Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu Luận Triết Học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.16 KB, 28 trang )

G
V


Đề t
à
V
HD: TS.B
à
i số 3:
“S

ùi Văn M
ư
TR
Ư
PHÒ
N
T

TƯƠ
N
N
H
ư
a
BỘ GI
Á
Ư
ỜNG Đ


N
G QUẢN
T
IỂU L
U
N
G ĐỒ
N
H
O GI
A
Tp. Hồ
Á
O DỤC V
À

I HỌC K
I
LÝ ĐÀO
U
ẬN T
R
N
G VÀ
K
A
VÀ P
H
Chí Minh,
0

H
V
À
ĐÀO T

I
NH TẾ
T
TẠO SA
U
R
IẾT H

K
HÁC
B
H
ÁP G
I
SVTH:
H
STT: 15
Nhóm: 2
Lớp: Cao
GVHD:
T
0
5/2011
V
TN: Hồ

N

O
T
P. HCM
U
ĐẠI HỌ
C

C
B
IỆT
G
I
A”
H
Ồ NAM
Đ
học Đêm
1
T
S.Bùi Văn
N
am Đông
C

G
IỮA
Đ
ÔN

G

1
– K20

a






 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm





NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
PHẦN II: NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: Khái quát Nho gia và Pháp gia 2
I. Khái quát Nho gia 2
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 2
2. Các quan điểm của Nho gia 4
II. Khái quát Pháp gia 5
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 5
2. Các quan điểm của Pháp gia 7
CHƯƠNG 2: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 9
I. Sự tương đồng 9
II. Sự khác biệt 10
1. Về
trị quốc 10
2. Về chính trị - xã hội 16
3. Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền 19
4. Tư tưởng biện chứng 19
5. Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người 20
PHẦN III: KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 1


GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn
thiện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc
nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung
Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển
rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm
thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của
triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp
gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận
ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói
chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm
chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong
nh
ững nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải
xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư
tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.
Đề tài tiểu luận sử dụng Tài liệu triết học phần 1 - Đại cương về lịch sử triết
học của Tiểu ban triết học - Khoa lý luận chính trị Trường đại học kinh tế Tp.HCM
và một số tài liệu tham khảo về triết học, nho gia, pháp gia để xem xét và phân tích
sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa
đã tận tình giảng dạy những

kiến thức Triết học, hướng dẫn thực hiện đề tài và sự cộng tác thực hiện của các
thành viên trong nhóm để tôi hoàn thành bài viết này.
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 2

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
I. Khái quát Nho gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
a) Lịch sử hình thành:
(
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đ
ính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tă
ng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra
các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử
đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần
(tr

ước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành
hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 3

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều
mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng.
Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này đượ
c gọi là Hán
Nho
[cần dẫn nguồn]
. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp
trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ
và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu
giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay
được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ
thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình").
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu
tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) ph

ục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
b) Đặc điểm của Nho gia:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội.
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người
cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử =
chỉ tầng lớ
p trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 4

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng,
phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo
đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng
đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con ng
ười ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải
có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung
cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên
lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do
Nho gia đề xướng (hoặc như
họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời
giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời.
Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải
hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
2. Các quan điểm của Nho gia: (Bộ Giáo dục và Đào t
ạo; Giáo trình triết
học – Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học; NXB. Lý luận chính trị; Hà Nội; năm 2007).
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng con

người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn
được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối quan hệ
mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệ
m của mình trong các quan hệ ấy
là Vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính là
vua tôi, cha con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt
là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa
trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong
đ
ó nhân là chủ. Vì vậy, gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 5

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ năm mối
quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra người khác. Trong hoàn cảnh xã hội,
Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt tích cực và
hạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những
lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của
con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là
sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
II. Khái quát Pháp gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm: />
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng
Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị
nước. Tư tưở
ng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có

giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲) là một chính trị
gia, nhà quân sự
và nhà tư tưởng Trung Quốc thời
Xuân Thu (685 TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược
không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn
biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt
và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại
hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế.
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 6

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định
danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị
những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải.
Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối
Nho gia với Pháp gia.
Sang n
ữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị
được tiếp tục phát triển. Thương Ưởng (埠鱉 - khoảng
390 TCN-338 TCN) được vua Tần tin dùng áp dụng
chính sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủ
trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách
khuyến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu.
Thân Bất Hại (401-337 TCN) chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo
(370-290 TCN) chủ trương dùng thế

, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn
làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì
nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (鴎鰣 - khoảng 280 -
233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến
Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính
ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con
người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân
nghĩa, c
ũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao
phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia
để trị nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để
nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về
kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ
trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể
viện dẫn
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 7

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như
trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng
pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc
bấy giờ.
2. Các quan điểm của Pháp gia: (Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giáo trình triết học
– Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triế
t học; NXB. Lý luận chính trị; Hà Nội; năm 2007).
a) Trị nước phải kết hợp các yếu tố:
Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế

Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
• Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì
điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm
đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm
điều thiện, ngăn ngừa
điều ác. Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 hạng
người: bọn hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo
ngược, ngạo mạn; bọn dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe
khôn, dối trá. Và khuyến khích được 6 loại người : những người lăn mình vào
chốn hiểm nghèo, dám hi sinh; nhữ
ng người tuân theo pháp luật; những người
dốc sức làm ăn, làm lợi cho đời; những người trung hậu, thật thà, ngay thẳng,
hiền lành; những người giết giặc trừ gian và những người làm sáng tỏ lệnh trên.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: nguyên tắc 1: thiên
thời, địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân
nhắc kỹ càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạ
n thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi
hành, phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 8

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

công bằng, phải mang tính phổ biến. Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã
hội, tất cả thần dân; không phân biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm
tội thì phải chịu tội, tội nặng hay nhẹ đều không được bỏ qua. Ông cũng đòi hỏi
bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp,
không hành động trái pháp.
• Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệ
p, hạn chế buôn bán (ức thương), tập
trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội

mạnh.
• Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết
chiến tranh.
• Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu l
ược
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai
dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt thì dân không
loạn, quan lại xấu thì dân nổi loạn. Thuật dựa trên hai nguyên tắc, thứ nhất bề tôi
tức là quan lại không làm hết trách nhiệm hay vượt quá trách nhiệm của mình đều
bị phạt; thứ hai là “Công”, “Danh”
tức là lời nói và việc làm của quân thần
không cân xứng cũng phạt. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao
đúng chức vụ, quyền hạn và loại được kẻ bất tài.
• Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào
thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện
pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn, thế quan
trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được
pháp thì phải có thế, Pháp và Thế không thể tách rời nhau.
b) Tư tưởng biện chứng:
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 9

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

- Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi
chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù
hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt,
không dùng lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Đại diện Hàn Phi
Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại.
Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi

mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực
lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã
hội. Ông yêu cầu con người phải n
ắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà
hành động cho phù hợp.
Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ xấu
thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ
làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác.
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ
PHÁP GIA
I. Sự tương đồng
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những điểm
tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này:
- Thực túc = Nông nghiệp
- Binh cường = Chiến tranh
>>> Hướng đến sự thái bình, nhằm mục đích ổn định đất nước.
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 10

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

- Tuân Tử (nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi Tử cũng
có cùng quan điểm (Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử).
- Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ Đại, có giá trị lịch
sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
- Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
- Nhìn nhận Cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như
một thực tế đã định
và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự

hòa hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
- Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải
quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy
giờ đã đặt ra và phục vụ cho mộ
t giai tầng nhất định
- Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những yêu cầu
của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu người”
theo cách của mình
- Cả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ
lâm vào bế tắc". Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già cỗi,
khắt khe và bảo th
ủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá
nên cuối cùng mất nước. >>>Hướng đến mục đích ổn định XH.
II. Sự khác biệt
1. Về trị quốc
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp, hình
phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ
sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phả
i giáo hoá
đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là làm mọi
việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy cứ thế
mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh, “Vua cho ra
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 11

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 11). Khi
Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện
“chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói
không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh

thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận, thì phải tùy theo đó
mà làm” (Luận ng
ữ, Tử Lộ, 3).
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà
dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân
mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực
lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế phát
triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, gìn giữ

chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để xây
dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi
dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi
với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần
khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ
trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua
là cái quý sau cùng), nhân chính và thống nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì
việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất h
ưng thì
hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu?
Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh để
xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống bao
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 12

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có
thể khái quát như sau:

Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là những
quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là 3 quan
hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là:
vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn
định, gia
đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc,
luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là do 3 quan hệ này rối
loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha
chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì vậy,
muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại 3
quan hệ đó.
Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo
đức làm cứu cánh.

Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo), "Thuật"
(Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử là người
đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nướ
c bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung
trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là qui định, luật
lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn
khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi
hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong
pháp, không hành động trái pháp; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sứ
c mạnh.
Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo
Hàn Phi, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi
hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau. còn "Thuật" là
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 13


GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Là mưu lược khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ
như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Tất cả
đều là công cụ của bậc đế vương. Trước hết nói về "Pháp". Trong tư tưởng Trung
Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng
"Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp
"Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn
mẫu. Kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho
rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin
chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy
bề tôi sẽ theo Pháp". Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt
và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê
Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực
hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn
đe thông qua thưởng và phạt. Bởi vì
"thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm, phạt
mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh thưởng hậu
không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến khích dân chúng nữa, phạt mà
nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy trong nước ". Điều
đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt nặ
ng" Hàn Phi còn đưa ra chủ
trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không
cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung
thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa
cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít,
người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị
xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù".

Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân
định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 14

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên
hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho
rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành
thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người
cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đế
n mức có thể
thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế
lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không
phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì
hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức
mạnh củ
a dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái
ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự
trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”. Để nâng
cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải
tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh
chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói
không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời
nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm". Sau "Pháp" và "Thế", pháp
gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức,
phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao việc,
xét đoán sự vật, sự
việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị

quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng
những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực
của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ
máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên ch
ế". "Thuật" còn thể hiện
trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người
là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn một người hứa đến thăm ta
thì lời hứa đó là "Danh" còn hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 15

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và "thực") hợp
nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực" không hợp
nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một cách
nghiêm minh. "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính
thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu
hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội đều
nh
ất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay
làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết
dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo
việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng
việc thì phạt". Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở trên, tư tưởng
Pháp gia còn hết sức coi trọng vi
ệc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và
thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ
lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và phát

tri
ển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển
lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát
triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn tr

nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức
tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và kết
cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ,
thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những n
ăm dài chiến tranh khốc liệt.


Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 16

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

2. Về chính trị - xã hội:
- Khổng Tử – người sáng lập Nho gia làm hết sức để nhằm mục đích cho người
quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính
là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên
mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã t
ừng nói: “Bản thân mà
chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản
thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo”
(Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ.
Tử Lộ). Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn – thánh
hiền mang tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị
nước chính là đức hạnh của nhà vua đ

ang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và
đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ
vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện
của ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái
Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý
(phép “Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được
nói đến trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm
này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai
người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn
không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạ
o Mặc là đúng với Nghiêu,
Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn
hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc.
Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn năm,
chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được mà
lại quyết định ngay thì đ
ó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo ngay
thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo Nghiêu và
Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và dối trá, cái
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 17

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo”. (Phan Ngọc (dịch).
Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 561) Các nhà Nho luôn muốn
thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay
nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng
đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái
làm cho đất nước tr

ị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường
được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn
Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác (3). Ông viết: “Bọn nhà Nho
đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến
công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình
hình của bọ
n gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca
ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của
ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng
cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực,
bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”( Phan
Ngọc. Sđd., tr. 570.).
Hàn Phi quan ni
ệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định
và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình
phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạ
m số ít, người
già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”( Phan Ngọc. Sđd., tr.
130.).
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 18

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một
quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê
phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho

rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồ
n từ chính
thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua
chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch
với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế
nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, như
ng không
thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không
chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước,
thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước”.
(Phan Ngọc. Sđd., tr. 327.)
Hàn Phi phê phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọ
n học giả dốt
nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn
những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe lời họ thì
nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”.
(Phan Ngọc. Sđd., tr. 129)
Then chố
t của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp
luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định,
xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho
dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn
luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp
luật mà mạnh thì nướ
c mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước
yếu” (Phan Ngọc. Sđd., tr. 55.,), Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật
pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp
bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ
thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông h
ết sức coi trọng

Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 19

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh,
trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái l
ệnh”(Phan Ngọc. Sđd., tr. 478-
479.). Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh
ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của
các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm
họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi
của mọi ng
ười, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là
phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực.
Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội
dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
3. Đề cập đến tố chất củ
a nhà cầm quyền
Nho gia nói rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải là tấm
gương cho người dưới noi theo. Pháp gia coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
4. Tư tưởng biện chứng:
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia: điều
hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội
phát triển theo đ
úng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này
Pháp gia: quan điểm thời biến
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp

với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã
hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 20

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch
sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách
trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào
luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì
thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Nho gia: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên trời
đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri,
lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trời,
luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự
nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng
cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà
thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo
diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa vào
ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có mộ
t sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn đã
tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không
cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người một
khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang thần
phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ

giáo. Ngôi vua là do trời
định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp với
cái Danh.

5. Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người
a) Về quan niệm đạo đức con người
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 21

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Nho Gia: Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về
đạo đức con người. Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ thống các phạm trù như :
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo
đức Nho gia. Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
Theo Khổng Tử, nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng
nhân đó là lòng trắc ẩn. Ngh
ĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải
làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay không
(p59&60). Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước, là
điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và
duy trì trật tự xã hội. (p64).
Pháp gia: Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét v
ấn
đề đạo đức con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng
định bản tính con người là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu
thì nhiều. Vì vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt
làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp tr
ị : lấy pháp luật làm căn bản
trong việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố rộng rãi trong

cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh đến biện
pháp trừng phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ nhận tình cảm,
đạo đức con người. …nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng phát triển của văn
minh nhân loại (p75&76)
b) Về giáo d
ục con người
Nho Gia: Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị : Quan niệm nhà cầm quyền phải lấy
đạo đức mà giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến biện
pháp cưỡng chế và hình phạt như phái Pháp gia (p64).
Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 22

GVHD: TS.Bùi Văn Mưa HVTN: Hồ Nam Đông

Pháp gia: Từ việc thừa nhận bản tính con người là ác nên quan điểm về giáo
dục con người của phái Pháp gia mang tính hà khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp trị qua
ba quan điểm Pháp, Thế, Thuật:
Pháp được hiểu là những qui định có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong
xã hội phải tuân theo.
Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Muốn
thi hành đượ
c Pháp thì phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện các mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng
họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt (p75).
c) Về xây dựng con người
Nho Gia: -Nho gia quan niệm xây dựng con người theo chuẩn mực đạo
đức, đó
là tiêu chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu
thân phải đạt đạo (là con đường phải theo, đó còn là quan hệ mà con người phải biết
giữ để biết ứng xử trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức, phải

thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết thi, thư,
lễ, nhạc (p63). Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người quân tử phải thực hành đường
lối nhân trị, đó là cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân
mình. Không những thế, người quân tử còn phải chính danh (vua cho ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ).
-V
ới mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng, Khổng Tử và các học trò của
ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người như sau:

×