân số thì
nhu cầu về nhà ở cũng tăng lên tương ứng, bởi vậy quỹ đất ở hạn hẹp tại khu vực đô
thị không thể đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Bởi vậy, việc TĐC bằng đất ở là rất khó
thực hiện, đặc biệt là tại các đô thị loại đặc biệt và loại 1; giải pháp TĐC bằng nhà
ở, nhất là nhà chung cư cao tầng là lựa chọn hợp lý. Riêng đối với khu vực nông
thôn, nơi mà quỹ đất ở về cơ bản có thể đáp ứng được yêu cầu TĐC thì việc TĐC
bằng đất ở là chủ yếu được coi là một lựa chọn khôn ngoan, bởi lẽ nó vừa giảm chi
phí cho Nhà nước khi không phải xây dựng nhà ở TĐC, vừa đảm bảo hơn quyền lợi
của người có đất bị thu hồi.
1.1.1. Mối quan hệ giữa TĐC và thu hồi đất
1.1.1.1. Một số vấn đề khái quát về thu hồi đất:
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Chế độ sở hữu này khác hoàn toàn so với chế độ tư hữu đất đai được thừa nhận
ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xuất phát từ điểm khác biệt cơ bản này mà việc thu
hồi đất ở nước ta cũng có nhiều điểm đặc thù.

- Khái niệm thu hồi đất:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
quản lý theo quy định của Luật Đất đai (Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai 2003). Như
vậy, thu hồi đất là một biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai để
phục vụ cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, hoặc xử lý vi phạm pháp luật đất đai
của người sử dụng đất. Hình thức pháp lý của thu hồi đất được thể hiện bằng một
quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Đặc trưng của thu hồi đất:
Thứ nhất, thu hồi đất là một quyết định hành chính của người có thẩm quyền
nhằm chấm dứt quan hệ sử dụng đất của người sử dụng đất

Số hóa bởi trung tâm học liệu
10
Thứ hai, thu hồi đất là quyết định hành chính thể hiện quyền lực Nhà nước
nhằm thực thi một trong những nội dung của quản lý Nhà nước về đất đai
Thứ ba, việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là
biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý hành vi vi phạm pháp luật đất đai của
người sử dụng đất
- Các trường hợp thu hồi đất:
Như đã nói ở trên, thu hồi đất là quyết định hành chính của người có thẩm
quyền nhằm chấm dứt quan hệ sử dụng đất của người sử dụng đất. Như vậy, có thể
thấy tất cả các trường hợp thu hồi đất đều dẫn tới một hệ quả như nhau là quyền sử
dụng đất bị chấm dứt. Tuy nhiên, các trường hợp thu hồi đất trên thực tế lại có sự
khác nhau về bản chất pháp lý, cụ thể như sau:
- Nhóm thứ nhất: các trường hợp thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước, của xã hội
Đây là các trường hợp thu hồi đất không do lỗi của người sử dụng đất gây ra
mà do nhu cầu của Nhà nước, của xã hội để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; ví dụ: thu hồi đất để xây dựng khu
công nghiệp, thu hồi đất để làm đường…. Do vậy, các trường hợp thu hồi đất này

người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản
trên đất; được xem xét hỗ trợ; TĐC.
- Nhóm thứ hai: các trường hợp thu hồi vì các lý do đương nhiên
Đây là các trường hợp thu hồi đất không do lỗi của người sử dụng đất gây ra
và cũng không xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước, của xã hội mà việc sử dụng đất
bị chấm dứt bởi các sự kiện pháp lý hay tình huống bất khả kháng. Ví dụ: thu hồi
đất do cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự
nguyện trả lại đất; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia
hạn khi hết thời hạn Trong các trường hợp này, người sử dụng đất không được bồi
thường về đất. Họ có thể được xem xét hỗ trợ một phần kinh phí bồi thường thiệt
hại về tài sản trên đất.
- Nhóm thứ ba: các trường hợp thu hồi đất do người sử dụng đất vi phạm
pháp luật đất đai.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
11
Đây là các trường hợp thu hồi đất do lỗi vi phạm pháp luật đất đai của người
sử dụng đất gây ra. Ví dụ: sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có
hiệu quả, người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất, người sử dụng đất không thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước … Các trường hợp thu hồi đất này, người sử dụng đất
không được bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Họ chỉ có thể được Nhà nước xem xét, hỗ trợ
một phần kinh phí cho việc di dời.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa thu hồi đất và TĐC:
Xuất phát từ cách phân loại các trường hợp thu hồi đất, có thể thấy mỗi
nhóm trường hợp thu hồi đất sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định. Hay nói cách
khác, đối với các nhóm trường hợp khác nhau, Nhà nước đều có hướng xử lí khác
nhau, tùy vào bản chất pháp lý của từng trường hợp. Đối với nhóm trường hợp thứ
hai và thứ ba, việc thu hồi đất của Nhà nước là xuất phát từ nguyên nhân khách
quan (vì các lí do đương nhiên hoặc vì người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp
luật đất đai). Bởi vậy, Nhà nước không có trách nhiệm phải bồi thường, hỗ trợ,

TĐC. Có chăng, Nhà nước chỉ áp dụng một số biện pháp nhất định hỗ trợ cho người
bị thu hồi đất. Chỉ có nhóm thứ nhất việc thu hồi đất được tiến hành là do ý muốn
chủ quan của Nhà nước, do đó người bị thu hồi đất được Nhà nước bồi thường thiệt
hại về đất và tài sản gắn liền trên đất, được hỗ trợ, TĐC.
Như vậy, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC chỉ đặt ra đối với nhóm trường hợp
thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước và xã hội để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Có thể thấy cách tiếp cận thu
hồi đất ở góc độ này giống với quan điểm về thu hồi đất của Ngân hàng Thế giới:
Thu hồi đất - là quá trình trong đó một cá nhân, hộ gia đình, công ty hoặc cơ sở tư
nhân bị một cơ quan Nhà nước buộc chuyển giao một phần hoặc toàn bộ đất đai mà
họ sở hữu hoặc chiếm hữu sang cho cơ quan Nhà nước đó sử dụng hoặc chiếm hữu
vì các mục đích công và được bồi thường với mức chi phí thay thế [23, tr.5]. Sở dĩ
hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước trong trường hợp này khác
hẳn so với các nhóm trường hợp thu hồi đất còn lại là do ở trường hợp này người sử
dụng đất không có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật đất đai nào, cũng như không hề

Số hóa bởi trung tâm học liệu
12
có bất kỳ một lý do đương nhiên nào dẫn đến việc chấm dứt quyền sử dụng đất của
họ. Theo quy định, quyền sử dụng đất của họ đang được pháp luật bảo vệ. Bởi vậy,
khi Nhà nước thu hồi đất của họ thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường, hỗ
trợ và trong một số trường hợp phải bố trí TĐC cho họ nếu họ phải di chuyển chỗ ở.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy TĐC là một trong các trách nhiệm hậu
thu hồi đất của Nhà nước. TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà
nước. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, chỉ khi có
hành vi thu hồi đất mới phát sinh vấn đề TĐC. Hay nói cách khác, thu hồi đất chính
là tiền đề, là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất để công tác TĐC được tiến hành.
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ hành vi thu hồi đất chỉ là điều kiện cần; người bị
thu hồi đất để được TĐC còn cần đáp ứng được một số điều kiện đủ khác.
1.1.2. Khái quát về chủ trương, chính sách TĐC của Đảng

1.1.2.1. Sự cần thiết của việc xây dựng chính sách TĐC
Ở bất kỳ quốc gia nào, đất đai cũng được đánh giá là tài nguyên quốc gia vô
cùng quan trọng, là tư liệu sản xuất không thể thay thế. Ý thức được tầm quan trọng
của đất đai, kể từ khi thành lập, Đảng ta đã luôn chú trọng đến vấn đề này. Trải qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng ta luôn kịp thời đề ra các chủ trương, chính
sách đất đai cho phù hợp với những thay đổi, phát triển của cách mạng Việt Nam.
Bởi lẽ “đất đai là hàng hóa đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn, rất quý
của đất nước, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc” [21, tr3]
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng,
nhất là đối với đất để phục vụ phát triển hạ tầng, thực hiện các dự án đầu tư… thì
quỹ đất nhàn rỗi của Nhà nước không đáp ứng được. Bởi vậy, việc thu hồi đất đối
với người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là việc làm không thể
tránh khỏi. Một khi vấn đề thu hồi đất được đặt ra sẽ ảnh hưởng đến nhiều chủ thể
liên quan, trong đó người bị thu hồi đất là người chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Nếu
không quan tâm giải quyết nhanh chóng, đúng mức, đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất thì việc thực hiện thu hồi đất chắc chắn sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Điều này đã được kiểm nghiệm trên thực tế. Trong thời gian qua,

Số hóa bởi trung tâm học liệu
13
70% khiếu kiện thuộc về lĩnh vực đất đai, trong số đó khiếu kiện về bồi thường, hỗ
trợ, TĐC chiếm số lượng rất lớn, lại là khiếu kiện kéo dài. Có thể nói, giải phóng
mặt bằng nói chung và TĐC nói riêng là vấn đề gây bức xúc dư luận và việc giải
quyết nó là một bài toán làm đau đầu các cơ quan hữu quan. Bởi vậy, Đảng và Nhà
nước cần phải ban hành những chính sách hợp lí để vạch ra phương hướng, đường
lối giải quyết vấn đề này, nhằm ổn định cuộc sống cho người bị thu hồi đất, đồng
thời góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách TĐC:
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 và các
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tiếp theo, Đảng ta chủ trương thực hiện

“ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng
pháp luật việc thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất” [10, tr.68). Thể chế hóa
quan điểm của Đảng về trao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình,
cá nhân và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, ngày
14/7/1993, Luật Đất đai năm 1993 được ban hành, quy định khá cụ thể về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Quan điểm của Đảng về vấn đề đất đai
nói chung và bồi thường thiệt hại, TĐC nói riêng tiếp tục được khẳng định tại
các Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI và các Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa. Đặc biệt tại Nghị quyết 26/NQ-TƯ
ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đề ra những chính sách quan trọng về bồi
thường thiệt hại, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:
- Chính sách đất đai phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người đầu
tư và người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước,
của xã hội.
- Nhà nước có quyền thu hồi đối với đất nông nghiệp được quy hoạch vào
mục đích xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng;

Số hóa bởi trung tâm học liệu
14
- Cần thực hiện các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo nghề để tạo
việc làm, đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện pháp hỗ trợ khác để
giải quyết một cách cơ bản việc làm và thu nhập cho người nông dân có đất bị thu
hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội;
- Khi Nhà nước thu hồi đất mà cá nhân hoặc tổ chức đang sử dụng hợp pháp
để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển sản xuất - kinh doanh, Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường, TĐC, đào
tạo nghề và hỗ trợ việc làm. Nhà nước không bồi thường đối với đất lấn chiếm, đất
sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích;

- Chính phủ quy định khung giá đất cho từng địa bàn, trong từng thời gian
(có điều chỉnh theo tình hình thực tế) và nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định giá cụ thể làm căn cứ bồi
thường khi thu hồi đất;
- Phải lập và xây dựng khu TĐC trước khi thu hồi đất đối với những dự án
thu hồi đất đang sử dụng; đồng thời chú trọng đào tạo để chuyển đổi nghề cho lao
động TĐC. Việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC và đào tạo việc làm theo nguyên tắc “bảo
đảm cho người bị thu hồi đất đến chỗ ở mới có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt
hơn nơi ở cũ”;
- Nhà nước có quy hoạch tổng thể về sử dụng đất trên địa bàn cả nước, tạo
điều kiện cho các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch đồng bộ việc bồi thường, TĐC
và hỗ trợ đào tạo việc làm khi thu hồi đất;
Như vậy, Nghị quyết số 26/NQ-TƯ đã đề ra quan điểm, đường lối khá đầy đủ
và toàn diện về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Quan điểm,
đường lối này có ý nghĩa hết sức quan trọng và đã được Luật Đất đai 2003 thể chế hóa,
tạo cơ sở pháp lý cho việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2. Quy trình thực hiện công tác bồi thƣờng hỗ trợ và tái định cƣ để giải
phóng mặt bằng
Bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói chung và công tác TĐC nói riêng là khâu then
chốt, quyết định trong quá trình Nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc

Số hóa bởi trung tâm học liệu
15
phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế. Chỉ
khi các công tác này được thực hiện tốt, đảm bảo được lợi ích của các bên, đặc biệt
là lợi ích của người dân có đất bị thu hồi thì việc thu hồi đất mới được tiến hành
một cách thuận lợi. Xuất phát từ tầm quan trọng đó mà Nhà nước quy định một
cách tương đối đầy đủ, chặt chẽ về trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ,
TĐC tại Luật Đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-CP; Nghị định 69/2009/NĐ-
CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá

đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC (sau đây gọi là Nghị định 69/2009/NĐ-
CP). Xét một cách tổng quát, trình tự, thủ tục thực hiện TĐC bao gồm các bước sau:
(i) Lập, thẩm định và phê duyệt phương án TĐC; (ii) Công khai phương án TĐC;
(iii) Chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
Phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC là một nội dung của dự án
đầu tư được nhà đầu tư lập và được phê duyệt cùng với phê duyệt tự án đầu tư.
Trường hợp dự án đầu tư không phải trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt hoặc không phải cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì UBND cấp huyện nơi có đất
có trách nhiệm xem xét, chấp thuận về phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và
TĐC. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng giúp nhà đầu tư lập
phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC. Nội dung phương án tổng thể về
bồi thường, hỗ trợ và TĐC bao gồm: (i) Diện tích các loại đất dự kiến thu hồi; (ii)
Tổng số người sử dụng đất trong khu vực dự kiến thu hồi đất; (iii) Dự kiến số tiền
bồi thường, hỗ trợ; (iv) Việc bố trí TĐC (dự kiến về nhu cầu, địa điểm, hình thức
TĐC); (v) Dự kiến thời gian và kế hoạch di chuyển, bàn giao mặt bằng.
Sau khi dự án đầu tư được phê duyệt, căn cứ quy mô thu hồi đất để thực hiện
dự án đầu tư, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư có thể quyết định tách
nội dung bồi thường, hỗ trợ, TĐC thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc
lập (K1Đ33 NĐ69). Thời điểm tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, TĐC thành tiểu dự
án riêng là thời điểm chấp thuận hoặc xét duyệt dự án đầu tư. Tiểu dự án đầu tư sau
khi được phê duyệt được thực hiện độc lập nhưng phải phù hợp với tiến độ thực
hiện của dự án đầu tư (Đ21 TT14/2009.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
16
* Lập, thẩm định và phê duyệt phương án TĐC:
Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh giao việc thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường gồm:
- Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và TĐC cấp huyện;
- Tổ chức phát triển quỹ đất.

Theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 69/2009/NĐ-CP
và Thông tư 14/2009/TT-BTNMT, phương án TĐC được thực hiện như sau:
Thứ nhất, lập phương án TĐC:
Sau khi dự án đầu tư được xét duyệt hoặc chấp thuận thì Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ, TĐC hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất có trách nhiệm lập và trình
phương án bồi thường, hỗ trợ và TĐC theo quy định pháp luật. Nội dung phương án
bồi thường, hỗ trợ, TĐC gồm: (i)Tên, địa chỉ của người bị thu hồi đất; (ii) Diện tích,
loại đất, vị trí, nguồn gốc của đất bị thu hồi; số lượng, khối lượng, tỷ lệ phần trăm
chất lượng còn lại của tài sản bị thiệt hại; (iii) Các căn cứ tính toán số tiền bồi
thường, hỗ trợ như giá đất, giá nhà, công trình, số nhân khẩu, số lao động trong độ
tuổi, số người được hưởng trợ cấp xã hội; (iv) Số tiền bồi thường, hỗ trợ; (v) Việc
bố trí TĐC; (vi) Việc di dời các công trình của Nhà nước, của tổ chức, của cơ sở tôn
giáo, của cộng đồng dân cư; (vii) Việc di dời mồ mả.
Thứ hai, lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC:
Niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC tại trụ sở UBND cấp
xã và tại các điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi để người bị thu hồi đất
và những người có liên quan tham gia ý kiến;
Việc niêm yết phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp
xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, đại diện những người có đất bị thu hồi;
Thời gian niêm yết và tiếp nhận ý kiến đóng góp ít nhất là 20 ngày, kể từ
ngày đưa ra niêm yết.
Thứ ba, hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC
Hết thời hạn niêm yết và tiếp nhận ý kiến, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, nêu rõ

×