Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.62 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
PHẦN 2: NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 2
I. Khái quát Nho gia 2
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 2
1.1. Lịch sử hình thành 2
1.2. Đặc điểm của Nho gia 3
2. Các quan điểm của Nho gia: 4
II. Khái quát Pháp gia 5
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 5
2. Các quan điểm của Pháp gia: 7
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP
GIA 8
I. Sự tương đồng giữa Nho gia và Pháp gia 8
II. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 10
1. Trị quốc 10
2. Tố chất của nhà cầm quyền 13
3. Tư tưởng biện chứng 16
4. Giáo dục, đạo đức 17
5. Nhân sinh, bản thể 19
CHƯƠNG III : ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA VÀ VẬN DỤNG PHÁP GIA
VÀO XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM 21
I. Ảnh hưởng của tư tưởng nho gia đến nền văn hoá Việt Nam 21
II. Vận dụng tư tưởng pháp gia vào việc xây dựng đất nước Việt Nam 24
PHẦN III: KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 1



PHẦN I: MỞ ĐẦU

Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển
những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của hai
nền văn hóa phương Đông và phương Tây.Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của
văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học
cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy.Triết học Trung Quốc trải qua
nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất,
có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”;
“Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học
Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là
hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về
vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung,
sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung,
dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những
nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư
tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!

Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 2

PHẦN 2: NỘI DUNG

Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia
I. Khái quát Nho gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1. Lịch sử hình thành
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh
hưởng rất sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và
nhiều quốc gia phương Đông nói chung.
Khổng Tử sáng lập ra nho gia vào cuối thời Xuân Thu rất quan tâm đến vấn đề
đạo đức-chính trị- xã hội. Ông xem hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công
cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân của con người. Đến thời
Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho gia bị chia thành 8 phái.Trong
đó, có phái Tuân Tử và Mạnh Tử là mạnh nhất.Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng
kể cho sự phát triển của nho gia nguyên thủy.Vì vậy nho gia ‘’Khổng-Mạnh” được gọi
là nho gia nguyên thủy.
Nho giáo chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua nhiều triều đại.Nho
giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức quản lý xã hội, vào sự nghiệp phát triển
văn hóa và giáo dục.Nho giáo đã đóng góp vào quá trình rèn luyện đạo đức cá
nhân,đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau
khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học
trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà
soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư
viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau
này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 3


nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo
hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho
gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho
giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử
trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng.
Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiếnTrung
Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho
[cần dẫn nguồn]
.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ
thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương
Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo
trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu
hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
1.2. Đặc điểm của Nho gia
Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục phương Bắc và văn
hóa nông nghiệp phương Nam, chính vì thế mà nó mang đặc điểm và chứa đựng
những mâu thuẫn của hai loại hình văn hóa này.
Mang đặc điểm của tính du mục phương Bắc, Nho giáo mang tính quốc tế, thể
hiện ở chỗ mục tiêu cao nhất của người quân tử là bình thiên hạ, việc tìm một đấng

minh quân quan trọng hơn việc làm gì cho đất nước của mình. Song song đó, Nho giáo
còn mang tính phi dân chủ mà hệ quả của nó chính là tư tưởng bá quyền, coi khinh các
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 4

dân tộc khác, coi mình là trung tâm, coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Được
thể hiện ở chữ Dũng, Nho giáo mang tính trọng sức mạnh, một trong ba đức mà người
quân tử phải có: Nhân, Trí, Dũng. Ngoài ra, với học thuyết Chính Danh, tính nguyên
tắc được đề cao trong Nho giáo, tức là tất cả phải có tôn ti, phải làm việc theo đúng
bổn phận.
Mang đặc điểm của tính nông nghiệp phương Nam, Nho giáo nổi bật bởi sự hài
hòa khi đề cao chữ Nhân và nguyên lý Nhân trị. Với cách cư xử trung dung trong Ngũ
Luân, Nho giáo mang đặc tính dân chủ, nghĩa là các quan hệ đều thể hiện tính hai
chiều, bình đẳng. Bên cạnh những đó, sự coi trọng văn hóa tinh thần được thể hiện
trong Kinh Thi cho thấy sự mâu thuẫn giữa tính trọng văn trong văn hóa nông nghiệp
phương Nam so với tính trọng võ trong văn hóa du mục phương Bắc.
Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa khiến cho tư tưởng của Khổng Tử
không tránh khỏi giằng co và đầy mâu thuẫn.
2. Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia mà đại diện là Khổng Tử đặt ra những quan điểm về đường lối xây
dựng đất nước và quan điểm về đạo đức và giáo dục con người.
Đối với việc xây dựng đất nước, Khổng Tử cho rằng một quốc gia muốn thịnh
vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc lớn, đó là Thực túc, Binh
cường và Dân tín, lúc đó xã hội mới ổn định. Trong ba điều trên thì dân tín là quan
trọng nhất vì “dân vi bang bảo”, dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên. Việc
dưỡng dân, giáo dân cũng rất quan trọng để xây dựng một quốc gia. Dưỡng dân hay
nuôi dân để dân quý, nước thịnh, còn khi dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, nước
sẽ yên. Việc giáo dân sẽ được thực hiện bằng cách mở các trường dạy học, dạy dân
bằng lễ, nhạc, trong đó lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên, nhạc để hòa

nhập trên dưới, dạy con hiếu thảo với cha mẹ, thận trọng trong cư xử. Giáo dân không
phân biệt giàu nghèo, nghèo không thu học phí. Thông minh thành kẻ sỹ, cao hơn thì
thành người quân tử là những người đủ đức tài trong xã hội. Đối với nhà cầm quyền,
để giáo hóa dân thì phải tu dưỡng đạo đức cá nhân và dùng Đức trị. Phải làm gương,
sửa mình để sửa người. Người trị dân thì phải có đức thì dân mới theo, mới cảm hóa
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 5

được dân. Vua có đức được ví như sao bắc đẩu. Vua phải lấy đức để trị dân, từ đó xã
hội ổn định, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn dắt dân chứ không
cưỡng chế trừng phạt. Đối với vấn đề đào tạo con người thì trong xã hội Nho gia phải
đào tạo người có vừa đủ đức và tài, với ba loại người là kẻ sỹ, đại trượng phu và quân
tử.
Trong Nho gia, quan điểm về đạo đức và giáo dục con người bao gồm thuyết
Chính danh, tức là phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy thì không
được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn, ngôn cũng phải chính, lời nói đi
đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên ngoài thì kính cẩn, bên
trong lại không. Về giáo dục đạo đức con người còn có Nhân là yêu thương người
khác, không làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình. Muốn
đạt được đức nhân thì phải khắc kỷ, tức là từ bỏ tính tham lam, ích kỷ và phục lễ, tức
là hành động theo đạo lý, chân lý. Ngoài Nhân thì con người phải có Trung: vua trung
– tôi trung, Hiếu là phải kính yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà, Nghĩa là
thấy việc gì đáng làm phải làm, không hề mưu tính lợi ích cá nhân, Trí là sự minh mẫn
sáng suốt, biến nhận thức đúng sai, muốn có trí phải học, không học thì dù thiện tâm
đến đâu cũng bị cái ngu dốt làm biến chất, Dũng là lòng can đảm, là sức mạnh để làm
chủ tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo vệ chân lý, Lễ là những nghi thức nhất định trong
tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày. Trong
hệ tư tưởng Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách
nhiệm của mình là Ngũ luân: quân – thần (vua phải minh thần phải trung), phu – tử

(cha phải từ con phải hiếu), phu – phụ (chồng trọn nghĩa vợ trọn trinh), huynh – đệ
(anh em như thể tay chân), bằng – hữu (bạn bè phải lấy tín thành mà đối đãi nhau)
II. Khái quát Pháp gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát
triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia
là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 6

tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch
sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởngTrung Quốc thời
Xuân ThuÔng nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa
gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để
giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải
cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh,
hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà
làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo
đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông
cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển.
Thương Ưởngđược vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng
hiến pháp, chủtrương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến
khíchdân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật cai

trị đất nước, Thận Đáo chủ trương dùng thế, Ngô Khởi cho rằng muốn làm cho nước
mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Philà học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến
Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một
cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân
nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng
thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh
tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách
độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm
soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước
không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 7

trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và
hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích
ứng với thời đại lúc bấy giờ.
2. Các quan điểm của Pháp gia:
Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất nước
và tư tưởng biện chứng của nó. Về đường lối xây dựng đất nước, trị nước phải kết hợp
các sáu yếu tố: pháp luật, hình phạt, nông nghiệp, chiến tranh, nghệ thuật, thế lực. Về
nông nghiệp thì tập trung phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán, tập trung lực
lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh; về chiến
tranh, phái Pháp gia chủ trương xây dựng quân đội mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính
các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Thuật được hiểu là phương
pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện
mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thế là địa vị, quyền uy của
người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi
giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là

độc tôn
Về tư tưởng biện chứng trong hệ thống tư tưởng của Pháp gia là Pháp gia thừa
nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Đây được gọi là quan điểm thời biến, mọi chủ
trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi để phù hợp. Hàn
Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật
mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị
dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Ngoài ra Hàn Phi Tử còn thừa nhận sự tồn tại của
lý tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận
động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật
luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 8

Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
I. Sự tương đồng giữa Nho gia và Pháp gia
Tiến hành so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta nhận
thấy có những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh
hưởng này như sau:
Trước hết là đề cập đến mục đích của hai trường phái Nho gia và pháp gia đều
mang tinh thần muốn xây dựng một xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu mạnh.
Mặc dù quan điểm của hai trường phái có nhiều điểm khác nhau nhưng những mong
muốn và mục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn
loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường.
Thứ hai là liên quan đến tư tưởng hai phái Nho gia và Pháp gia có những nét
khác nhau, nhưng một số công cụ được sử dụng trong quá trình điều hành đất nước
của những nhà cầm quyền có những nét tương đồng. Nếu trong Nho gia, điều kiện để
trị nước chính là Thực túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát
triển nông nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để
xây dựng quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh

Cường, thì trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh,
dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh.
Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một
trong hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con
người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để thỏa
mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình
nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Còn theo
Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết học Pháp gia cũng có
cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người” là ác, đưa ra học thuyết cá
nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi, nghiêm
phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 9

Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận
dụng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến
các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc mà còn
lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát triển bền bĩ,
được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay.
Cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Đối
với Nho gia, nhà cầm quyền có những tố chất để vừa làm gương cho dân, vừa dùng
Đức trị để dưỡng dân, giáo dân. Nhà cầm quyền giống như vì sao Bắc Đẩu để dân soi
đường và học tập. Để dân tin dân tín, nhà cầm quyền không những phải sáng suốt,
hiểu cao biết rộng mà còn phải biết cách trị nước, an dân, dùng Nhân để hướng lòng
dân về một mối. Song song đó, Pháp gia mặc dù sử dụng phương pháp trị nước khác
với nho gia nhưng cũng chủ trương cần một đấng minh quân, một nhà cầm quyền am
hiểu nguyên tắc cai trị đất nước
Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã
định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa

với việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người
nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu
mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài
vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội.
Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải
quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ
đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Trong Nho gia, dựa vào lợi ích của
giai cấp thống trị đã đưa ra các tư tưởng về Tam Cương, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tam
Tòng, Tứ Đức, tạo thành một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giá trị dương trong thuyết
âm dương ngũ hành, hay cho lễ giáo theo trật tự đã định trong xã hội. Nho gia sử dụng
phương cách Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng pháp trị để giải quyết
thực tiễn xã hội.
Cuối cùng, mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát
triển rực rỡ và hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 10

tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt khe và bảo thủ.
Sang thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống Chính
vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội
Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của thế giới.
Chính điều này đã khiến Nho giáo dần dần không phù hợp. Đối với Pháp gia, một
minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần.
Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến
nước Tần trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn
mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo
dục đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, sau khi đã
thống nhất được đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành pháp trị mà dẫn đến mất
nước.

II. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
1. Trị quốc
Đối với hệ tư tưởng Nho gia, Khổng Tử đề xuất đường lối “Đức trị” – đường
lối trị nước bằng đạo đức, mang bản sắc của chính người đề xuất ra nó. Nội dung
đường lối “Đức trị” là thực hiện 3 điều: dân đông kinh tế phát triển, dân được học
hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, giữ gìn chữ tín, tiết kiệm
trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý Cơ sở tư tưởng “Đức trị” của
ông suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể
cảm hóa được. Ông quan niệm phép trị dân thì không cần dùng đến biện pháp giết
người. Trước sau gì Khổng Tử đều muốn lấy đạo đức mà cảm hóa người hơn là dùng
hình pháp mà trị người. Còn Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối “Đức trị” dựa
trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là dân quý
nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng)
Khổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do
không “chính danh”. “Chính danh” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa
vị, bổn phận chính đáng của người ấy, cứ thể mà làm, nếu không “chính danh” thì lời
nói sẽ không đúng đắn dẫn đến việc thi hành sai. Khổng Tử cho rằng: danh không
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 11

chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc không thành, việc không thành
thì lễ, nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không
trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu? Theo Mạnh Tử thì cai trị đất nước bằng “Đức
trị” và thực hành chính danh để xây dựng một xã hội đại đồng. Có thể khái quát như
sau: cơ sở gia đình, nền tảng xã hội không phải là những quan hệ kinh tế, xã hội mà là
quan hệ đạo đức, chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Khi
các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi, chồng ra chồng, vợ ra vợ
thì xã hội ổn định, gia đình yên vui. Nếu không chính danh, tức vua chẳng ra vua, tôi
chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra

chồng thì luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo.
Khổng Tử cũng phản đối nhà cầm quyền dùng luật pháp để cai trị dân. Cai trị
dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép thì dân có thể tránh được tội lỗi
nhưng không biết liêm sĩ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà
dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sĩ và thực lòng quy phục. Như trong Luận Ngữ, ông đã nói:
“dùng chính lệnh mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhát thì dân khỏi tội nhưng không
có lòng hổ thẹn, dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì dân có lòng hổ thẹn, lại cố
làm điều hay”.
Ngược lại với Nho gia đề cao “Đức trị”, Pháp gia đề cao Pháp trị, tức cai trị
bằng Pháp luật. Nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”,
Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
đó. Ông cho rằng, “Thế”, “Thuật”, “Pháp” là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
Hàn Phi Tử coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn định và
công bằng. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật:
pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật trong đó “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, “Thuật” là
phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị, còn “Pháp” là nội
dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ.
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 12

Hàn Phi Tử cho rằng, khi thực hành pháp trị thì phải xét tới các nguyên tắc sau:
thứ nhất, tính tư lợi: nền tảng quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng
muốn giành cái lợi cho mình, thứ hai, hợp với thời thế: đối với Hàn Phi, không có một
pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng để mà noi theo. Thời thế
thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn, thứ ba: ổn định, thống nhất, tức là
mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh
đã đặt ra thì không được tùy tiền thay đổi, thứ tư: phù hợp với tình người, dễ biết dễ

làm, thứ năm: đơn giản mà đầy đủ, thứ sáu: thưởng hậu phạt nặng, thứ bảy: vua phải
nắm hết quyền thưởng phạt. Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: thứ
nhất, tăng cường giáo dục pháp chế, thứ hai: mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước
pháp luật, thứ ba: nghiêm khắc cẩn thận, không được tùy ý thưởng cho người không có
công, vô cớ sát hại người vô tôi, thứ tư: dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi
hành pháp luật.
“Thế” được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Theo
Hàn Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân: “chỉ có
bận hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền
vậy”. Muốn thi hành pháp luật phải có thế. Thế không chỉ là địa vị quyền uy của vua
mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước. Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải
nắm giữ quyền thế. Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế, đề phòng đại thần
tiến quyền. Nếu xét về bản thân vua, thì thế là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhât, còn
pháp và thuật chỉ là công cụ.
Sau Pháp và Thế, Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ
như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật còn
thể hiện trong thuật dùng người. Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng
người là chính danh, hình danh và thực danh. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất
phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh
phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng Thuật. Bề tôi
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 13

tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà giao việc, cứ theo việc mà trách công.
Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng, công không xứng việc thì phạt.
Ngoài ba công cụ trị nước Pháp, Thế, Thuật đã nêu trên, Pháp gia hết sức coi
trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác.
Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm

cho đời sống của xã hội no đủ.
Tư tưởng Pháp trị của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng, nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao
nhiêu thì vẫn trị quốc bình thiên hạ được. Khổng tử và Mặc tử đều nói đến Nghiêu,
Thuấn, đều noi theo đường lối trị nước của Nghiêu, Thuấn mặc dù chủ trương của
Khổng Tử và Mặc Tử khác nhau nhưng cả hai đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân
chính. Trong khi đó đời Ân, đời Chu tồn tại đã hơn bảy trăm năm về trước, lấy gì làm
bằng cứ xác thực. Chính vì vậy, theo Pháp gia phương pháp trị nước đúng đắn và hữu
hiệu nhất, phù hợp với điều kiện lịch sử thời Xuân thu chiến quốc chỉ là phương pháp
pháp trị mà thôi.
2. Tố chất của nhà cầm quyền
Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền, Khổng Tử cho rằng nền tảng của việc
cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân nên ông làm hết sức để nhằm mục đích
cho người quân tử cai trị đất nước. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ
tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất
trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người
quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo mà trước hết là đạo quân – thần,
phụ - tử, phu – phụ (sau này Đổng Trọng Thư gọi là tam cương, và mở rộng thành ngũ
luân (quân – thần, phụ - tử, phu – phụ, huynh – đệ, bằng – hữu) và cần phải đạt đức,
đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân – thái độ ứng xử đúng đắn trong gia
đình (thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình), phải luôn tu sửa thân
mình để làm cho mình xứng đáng với vị trí là một thành viên trong gia đình “cha nên
cha, con nên con, anh nên anh, em nên em, chồng nên chồng, vợ nên vợ, ấy là gia đạo
chính”. Đặc biệt trong hai quan hệ cha – con, quan hệ anh – em phải thể hiện hai đức
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 14

hiếu và đễ, chúng là gốc của đức nhân. Tu thân tiếp theo là thực hành trách nhiệm với
nước. Từ phụng sự cha mẹ người ta nâng lên phụng sự nhà vua, từ những phép tắc

trong nhà người ta suy rộng và vận dụng vào việc xây dựng thể chế, nghi thức và tổ
chức bộ máy cai trị và trật tự tôn ti trong cả nước. Nho giáo đã đem gắn chặt nước với
nhà, coi tề gia là tiền đề của trị quốc. Nói tới nước, là nói tới vua, vua có sứ mệnh lớn
là cai trị đất nước. Để trị nước họ phải trau dồi đức nhân
Phái Nho gia hiểu là sự cai trị đất nước đặt trên cơ sở bản thân nhà cầm quyền,
sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị bản thân của những người cầm quyền mà ra
và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị có đủ tài đức, nghĩa là bên
cạnh khả năng, nhà cầm quyền phải có đủ đức hạnh. Thuyết nhân trị còn được hiểu là
cách cai trị, theo đó, nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng
chứ không phải dùng đến cưỡng chế, trừng phạt. Vài trò đạo đức theo Nho giáo là
phương tiện chủ yêu để cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn
thiện con người góp phần củng cố và duy trị trật tự xã hội. Biện pháp cơ bản để thực
hiện nhân trị, là chính danh, lễ, vai trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân
với ý nghĩa là gốc là nền tảng của chính trị.
Khổng Tử đã từng nói: “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính,
tuy lệnh bất tòng” (sách Luận Ngữ) nghĩa là bản thân mà chính đáng, dù không cần
mệnh lệnh thì người khác cũng thi hành, còn nếu bản thân không chính đáng, dù có
mệnh lệnh thì người khác cũng không tuân theo. Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua
đều phải như Nghiêu Thuấn nhưng theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc
trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và
đạt được qua “lễ” (Khắc kỷ phục lễ vi nhân)
Theo quan điểm của Hàn Phi thì cho rằng nhà vua cũng chỉ là người bình
thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua
của nước đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm
pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng. Ông
cho rằng bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của
việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 15


nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho
kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được
thỏa lòng, người trẻ và cô đọc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và
tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau
Phái Pháp gia ban đầu đều cho rằng nhà cầm quyền – hoàng đế với tư cách
người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với “sự bí ẩn của chính quyền”, và như thế
những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính trọng và tuân thủ. Nhà
vua đại diện cho tính chính thống. Khi nhấn mạnh quyền lực của vương quyền, những
người pháp gia như Thận Đáo và Thân Bất Hại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của
một nhà cai trị có đạo đức đối với nhân dân. Vì thế, thần dân bắt buộc phải tuân theo
những mệnh lệnh dù là đê hèn, tàn nhẫn nhất hay những vị ua cai trụ dù là bất tài nhất.
Những nhà cai trị tài năng được tôn kính, những nhà cai trị khôn khéo thì giữ kín
mình. Vì vậy, theo lý thuyết, bằng cách che dấu đi những mong ước, những ý định của
mình, vị vua của pháp gia biết được kẻ nịnh bợ và buộc quan lại phải lưu ý về tính độc
tài của chính quyền. Trong khi Thương Ưởng vẫn để cho những vị vua cai trị say đắm
vào nữ nhạc hơn là chú tâm tới chính sách đối ngoại, Hàn Phi Tử lại yêu cầu một nhà
cai trị khôn ngoan. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu chuẩn của Hàn Phi Tử, phải biết từ
chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan trung thành khi chúng có sai sót, nhưng
cũng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ dưới quyền và không quá tham lam. Vị vua cai
trị tài giỏi cũng phải hiểu được tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng
lượng. Mặc dù mong rằng nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, Pháp gia nhấn
mạnh rằng tỏ ra quá nhân đức có thể làm hại đến tính quần chúng và đe dọa trật tự bên
trong của quốc gia. Theo nhà sử học vĩ đại thời Hán là Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN),
trong khi vị Hoàng đế đầu tiên nhà Tần giấu mình khỏi thế giới (có lẽ vì muốn đạt tới
bất tử) và vì thế ít được biết đến, ông lại không cần phải theo mọi đề xuất của Pháp gia
trong vai trò của nhà cai trị.
Trong khi các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp
luật có được tính phổ quát nhất đinh, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị,
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia


SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 16

Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ
cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Thuyết Pháp trị của Hàn phi chủ trương nhà cầm quyền không phải chú trọng
nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi
người cùng biết để tuân theo nghiêm chính. Muốn thi hành được các chủ trương của
phái Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt,
am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó.
3. Tư tưởng biện chứng
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia
điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã
hội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích
hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã
hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của
lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách
trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn
luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ
trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên
trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri,
lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trời,
luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và
nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà
thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo diệc
bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa vào ba

luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 17

Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn
đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể
không cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người
một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang
thần phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do
trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp với
cái Danh.
4. Giáo dục, đạo đức
Khác với các nhà tư tưởng thuộc các học phái khác nói chung và Pháp gia của
Hàn Phi Tử nói riêng, tư tưởng Nho gia mà đại diện là Khổng Tử rất đề cao việc học
tập, tu dưỡng đạo đức và là nhà giáo dục danh tiếng bậc nhất.
Về ý nghĩa của giáo dục, Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa phổ biến, giáo
dục làm con người mở mang tri thức, hình thành nhân cách đầy đủ cả ba mặt nhân, trí,
dũng, đem điều đã học ra ứng dụng đem lại lợi ích cho đời. Ông cho rằng làm vua
quan cũng phải học, làm ruộng vườn cũng phải học chứ không thể dựa vào cảm tính và
lòng nhiệt thành.
Về nội dung dạy học thì Khổng Tử rất coi trọng giáo dục đạo đức, dùng đạo
đức để thi hành chính sự. Ông ít quan tâm đến các kiến thức khác nhưng không vì thế
mà ông coi khinh những tri thức kỹ thuật cụ thể, đặc biệt Khổng Tử rất để cao Nhạc và
Thi. “Nhạc chính trực, trang nghiêm, hòa nhã, có tác dụng di dưỡng tính tình, cảm hóa
lòng người, hướng tâm con người tới chân, thiện, mỹ, do sự cảm ứng trong tâm với sự
hài hòa với âm nhạc”(trích Luận Ngữ). Khổng Tử đề cao kinh Thi: “Thi có thể làm
phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu

oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được tên chim muông cây cỏ” (trích Luận
Ngữ). Cho nên, Khổng Tử nói: “hưng khởi là nhờ Thi, tạo lập là nhờ Lễ, thành đạt là
nhờ Nhạc”. Vì thế, Khổng Tử dành nhiều công sức để sưu tập, chỉnh lý di sản văn hóa
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 18

cổ (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Dịch) và chính ông biên soạn
Kinh Xuân Thu. Sau này những sách này trở thành những sách kinh điển của nho gia.
Về Phương pháp giáo dục, Khổng Tử coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh
vai trò của việc suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của chủ quan, kết hợp học và hành, thấy
được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học: “Kẻ nào không cố công
tìm hiểu ta chẳng dạy cho, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai
sáng cho, kẻ nào ta bày một mà không biết hai, ta chẳng dạy nữa”. Ông luôn khuyên
mọi người học phải nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều để xét rõ cái hay
cái dở mà nhớ lấy, đó là điều quan trọng để trở thành trí giả.
Về mẫu hình con người mà Khổng Tử đào tạo là những sĩ quân tử, những con
người có thể thay mình hành đạo ở đời, những quan chức phục vụ các vương triều quý
tộc theo thuyết “chính danh” và chủ trương “Đức trị”, “Lễ giáo”, là những con người
sẵn sàng phục vụ chế độ có chính sách “tôn hiền”, “nhiệm năng” và “cử trực” do ông
đề xướng.
Đối với thuyết Chính danh: Khổng Tử đưa ra học thuyết này nhằm ổn định trật tự xã
hội, theo ông, danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra người ta
sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp
không định được mà xã hội sẽ hỗn loạn. Người nào mang danh nào phải thực hiện
những tiêu chuẩn của danh đó nếu không phải gọi bằng danh khác. Khi danh tự đã
chính thì việc gì có nghĩa lý của việc ấy, khi danh tự đã định rõ thì người nào có địa vị
chính đáng của người ấy, trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh
Đối với Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí thì khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới
nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa

khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất, Nhân là một nguyên tắc đạo đức trong triết học
Khổng Tử. Nhân được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua lễ, nghĩa,
quy định quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Nhân có
quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên
một hệ thống nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm
trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì Nhân là tâm
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 19

điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người. Nhân cũng có thể
hiểu là “trung thứ” tức là đạo đối người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa.
Trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân không chỉ là yêu người, thương người,
mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy nhân chính là đạo làm người, sống
với mình và sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông.
Đối với Lễ, bao gồm nghi thức lễ tế, phong tục tập quán được xã hội thừa nhận,
quyền hành của người trị nước và cách tiết chế hành vi của người dân. Giáo dục Lễ
nhằm bốn chủ đích: hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng hậu, làm gốc cho đạo
nhân, giữ tình cảm sao cho trung dung, xác định phân minh lẽ phải trái, tình thân sơ,
trật tự trên dưới, tiết chế những thường tình dung tục của con người. Khổng Tử cho
rằng, chỉ có cách tuân giữ Lễ như những luật tắc giao tế xã hội ta mới có khả năng
thành tựu Nhân, một cách căn bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân
bình. Khổng Tử nhiều lần nhấn mạnh đến Lễ như một phương cách củng cố tôn ti trật
tự của xã hội. Mỗi cá nhân đều có Lễ thích đáng cho địa vị xã hội của mình.
Song song với Lễ là Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không mưu
tính lợi của cá nhân mình. Còn Trí trước hết là biết người, có hiểu biết sáng suốt mới
biết cách giúp người mà không làm hại cho người. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi
Khổng Tử nói đến người Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu
người, dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người
đáng ghét.

5. Nhân sinh, bản thể
Quan niệm về vấn đề con người cũng như bản chất của nó, cả hai trường phái
Nho gia và Pháp gia có những quan niệm riêng. Mỗi trường phái thể hiện cách nhìn
nhận về nhân sinh, bản thể khác nhau. Nếu như phái Nho gia xem con người hướng
theo tính thiện thì Pháp gia lại xem con người hướng theo tính ác.
Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn nhân từ. Đạo người có Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Dũng, Tín, trong đó Nhân được nhắc đến và là trung tâm của Đạo. Còn Pháp
gia thì lại cho rằng bản tính con người là ác, người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì
rất nhiều nên muốn xã hội bình yên, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 20

thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác. Hàn Phi
quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn
giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm
máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho
nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc
đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ cỗ xe có
lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của
anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại.
Nho gia cho rằng bản chất con người là không lười biếng. Còn Pháp gia thì cho
rằng bản chất con người là lười biếng. Con người khi có dư ăn rồi thì không muốn làm
gì nữa. Hàn Phi đã nói: loài người thời ăn lông ở lổ chắc chắn là như vậy. Một người
“esquimau” (thỏ dân Bắc Mỹ sống gần Bắc cực) bảo: “khi tôi dư thịt ăn rồi thì tôi
chẳng nghĩ tới gì cả”. Và theo ông Loskiel thì một bộ lạc láng giềng sẽ chia lương thực
cho họ. Những bộ lạc này thấy người siêng năng cứ phải nuôi báo cô kẻ làm biếng,
nên ngày càng trồng trọt ít đi.
Theo Nho gia, bản tính con người phụ thuộc nhiều vào giáo hóa bằng lễ, nghĩa, đặt tài
đức lên trên địa vị, phải có tài đức tới một mức nào đó thì mới xứng đáng với địa vị,

mới không làm hại dân. Còn theo Pháp gia, bản tính con người là chỉ phục tùng quyền
lực mà thôi. Đặt địa vị, quyền thế lên trên tài đức, miễn là tài đức trung bình mà có
quyền thế là trị nước được rồi.
Về khía cạnh bản thể, Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một
trật tự không gì cưỡng lại được mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh. Còn
Pháp gia thì thừa nhận sự tồn tại của Lý: tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lý chi phối mọi hoạt động của tự nhiên và xã hội. Con người phải
nắm lấy cái Lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.

Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 21

Chương III: Ảnh hưởng, Vận dụng của Tư tưởng Nho gia Pháp
gia vào xây dựng đất nước Việt Nam
I. Ảnh hưởng và vận dụng của tư tưởng nho gia đến văn hoá Việt Nam
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19,
suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo
Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có
những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong
đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên
tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ
thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc
gia.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Cả nghìn năm qua, nhà nước
Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp
luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn

còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con
người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người
đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã
trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng
đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát
triển văn minh hơn.
Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có
tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức
quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty
hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 22

Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng
tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc
lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu
với nhân dân.
Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề
tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn
Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân
dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn
bạo.
Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích
thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm
hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng

sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển.
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa
học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh
phương Tây vốn xuất hiện sau.
Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể
vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư
tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để
suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược.
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với
sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 23

quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và
hành động.
Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt
không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những
nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí
Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng
trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung
ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí
Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ
phong kiến và lật đổ nhà vua.
Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt

và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi
nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối
đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây
dựng tổ quốc.
Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ
khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng
Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với
nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.
Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào
thanh niên và tiền đồ dân tộc.
Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu
của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại
những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế
độ cũ và xây dựng chế độ mới.Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách
mạng, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm
giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của
Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 24

Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí
phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.Đạo đức cách mạng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người đã sử dụng đã đề cập đến việc Hồ Chí
Minh kế thừa có chọn lọc các phạm trù đạo đức của Nho giáo như nhân, nghĩa, trí,
tín, trung, hiếu, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong việc xây dựng
các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam
II. Vận dụng tư tưởng pháp gia vào việc xây dựng đất nước Việt Nam
Tư tưởng Pháp gia ra đời nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho các
vấn đề thực tiễn chính trị, xây dựng kỹ cương đất nước . Pháp gia phục vụ cho những

mục đích nhất định mà phần lớn là phục vụ cho tầng lớp thống trị. Tư tưởng Pháp gia
đã nói không có gì là bất biến, mỗi một xã hội lại phù hợp với một chủ trương, chính
sách khác nhau.
Xuất hiện từ rất lâu đời pháp gia là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung
Quốc thời cổ đại, có giá trị lịch sử lâu dài và được nhiều nước phương Đông áp dụng,
trong đó có cả Việt Nam. Hồ Chí Minhđã vận dụng Pháp gia rất thành công trong cuộc
đấu tranh và giải phóng dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng
của lớp lớp đời đời con cháu Việt Nam noi theo.
Đối với việc vận dụng Pháp trị, Hồ Chí Minh cho rằng quản lý xã hội bằng
pháp luật là dân chủ, tiến bộ và tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Xuyên
suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người, Hồ Chí Minh chủ trương tinh thần
pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước,
môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sau cách
mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Hiến pháp vì trong nhận
thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung
mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong
chiều sâu văn hóa của nó. Sau năm 1954, khi đất nước đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp 1959.
Dựa theo tư tưởng biện chứng của Hàn Phi Tử là thời biến pháp biến, một khi điều
kiện kinh tế xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều

×