Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.4 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 2:
“NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ ĐẠO GIA”
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
SVTH: Phạm Thị Thu Hương – STT:39
Lớp: Cao học Đêm 1 – K20
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Tp. Hồ Chí Minh, 2011
Phạm Thị Thu Hương Trang 2
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
Tp.Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm 2011
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 03
CHƯƠNG I: Giới thiệu chung về Nho Gia và Đạo gia……………… …….04


CHƯƠNG II: Sự tương đồng giữa Nho Gia và Đạo gia………… … … 06
2.1. Nét tương đồng trong lịch sử hình thành và phát triển…………………….06
2.2. Nét tương đồng về quan điểm…………………………………………… 06
2.2.1. Khởi nguyên vũ trụ…………………………………………………….06
2.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan……………………………………….08
2.2.3. Những tư tưởng biện chứng……………………………………………10
2.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội………………………………………… 11
2.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế……………………………… 11
CHƯƠNG III: Sự khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia………………………12
3.1 Nét khác biệt trong lịch sử hình thành và phát triển……………………… 12
3.2. Nét khác biệt trong quan điểm…………………………………………… 13
3.2.1. Khởi nguyên vũ trụ……………………………………………………13
3.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan………………………………………15
3.2.3. Những tư tưởng biện chứng………………………………………… 16
3.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội………………………………………… 18
3.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế……………………………… 20
CHƯƠNG IV: Những ảnh hưởng của học thuyết Nho gia và Đạo gia đến xã
hội Việt Nam… 20
4.1. Sự du nhập các tư tưởng triết học vào Việt Nam………………………….20
4.2 Nho gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt Nam………21
4.3 Đạo gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt Nam………23
KẾT LUẬN……………………………………………………………………25
Phạm Thị Thu Hương Trang 3
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
LỜI MỞ ĐẦU
Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn, được hình thành và
phát triển trong thời Xuân thu, Chiến quốc. Hai trường phái triết này có ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan của Triết học sau này, không những của người Trung
Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có
Việt Nam.

Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức
chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Trong khi đó, Đạo gia đã cung
cấp cho chúng ta một số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi
không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý thức con người. Hé lộ cho
chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa
bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, con người được sống tự do.
Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa quan hệ với các
nước trên thế giới, với sự du nhập của văn hoá phương Tây, ở một khía cạnh nào
đó, một số giá trị đạo đức trong đời sống, gia đình, xã hội… cũng bị thay đổi. Thì
những giá trị trong tư tưởng của Nho Gia và Đạo gia có ý nghĩa rất sâu sắc và vô
cùng quý giá. Nó góp phần đẩy lùi những ô nhiễm xã hội do hiện đại hóa mang
lại và góp phần làm cân bằng trạng thái tinh thần của môi trường sống.
Việc nghiên cứu nho gia và Đạo gia là hết sức cần thiết, nhằm vận dụng
những tinh hoa, những giá trị cốt lỗi nhất vào đời sống hiện tại đồng thời nhận ra
những điểm hạn chế trong từng tư tưởng để rút kinh nghiệm và cải thiện nó sao
cho phù hợp với thời đại.
Vì nhiều hạn chế, bằng phương pháp nghiên cứu dựa vào tài liệu triết học
Nho gia và Đạo gia của các nhà nghiên cứu. Sự tham khảo qua các diễn đàn, qua
ý nghĩa thực tế cuộc sống và đặc biệt là qua sự giảng dạy và hướng dận tận tình
của thầy Bùi Văn Mưa và thầy Hoàng Trung, cộng với sự thảo luận làm việc
nhóm và sự phân tích, tổng hợp của bản thân, đề tài này nghiên cứu và nhấn
mạnh về sự tương đồng và khác biệt của hai trường phái này để vận dụng phù
hợp những giá trị thực tiễn của nó trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.
Phạm Thị Thu Hương Trang 4
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
CHƯƠNG I: Giới thiệu chung về Nho gia và Đạo gia
Triết học ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông và
phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII - thế kỷ VI Tr.CN. Đã có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ
bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra

những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của
xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện
nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Để có một định nghĩa Triết học hoàn chỉnh như vậy, lịch sử Triết học đã
phải trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao
như giai đoạn Triết học của Arixtốt, Đemôcrit và Platon nhưng cũng có lúc nó bị
biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn
giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Đến những năm 40 của thế
kỷ XIX – Triết học Mác ra đời dựa trên những điều kiện lịch sử về kinh tế xã hội,
những tiền đề khoa học tự nhiên và sự kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại.
Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học
Phương Tây và Triết học Phương Đông. Nhưng do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh
tế xã hội, văn hóa mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau.
Phương Tây phát triển Triết học “hướng ngoại”, bởi những yêu cầu phát triển
khoa học nghiên cứu; còn Phương Đông chịu sự tác động của chính trị, chiến
tranh diễn ra liên tục, nên Triết học ‘hướng nội’, nghiên cứu về Tôn giáo có Ấn
Độ, về chính trị - đạo đức – xã hội có Trung Quốc. Nhưng dù phát triển ở
Phương Đông hay Phương Tây, thì Triết học cũng là hoạt động tinh thần biểu
hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng
Phạm Thị Thu Hương Trang 5
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực
tiễn, những quan hệ đạo đức - chính trị của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã
hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một

trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền
theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn, và hình thành nên
các trường phái Triết học khá hoàn chỉnh.
Trong số các trường phái triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học
Nho giáo. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc tri
thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử
đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho
học hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Một trường phái Triết học lớn nữa của Trung Hoa là Đạo giáo. Đạo giáo tức
là giáo lí về Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Hoa, là tôn giáo đặc
hữu chính thống của nước này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo
có thể xuất hiện ở thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, khi tác phẩm Đạo đức kinh
của Lão Tử xuất hiện. Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như:
chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, dưỡng sinh, y học, hóa học, vật lý, địa
lý, lịch sử,…
Hai trường phái Triết Học này đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của
Triết học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu
ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam.
Chính vì thế, việc tìm hiểu tư tưởng Triết học của Nho gia – Đạo gia và
những ảnh hưởng của của nó đến xã hội Việt Nam là một việc cần thiết để lý giải
những đặc trưng của Triết học Phương Đông, qua đó hiểu biết thêm về sự phát
triển tư tưởng của Việt Nam.
Phạm Thị Thu Hương Trang 6
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
CHƯƠNG II: Sự tương đồng giữa Nho Gia và Đạo gia
2.1. Nét tương đồng trong lịch sử hình thành và phát triển
- Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn của Trung Hoa, được hình
thành và phát triển trong thời Xuân Thu, Chiến quốc:
+ Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu, rất

quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị - xã hội. Người kế tục nổi tiếng của
Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 Tr.CN) và Tuân Tử (298-238 Tr.CN).
+ Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (khoảng 580- 500
Tr.CN) với cuốn sách Đạo đức kinh. Lão Tử là ngừơi nước Sở, sống gần thời với
Khổng Tử, tức là vào khoảng cuối Xuân Thu sang đầu Chiến quốc. Người có
công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là Trang Tử (396 - 286 Tr.CN), Đương
Chu (395 – 335 Tr.Cn), chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh.
- Nho gia và Đạo gia mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cùng với
Phật giáo cả ba trường phái triết học đã hoà hợp thành một truyền thống, được
hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần
của Trung Hoa nói riêng, của nhiều quốc gia phương Đông nói chung:
+ Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc về mặt đạo đức vào phép xử thế, về quan
điểm chính trị, vạch ra đường lối chính trị cho chính quyển phong kiến thời bấy
giờ.
+ Đạo giáo lấy đạo là nguồn gốc của vạn vật, ảnh hưởng sâu sắc đến các
lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y
học, hóa học, vật lý, địa lý, lịch sử…
2.2. Nét tương đồng về quan điểm
2.2.1. Khởi nguyên vũ trụ
- Quan niệm về đạo: Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ
trụ bắt nguồn từ đạo.
Đạo ở đây được hiểu là quy luật tồn tại khách quan. Đạo không có màu
sắc, không có âm thanh, không có hình thể, cho nên chúng ta không thể nhìn
thấy, không nghe thấy, không nắm bắt được, nhưng nó là cơ sở sinh ra và làm
Phạm Thị Thu Hương Trang 7
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
biến đổi vạn vật trong vũ trụ (Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ-
Trung đại, tr.9, 2011).
+ Nho gia: Trong quan điểm về thế giới, xuất phát từ tư tưởng của “Kinh
Dịch”, Khổng Tử cho rằng: vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hóa không

ngừng theo đạo của nó. Sự vận động và biến đổi ấy của vạn vật bắt nguồn từ mối
liên hệ, tương tác giữa hai cực “âm” và “dương” trong một thể thống nhất “Thái
cực”. Đó là thịnh đức, là đạo chí thành của trời đất, là cái gốc của thiên hạ (Vũ
Ngọc Pha & Doãn Chính chủ biên, Triết học, 1, tr.83, 2003, NXB Chính trị Quốc
gia, HN).
+ Đạo gia: Lão Tử cho rằng vạn vật được sinh ra từ đạo. Ông xem đạo là
cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới, dùng đạo để giải thích tính vật chất và tính
thống nhất của thế giới. “đạo” không phải thứ vật thể đặc biệt, cố định, nó là cái
bản nguyên, sâu kín, huyền diệu, là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”,”mập
mờ”, “thấp thoáng”, không có đặc tính, không có hình thể, “nhìn không nhìn
thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được” (Đạo Đức kinh, chương 14).
- Quan niệm về âm dương: Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi
nguyên vũ trụ bắt nguồn từ Âm Dương. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu
thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
+ Nho gia: Theo Khổng tử vạn vật không ngừng biến đổi, sinh diệt theo
đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là“thiên lý”, được hiểu là sự tương tác giữa
hai lực âm và dương, là quy luật tự nhiên, cho nên trời chỉ là giới tự nhiên, vận
hành theo bốn mùa: “trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, trăm vật
sinh ra mãi”. Đổng Trọng Thư cũng nêu lên quan điểm: đạo trời ủng hộ dương,
không ủng hộ âm, ra sức tuyên truyền cho thuyết âm ty tương tôn, âm là thấp
kém, dương là tôn quý.
+ Đạo gia: Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của
hai mặt đối lập, vừa xung khắc, dựa vào nhau vừa liên hệ, ràng buộc, bao hàm
lẫn nhau. Ông nói:”Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là có cái xấu; hai mặt dài, ngắn
tựa vào nhau mới có hình thể, hai mặt cao thấp liên hệ với nhau mới có chênh
Phạm Thị Thu Hương Trang 8
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
lệch” (Đạo Đức kinh, chương 2). Và “trong vạn vật, không vật nào không cõng
âm, bồng dương” (Đạo Đức kinh, chương 42).
2.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan

- Bản tính nhân loại đều có một tính gốc:
+ Nho Gia: Tính gốc là tính thiện (Khổng Tử, Mạnh Tử) hay tính ác (Tuân Tử).
Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng: “bản tính con gười ta là thiện.
Còn như người ta có làm những điều bất thiện, chẳng qua họ theo tự dục của
mình, chứ không phải bản tính con người ta là như vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử
thượng, 6, 15). Nhưng tại sao bản tính con người là thiện và tính thiện do đâu mà
có? Mạnh tử đưa ra ba căn cứ để lý giải: Tính thiện của con người được thể hiện
ở bốn đức lớn: nhân, nghĩa, lễ, trí. Mạnh Tử viết:”Phàm những vật đồng loại đều
mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người ta lại nghi ngờ điều
đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều đồng loại” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng,
7).
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác (nhân chi
sơ tính bổn ác), vì con người vốn có sẵn lòng ham lợi, để thỏa mẫn những ham
muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình nên dẫn đến
tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Tuân Tử
viết:”Tính của người là ác, thiện là do người làm ra”(Tuân Tử, Tính ác, chương
13).
+ Đạo Gia: Tính gốc là sống theo lẽ tự nhiên, với triết lý sống tối ưu là
“vô vi”, muốn làm việc gì, phải đi từ diểm đối lập. Vô vi không có nghĩa là hoàn
toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá.
- Về đạo đức:
“Đạo” liên quan đến sự phát triển, tiến hoá của trời đất, muôn vật:
+ Nho Gia: Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời đất. Đạo
có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực
hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha
con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương
Phạm Thị Thu Hương Trang 9
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường,
hay Ngũ luân

+ Đạo Gia: “Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi
cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường,
quy luật chung của mọi sự hình thành, biến hóa xảy ra trong thế giới”, Đạo gia
không chỉ xem đạo là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã,
đang và sẽ tồn tại trong thế giới. (Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học
phần I: Đại cương về lịch sử triết học, tr.66, 2010, ĐHKT, HCM).
“Đức” gắn chặt với Đạo:
+ Nho Gia: Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của gia đình – xã hội
là những quan hệ đạo đức - chính trị. Đức là tính chất của vạn vật, chỉ những đức
tính tốt đẹp mà con người cần phải có. Thuận theo đạo thì mới có Đức sáng.
+ Đạo Gia: Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn
của Đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với
nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Theo Lão Tử, đạo sinh ra vạn vật,
đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà được sinh ra, nhờ đức mà
thể hiện, và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở vê với đạo.
- Quan điểm về con người:
Cả hai đều tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, xây dựng, đào tạo
con người, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội. Coi con
người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu.
+ Nho gia: Khổng Tử đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là
gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên nước
phải lấy dân làm gốc. Vì vậy Khổng Tử chủ trương lấy lễ nghĩa thay thế cho
pháp luật, lấy giáo hoá thay cho hình phạt cho nên ông đưa ra đường lối đức trị,
nhân trị hay lễ trị. (Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học, tr.28):
Mạnh Tử quan tâm đến việc xây dựng một mẫu người lí tưởng: cương
trực, cứng rắn, nhân nghĩa: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ
Phạm Thị Thu Hương Trang 10
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
bất năng khuất” – Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó chẳng đổi thay, uy vũ
không khuất phục” (Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học, tr.30).

+ Đạo gia: Cho rằng Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên,
sinh ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình.
Con người có thiên tính tồn ngã: “Con người, bản chất giống trời đất, có đức tính
của Ngũ hành, là loài tối linh trong vạn vật. Thân ta không phải của ta, nhưng đã
có chúng rồi thì không thể diệt chúng được” (Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học,
tr.38).
2.2.3. Những tư tưởng biện chứng
− Khổng Tử và Nho gia nói chung ít quan tâm đến vấn đề lý giải thế
giới, nguồn gốc của vũ trụ, tuy nhiên trong đó vẫn có những quan
điểm biện chứng mang tính duy vật:
+ Nho gia: Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo
một trật tự không gì cưỡng lại được, như một quy luật:”Trời có gì đâu mà
bốn mùa vẫn thay đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Ông thừa nhận sự vật hiện
tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động, biến hóa không phụ thuộc vào
mệnh lệnh của trời. Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng
tự phát – một bước tiến so với quan điểm duy tâm, thần bí, tôn giáo.
+ Đạo gia: Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của sự vật phát
triển và biến hóa, dạy mọi người hành động theo quy luật tự nhiên. Và “thế giới
là một thể thống nhất, vận hành vì đạo, thông qua đức mà đạo nằm trong vạn vật
luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu sinh ra vạn vật”
(Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết
học, tr.67, 2010, ĐHKT, HCM). Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi), vừa
mang tính phổ biến.
- Quan điểm biện chứng đa phần đều mang tính duy tâm
+ Nho Gia: Khổng tử cho trời là một lực lượng vô hình quyết định số
phận của mỗi người và sự thịnh sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá
nhân sự sống chết hay nghèo hèn, phú quý là do Thiên mệnh quy định, phú quý
Phạm Thị Thu Hương Trang 11
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
không thể cầu mà có được, do vậy bất tất phải cầu. Sống theo mệnh trời, tuân

theo mệnh trời thì sống, làm những điều nhân thiện thì có thể biến nguy thành an
(Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại, tr.9, 2011).
+ Đạo Gia: đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể.
Lão tử cho rằng: “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe
cửa mà biết đạo trời. Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho
mọi sự biến đổi của vạn vật”.
2.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội
- Đều nhằm hướng đến tập trung giải quyết những vấn đề thực tiễn Xã hội
thời đại đặt ra, giải quyết những mâu thuẫn do xã hội đưa ra và đưa con
người đến một lối giải thoát theo các cách khác nhau.
2.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế
− Cả hai trường phái đều hướng con người đến cái thiện, khuyên con
người sống tốt để có gia đình hạnh phúc và góp phần cho xã hội ổn định.
CHƯƠNG III: Sự khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
3.1 Nét khác biệt trong lịch sử hình thành và phát triển
+ Nho gia : Thời đại hình thành của Nho giáo là thời đại Vương đạo suy
vi, bá đạo nổi lên, chế độ tông pháp nhà chu đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Vì
thế, Khổng giáo ra đời nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhằm đạt đến
mục đích "trị quốc, bình thiên hạ".
Người sáng lập Nho gia là Khổng Tử (551-479 TCN). Khổng Tử tên là
Khâu, tự là Trọng Ni, sinh tại huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn
Đông (Trung Quốc). Ông sinh ra và lớn lên ở thời Xuân Thu - thời kỳ rối ren,
loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc cổ đại". Những tư tưởng sâu sắc của Khổng tử
về thế giới, về xã hội, về con người, đặc biệt là học thuyết "Chính Danh" và đạo
đức đã đưa ông lên tầm cao của một nhà triết học thông thái, nhà chính trị tài ba
và nhà giáo dục nổi tiếng.
Mạnh Tử (372 - 298 TCN) , tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước
Châu. Ông vốn là học trò của Tử Tư – cháu nội của Khổng Tử; Tử Tư là học trò
Phạm Thị Thu Hương Trang 12
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia

của Tăng Sâm - một trong số các học trò cũ của Khổng Tử. Mạnh Tử đã phát
triển học thuyết của Khổng Tử theo xu hướng duy tâm.
Tuân Tử (315 - 230 Tr.Cn), tên thật là Huống, tự là Khanh, người nước
Triệu. Ông phát triển học thuyết của Khổng Tử theo hướng duy vật. Ông chủ
trương kết hợp lễ nghĩa với pháp luật trong việc trị nước.
Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) đã dựa trên lợi ích giai cấp phong kiến
thống trị, khai thác lý luận Âm dương-Ngũ hành, đưa ra thuyết trời sinh vạn vật
và thiên nhân cảm ứng để chỉnh thêm Nho gia trong việc giải thích vạn vật, con
người và xã hội.
+ Đạo gia: Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ II), bởi chán
ghét thế cuộc nhiễu nhương, nhân sự chỉ đua đòi lợi lộc, Đạo giáo chủ trương
chính trị “vô vi”, mặc cho mọi vật thuận theo quy luật tự nhiên.
Người sáng lập Đạo gia là Lão Tử (khoảng 580- 500 Tr.CN), tự là Bá
Dương, sinh tại huyện Khổ, nước Sở, cùng thời với Khổng Tử nhưng lớn hơn 19
tuổi. Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời
Chiến Quốc. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan điểm về
vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…(Lão Tử & đạo học
(Phần 1) ).
Đương Chu (khoảng 395 – 335 Tr.Cn, tự là Tử Cư, là người nước Vệ. Ông
chủ yếu bàn đến các vấn đề triết lí nhân sinh.
Trang Tử (369 – 286 Tr.Cn), tên thật là Trang Chu, người nước Tống. Ông
từng làm quan Tất viên cho xứ Mông, sau đó từ quan về sống cuộc sống thanh
bạch, giản dị. Ông viết tác phẩm “Nam hoa kinh”.
3.2. Nét khác biệt trong quan điểm
3.2.1. Khởi nguyên vũ trụ
- Quan niệm về đạo:
Nho gia tin vào thiên mệnh và cho rằng thiên mệnh chi phối vận mệnh của
con người. Đạo gia tin vào đạo, cho rằng vạn vật xuất phát từ đạo và đạo là
quy luật chi phối vạn vật.
Phạm Thị Thu Hương Trang 13

Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
+ Nho gia:
Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch. Theo tư tưởng
của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ , của vạn vật là thái cực. Thái cực chứa
đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi.
Nho gia cho rằng trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người.
Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều xây dựng thuyết thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng,
vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cượng lại được. Mà nền
tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh, còn sự hiểu biết được thiên mệnh là
điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện (Bùi Văn Mưa & tiểu ban
triết học, Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học, tr.58, 2010, ĐHKT,
HCM). Đã tin có mệnh biết mệnh, thì phải sợ mệnh và thuận mệnh.
Do quan niệm như vậy nên Khổng Tử tin vào số mệnh. Khổng Tử nói:
“Chẳng biết mệnh trời, thì biết lấy gì để làm người. Chẳng biết Lễ thì biết lấy gì
để lập thân. Chẳng thể phân biệt lời phải trái, thì biết lấy gì để biết người”
(Luận ngữ, XX:3).
Tuy nhiên, Khổng Tử không tán thành quan điểm cho rằng, con người cứ
nhắm mắt dựa vào “thiên mệnh”. Ông luôn luôn yêu cầu con người phải nỗ lực
học tập tận tâm, tận lực, còn việc thành bại thế nào, lúc đó mới là tại ý trời (Vũ
Ngọc Pha & Doãn Chính chủ biên, Triết học, 1, tr.83,2003, NXB Chính trị Quốc
gia, HN).
+ Đạo gia:
Đến Lão Tử, thì được ông quan niệm đó là Đạo. Trong chương 25, sách
“Đạo đức kinh” ông viết: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu
hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫn. Ngô bất tri
kỳ danh, tự chi kỳ đạo, cường vị chi danh viết đạo”.
Vạn vật đều có nguồn gốc từ đạo. Đạo ở đây được hiểu là quy luật tồn tại
khách quan, không có màu sắc, không nhìn thấy. Đạo là sự thống nhất giữa “Vô”
và “Hữu”, “Vô” là thể của Đạo,“Hữu” là dụng của Đạo. “Vô” là vô danh, vô
phác, không có tên gọi, không có hình thể do đó “Đạo khả Đạo phi thường Đạo,

Danh khả Danh phi thường Danh” (Đạo đức kinh).
Phạm Thị Thu Hương Trang 14
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Sở dĩ hai tư trường phái này khác nhau là do: Đạo theo quan điểm của Lão Tử
là một phạm trù khái quát, nó không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình
mà là tất cả mọi vật từ đó sinh ra, là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến. Vạn vật dù
muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ là sự biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất đó
là đạo, và đạo không tồn tại ở đâu ngoài các sự vật hữu hình, hữu danh, đa dạng
và phong phú vô cùng tận. Vì thế, đạo vừa là duy nhất, vừa thiên hình, vạn trạng;
vừa biến hóa, vừa bất biến. Căn cứ vào quan điểm ấy, Lão Tử đả kích quan điểm
trời sang tạo ra thế giới và cho rằng, trời không phải là căn cứ của đạo, trái lại
đạo có trước thần linh. (Đạo Đức kinh, chương 30).
- Quan niệm về âm dương: hai trường phái có quan niệm rất khác nhau
+ Nho gia: Sinh ra ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), từ đó sinh ra
mọi biến đổi trong tự nhiên và xã hội.
+ Đạo gia: Sinh ra 3 lực (Thiên, Địa, Nhân), từ đó sinh ra vạn vật.
3.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan
Nho gia chủ chương nhập thế (hữu vi), đề cao đạo đức. Đạo gia chủ chương
xuất thế (vô vi), tư tưởng giải trừ.
+ Nho gia: Khổng Tử đưa ra rất nhiều phạm trù đạo đức quan trọng. Và
người quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của
người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí
không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử
thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí".
Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín".
Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
Khổng tử cho rằng: con người có tính người, tính người do trời phú, sự
phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống,
do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục
không giống nhau mà người này khác xa người kia. Nó là nguyên nhân làm biến

Phạm Thị Thu Hương Trang 15
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
tính ở mỗi con người, làm cho con người không giữ được tính do trời phú cho,
làm cho con người trở nên vô đạo; rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn
giữ được tính cho con người phải lập đạo, nghĩa là phải làm (giáo dục) cho cả
nước, cả thiên hạ hữu đạo. (Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I:
Đại cương về lịch sử triết học, tr.59, 2010, ĐHKT, HCM).
Khổng Tử rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con người. Ông cho rằng
năng lực nhận thức của con người là thiên bẩm, sinh ra đã có sự phân định sẵn:
có thượng trí, có trung nhân, có hạ ngu. Và việc học có ba mục đích: Học để hiểu
biết, học để hoàn thiện nhân cách, học để làm việc. Ông chủ trương “hữu giáo vô
loại”, giáo dục không phân biệt đẳng cấp, bất cứ ai, hễ là loại trung nhân đều có
thể dạy cho.
Người trị dân phải có đức, phải trị dân bằng đức. Lấy đạo đức để dăn dạy
con người và từ đó ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân (Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại, tr.5, 2011).
Mạnh Tử phát triển quan điểm “dân vi bang bản” của Khổng Tử, Mạnh
Tử nêu: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Ồng để nghị thực hành chính
trị nhân đức: “Ông vua không ham giết người có thể thống nhất được thiên hạ.
đối với dân: giảm nhẹ thuế má, khiến muôn dân vui vẻ, chăm lo sản xuất phát
triển nông nghiệp” (Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại,
tr.7, 2011).
+ Đạo gia: Xuất phát từ nguyên lý Đạo pháp tự nhiên và mở rộng quan
niệm về đạo vào lĩnh vực đời sống xã hội, Lão Tử xây dựng thuyết vô vi, qua đó
ông trình bày tư tưởng về các vấn đề đạo đức nhân sinh và quan điểm về chính trị
- xã hội.
Vô vi nghĩa là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả
tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là
từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. chỉ khi nào từ bỏ tư lợi thì mới
nhận thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được.

Phạm Thị Thu Hương Trang 16
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Từ đó, Lão Tử phản đối mọi chủ trương hữu vi, cho rằng hành vi của họ
chỉ làm xáo trộn mọi trật tự điểu hòa tự nhiên và bị ràng buộc bởi những danh
vọng, ham muốn sẽ làm mất đi bản tính tự nhiên của chính mình.
3.2.3. Những tư tưởng biện chứng
Tư tưởng biện chứng của hai trường phái lập luận hoàn toàn khác nhau.
+ Nho gia:
Khổng Tử đặt cơ sở lập luận trên sự quan sát các xã hội thực tế và trên
sự chấp nhận những truyền thống được lưu truyền trong chúng.
Phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản.
Về tín ngưỡng: luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là Trời
và Người tương quan với nhau.
Về thực hành: lấy hành động thực nghiệm làm trọng.
Về trí thức: lấy trực giác để soi rọi tìm hiểu sự vật.
Khổng Tử tìm cách kết hợp nền văn minh nông nghiệp với văn minh
gốc du mục.
+ Đạo gia
Theo Lão Tử, sự biến đổi của vạn vật tuân theo hai quy luật phổ biến là
luật Quân bình và luật Phản phục. Luật Quân bình giữ cho các sự vật biến đổi
theo xu hướng trở về trạng thái cân bằng. Luật phản phục làm cho sự biến đổi
diễn ra trong một vòng tròn khép kín, lặp đi lặp lại không ngừng” (Đồng Văn
Quân, Lịch sử triết học, tr.36).
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử còn được thể hiện ở việc thừa nhận tính
mâu thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào nhau, chuyển hoá
vào nhau “Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là còn có cái xấu hoạ là chỗ tựa của phúc,
phúc là chỗ náu của hoạ”.
Nhu thắng cương, mềm thắng cứng: trong thiên hạ cái cực mềm là nước,
nước chế ngự được cái cứng là đá (nước chảy đá mòn). Người lúc sống thì thân

Phạm Thị Thu Hương Trang 17
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
hình mềm dẻo, chết thì cứng đơ. Trong cuộc sống, lời nói khiêm tốn, dịu dàng
bao giờ cũng được mến chuộng, người nóng tính, lời thô bạo thường bị phê phán
và chuốc lấy thất bại.
Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương. Được chi
phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất
hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm.
3.2.4. Quan điểm chính trị - xã hội
- Về đường lối trị nước an dân, quan điểm của Nho gia hoàn toàn đối
lập với quan điểm của Đạo gia.
• Trong khi Nho gia vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội, nó thực
sự trở thành vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo gia, trên cơ sở thuyết vô vi, lại
mang sẵn trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị:
+ Nho gia: Nho gia đã đề xuất nhiều chính sách mang tính chất cải lương
nhằm cải tạo xã hội đương thời. Khổng Tử khuyên con người phải sống theo lễ
và mệnh trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm những điề nhân điều thiện thì có
thể biến nguy thành an. Mạnh Tử chủ trương kết hợp đức trị với pháp trị, giáo
hoá với hình phạt trong việc trị nước. Ông cho rằng con người khác với cầm thú
vì có tổ chức xã hội và có cuộc sống tập thể. Để duy trì điều đó và kiềm chế tính
ác của con người tất yếu phải có lễ nghĩa và pháp luật, có nhà nước đứng ra để
điều hành.
Nho gia cho rằng nền tảng của gia đình - xã hội là những quan hệ đạo đức
– chính trị, đặc biệt là 3 quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Các quan hệ
này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh (vua ra vua; tôi ra
tôi; cha ra cha; con ra con; chồng ra chồng; vợ ra vợ) thì xã hội ởn định, gia đình
yên vui, và ngược lại…(Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I: Đại
cương về lịch sử triết học, tr.57, 2010, ĐHKT, HCM).
+ Đạo gia: Lão Tử chủ trương đường lối trị quốc theo đạo vô vi, chống
mọi chủ trương hữu vi cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi

đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Ông
Phạm Thị Thu Hương Trang 18
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
nói muốn dân yên ổn thì cai trị một nước phải “giống như kho một nồi cá nhỏ”:
cá nhỏ nên để yên, không cạo vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo –
cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát
Lão tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý
tộc thống trị là bọn ăn bám và đàn áp, gay ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân
chúng. Bọn họ chẳng vô vi.
Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời;
nhưng nếu đời ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo
léo. Ông viết: “chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính
phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa”.
• Nếu Khổng Tử đòi hỏi người trị vì thiên hạ là bậc Thánh nhân với các phẩm chất
đạo đức như nhân, lễ, nghĩa, trí Thì Lão Tử chủ trương bậc thánh nhân trị vì
thiên hạ bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi.
• Nếu Khổng Tử chủ trương xây dựng xã hội đại đồng, trị nước bằng đạo đức, thì
Lão Tử chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với
con người để trả lại cho con người bản tính tự nhiên vốn có của nó.
- Về quan điểm nhà nước lý tưởng: Nho gia chủ trương xây dựng nước lớn,
kinh tế vững mạnh. Đạo gia chủ trương xây dựng nước nhỏ, hòa bình.
Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng cấp, có tôn ti trật tự, có
trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã
hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã
hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã
hội; phản đối chiến tranh bạo lực và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện
chế độ thượng hiền.
Lão tử chủ trương xây dựng một nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có ngựa
xe không ngồi, có gươm đao không dùng, bỏ văn tự, từ tư lợi, không học hành
Dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bời một bờ dâu nhỏ hay một con mương

cạn cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già, đến chết họ
không bao giờ qua lại thăm nhau.
Phạm Thị Thu Hương Trang 19
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
3.2.5. Quan điểm trong phương châm xử thế
+ Nho gia: Quan niệm về chính danh: xây dựng xã hội chính danh để mỗi
người mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của mình mà thực hiện.
Con người cần thực hiện chuẩn mực: Trung, Hiếu, Nghĩa, Trí, Dũng.
Có khuynh hướng về đạo nhập thế, dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật khiến cho
ta ăn ở phải đạo làm người.
+ Đạo gia: Xây dựng xã hội bình đẳng, không phân biệt người với ta,
không xích mích với ai, không làm thiệt hại ai.
Con người cần có 3 đức: Từ, Kiệm, Khiêm.
Có khuynh hướng về đạo xuất thế, lấy đạo làm chủ thể cả vũ trụ dạy ta
nên lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng.
CHƯƠNG IV: Những ảnh hưởng của học thuyết Nho gia và
Đạo gia đến xã hội Việt Nam
4.1. Sự du nhập các tư tưởng triết học vào Việt Nam
Thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu bằng sự xâm lược của nhà Hán năm 110 trước công
nguyên cho tới khi Ngô Quyền giành được độc lập vào năm 939. Trong thời gian
này, kẻ thù đã tìm mọi cách để Hán hoá dân tộc ta, về tư tưởng là truyền bá Nho
giáo. Cùng với Nho giáo còn có Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền vào
nước ta. Sự tương tác của tam giáo này trên cơ sở những tư tưởng triết học của
dân tộc Việt Nam. "Cái quý giá” trong di sản ấy là trình độ nhận thức vững chắc
về tự nhiên và xã hội, về cuộc sống đấu tranh chống thiên tai địch hoạ và mỗi tư
tưởng có bản sắc riêng thể hiện trong phong tục, nếp sống và sự ứng xử giữa
mọi người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm để bảo vệ Tổ
quốc và lật đổ ách thống trị của ngoại bang nhất giải phóng dân tộc như một
ngọn lửa cháy trong di sản ấy.
Phạm Thị Thu Hương Trang 20

Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập thịnh vượng (thế kỷ X đến thế kỷ XV)
là thời kỳ mà dân tộc ta đã giành được độc lập, tự chủ bằng xương máu của
mình. Những thắng lợi vĩ đại của công cuộc dựng nước và giữ nước ấy được
phản ánh sinh động và rực rỡ trong đời sống ý thức của dân tộc, trong đó tư
tưởng triết học về dân, về con người, về dân tộc… hay nói chung hơn, những tư
tưởng triết học về xã hội, về thực tiễn giữ vai trò là trung tâm của nó và xuyên
suốt về sau.
Triết học Việt Nam tiếp tục được kế thừa, bổ sung và phát triển gắn liền
với hoạt động thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc và đỉnh cao của sự
phát triển ấy được toả sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. "Chính những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam chỉ đạo
hệ thống những luận điểm cách mạng nổi tiếng của Người. Nó quyết định tính
đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam do Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra, là một trong những nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
4.2 Nho gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt Nam
4.2.1 Ảnh hưởng của Nho giáo trước Cách mạng tháng 8.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu có ảnh hưởng sâu sắc đến truyền
thống giáo dục, tư tưởng nhân dân ta tư xưa đến nay.
Nho giáo trong xã hội phong kiến: Từ chỗ không được ưa thích trong
nhân dân Việt Nam Nho giáo dần dần chiếm giữ vị trí quan trọng trong hệ thống
xã hội phong kiến.
Nho giáo trong xã hội phong kiến:
a/ Những ảnh hưởng tích cực:
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng
các nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn năm qua,
Nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học-Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức
nhà nước, pháp luật, đặc biệt là giáo dục.

Phạm Thị Thu Hương Trang 21
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người, đặc biệt là về
văn học, sử học, triết học.
Hiếu học là đặc điểm của nho giáo và chính đặc điểm này đã trở thành
truyền thống văn hóa của người Việt Nam.Nho giáo góp phần xây dựng mối quan
hệ xã hội ngày càng rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn ti trật tự hơn.
b/ Những ảnh hưởng t iêu cực :
Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp,
quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà mà quyên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm
tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị
cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
Quan điểm coi thường người phụ nữ của Nho giáo đã kềm hãm sự phát
triển và đóng góp của người phụ nữ.
Xem nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai
khiến.
4.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ sau cách mạng tháng 8
Nho giáo được Việt Nam hóa, tri thức của Nho giáo đóng góp đáng kể
vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành
những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Các nhân tố tích cực của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh giữ gìn và phát
huy phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bên cạnh việc loại bỏ các
quan điểm lạc hậu của Nho giáo.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo vẫn còn tồn tại trong xã hội
ngày nay.
Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa
đến ngày nay và càng được trân trọng.
4.3 Đạo gia và những tác động đến xã hội (hay hệ tư tưởng) Việt
Nam

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ II. Sách Đạo Tạng kinh
ghi: “Sau khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội (Trung Hoa) rối loạn, chỉ có đất
Phạm Thị Thu Hương Trang 22
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Giao Châu là yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh nạn rất đông, phần
nhiều là các đạo sỹ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”. Nhiều quan lại
Trung Quốc sang ta cai trị đều sính phương thuật (như Cao Biền đời Đường từng
lùng tìm yểm huyệt, hy vọng cắt đứt các long mạch để triệt nguồn nhân tài Việt
Nam).
Đạo giáo chủ trương không tham gia vào đời sống xã hội (xuất thế)
nhưng khi vào đến Việt Nam thì Đạo giáo còn được dùng làm vũ khí chống áp
bức (nhập thế). Ví dụ, đời Hồ Quý Ly, có Trần Đức Huy dùng pháp thuật để thu
hút đông đảo người theo chống lại triều đình sau đó bị dẹp
3.3.1 Những ảnh hưởng tích cực
Đạo giáo, trên cơ sở thuyết vô vi, mang sẵn trong mình tư tưởng phản
kháng giai cấp thống trị. Vì vậy, cũng giống như ở Trung Hoa, vào Việt Nam,
Đạo giáo (phù thủy) đã được người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống
trị. Ngay khi thâm nhập nó đã là vũ khí chống lại phong kiến phương Bắc rồi.
Vào thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng để thu hút
nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương
và quan lại trung ương.
Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng truyền thống. đặc biệt là Đạo giáo phù
thủy, nó tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của
người dân Việt, nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Từ xa xưa
người Việt Nam từ miền núi đến miền xuôi đã rất sùng bái ma thuật, phù phép;
họ tin rằng các lá bùa, những câu thần chú… có thể chữa bệnh, trị tà ma, có thể
làm tăng sức mạnh, gươm chém không đứt…
Đạo giáo còn hòa trộn với các tôn giáo khác như Phật giáo. Chử Đồng Tử
là người vừa tu đắc đạo thành Phật, vừa được coi là tổ sư của Đạo giáo Việt
Nam. Đạo giáo còn ảnh hưởng đến các nhà Nho, các nhà nho khi gặp chuyện bất

bình trong chốn quan trường thì hay lui về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên,
sống cuộc sống an bình thanh thản, đó là các tu của Đạo giáo. Các nhà Nho còn
tổ chức phụ tiên (cầu tiên) để hỏi trời đất về chuyện thời thế, tốt, xấu
Tính linh hoạt và âm dương hòa hợp là những đặc tính của Đạo giáo Việt
Nam. Đạo giáo phù thủy thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc
Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người
Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình. Câu tục ngữ, "Tháng 8 giỗ cha, tháng
Phạm Thị Thu Hương Trang 23
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
3 giỗ mẹ" là để chỉ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu
Hạnh Công chúa). Việc thờ đức Thánh Trần với tam phủ (nữ thần trời-đất-nước)
và tứ phủ (nữ thần mây-mưa-sấm-chớp) đi liền với tín ngưỡng đồng bóng.
Thời chống Pháp, để đối phó với kẻ địch có ưu thế về súng đạn, nhiều cuộc
khởi nghĩa đã tích cực sử dụng ma thuật làm vũ khí tinh thần: Mạc Đĩnh Phúc
(cháu 18 đời của nhà Mạc) khởi nghĩa năm 1895 ở các tỉnh miền biển Bắc Bộ,
tuyên truyền là mình có phép làm cho Pháp quay trở lại bắn Pháp. Võ Trứ (quê ở
Bình Định) và Trần Cao (quê ở Quảng Nam) lãnh đạo nghĩa quân người Kinh và
người Thượng đeo bùa mang cung tên, dao rựa đánh giặc. Nguyễn Hữu Trí đóng
trụ sở ở núi Tà Lơn (Nam Bộ), tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông
là con vua Hàm Nghi và có nhiều phép màu, nhất là phép làm cho súng địch
không nổ…
3.3.2 Những ảnh hưởng tiêu cực
Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín
ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình
Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên cứu đã quy hết
mọi tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo, và ngược lại, người Việt Nam
sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng hề biết Đạo giáo là gì.
Thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm,
nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo
nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".

Những hiện tượng như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú…đã gây ảnh
hưởng không tốt đến đời sống tinh thần người Việt, làm cho một bộ phận người
bất lương lợi dụng điều này để chuộc lợi từ những người nhẹ dã, cả tin.
KẾT LUẬN
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
Phạm Thị Thu Hương Trang 24
Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
bằng, dân chủ, văn minh, thì Nho giáo và Đạo giáo có những ý nghĩa vô cùng
thiết thực về phương pháp luận trong nhận thức và thực tiễn
Ý nghĩa phương pháp luận của Nho gia trong hoạt động nhận thức:
Những tư tưởng triết học của Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng
triết học về luân lý, đạo đức và chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá.
Những tư tưởng về chữ Nhân và việc giáo dục đạo đức, nhân cách sống …
của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện
nay.
Những quan điểm về gia đình, và các mối quan hệ trong gia đình có ý
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo cũng
là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Do đó, kế thừa các tư tưởng nhân
văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho giáo là một việc làm
hết sức cần thiết.
Ý nghĩa phương pháp luận của Nho gia trong hoạt động thực tiễn:
Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân
dân ta, chúng ta phải giáo dục con người, phát huy sáng tạo, độc lập tự chủ, chủ
trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “ là những điều cốt yếu của nền giáo
dục.
Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị
trường, nhiều người vì chạy theo lợi nhuận mà đôi khi làm lợi cho mình nhưng
lại làm hại cho người khác, điều này là trái với những tư tưởng của đạo Nho.

Thực tiễn trong kinh doanh, việc đạt chữ Tín lên đầu có ý nghĩa rất lớn nhất là
trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mở cửa quan hệ với các nước trên trế giới, với
việc đầu tư của các nhà tư bản lớn trên thế giới thì một sự bất tín vạn sự bất tin.
Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng
của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Nho gia dạy ta biết hiều
thuận với cha, mẹ, kính trên, nhường dưới. Cha mẹ biết thương yêu, dạy bảo con
nên người có đạo đức, có nhân, lý, trí, dũng… thành người có ích cho xã hội.
Phạm Thị Thu Hương Trang 25

×