Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.6 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 10:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : LIÊU KỲ NHÂN
STT : 72
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM 05/2011
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 5
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 5
1. Điều kiện lịch sử ra đời 5
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 5
3. Những đặc điểm cơ bản 5
4. Các tư tưởng, trường phái triết học 6
4.1 Chủ nghĩa duy vật: 6
4.2 Chủ nghĩa duy tâm: 7
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 8
1. Điều kiện ra đời 8
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội: 8
1.2.Điều kiện về khoa học và văn hóa: 8
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ 9
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại 9


4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại 9
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: 9
4.2 Trường phái triết học chính thống: 10
4.3 Hệ thống triết học không chính thống 10
CHƯƠNG 2:SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 11
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 11
1. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử: 11
2. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện xã hội: 11
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 2
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
3. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên và sự ra đời của vạn vật 12
4. Tương đồng trong nhận thức thế giới quan duy vật và vô thần có tính biện chứng sâu
sắc. 13
5. Triết học Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm : 13
6. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại cho con
người cuộc sống hạnh phúc: 14
7. Một số điểm tương đồng khác đáng lưu ý của hai nền triết học: 14
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 15
1.Khác nhau về đối tượng nghiên cứu: 15
2. Triết học Hy Lạp gắn bó mật thiết với tự nhiên thì tại Ấn Độ triết học có sự đan xen
với tôn giáo 15
3. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy
vật – duy tâm, vô thần – hữu thần. Trong khi đó, Triết học Ấn Độ có sự đan xen giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình: 17
3.1. Triết học có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy
vật – duy tâm, vô thần – hữu thần 17
3.2. Triết học Ấn Độ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình: 18
4. Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận, từ đó xây dựng
nhân sinh quan con người. Ngược lại, Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm

gốc, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận:. 20
5. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét khách quan.
Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh đến sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”: 22
6. Triết học Hy Lạp cổ đại ngã về tư duy duy lý còn Triết học Ấn Độ cổ đại thì ngã về
dung trực giác: 23
7. Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang tính chất quyết
liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt. Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại
thường tôn trọng và có khuynh hướng phục cổ, không có những bước nhảy vọt về chất:
23
8. Sự khác biệt về hệ thống thuật ngữ được sử dụng: 24
KẾT LUẬN 26
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 3
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học
Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là
những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học
thế giới sau này. Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các
vấn đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước
giải quyết theo nội dung của thời đại mình. Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại
đã đặt ra và giải quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương
đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có
khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học phương
Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ
đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai nền triết học này, nâng

cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người và xã hội là vấn đề rất cấp
bách trong điều kiện thế giới đổi thay nhanh chóng như hiện nay.Vì những lý do
trên mà Nhóm 8 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Hy
Lạp cổ đại và Triết học Ấn Độ cổ đại” để tìm hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc
hơn về hai nền Triết học này.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng
những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục
đích chính của bài là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa hai
nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 4
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có
được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
- Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai đọan

cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng
nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã để lại
dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
3. Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai
cấp chủ nô thống trị.
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 5
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Lạp cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép
biện chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về
các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình
ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của
tạo hóa
4. Các tư tưởng, trường phái triết học
4.1 Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái
Milet này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái
niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm
những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập
4.1.2 Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này
Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của

triết học Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính đa
dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago cố
vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường
phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất
đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.
4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ thống
quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa
duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xocrat
Platong sau này.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 6
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
 Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
 Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
 Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng
mực, ôn hoà, không hại mình, không hại người.
 Quan điểm về chính trị - xã hội:
 XH tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
 Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang,
tự do & dân chủ cho con người.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số”
là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã
đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng
sau đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do Xocrat đặt
nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
 Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở
của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ

sở của đạo đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
 Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và
nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính
trị - xã hội của Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ
tư hữu, lại vừa đòi bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã
hội; vừa kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa
vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 7
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc
đẩy lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
 Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
 Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
 Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con
người sinh ra là để nhận thức.
 Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người
mới sinh ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
 Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
 XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung
lưu lãnh đạo.
 Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH &
bình đẳng giữa các cá nhân…
 Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc

nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng
cấp bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn
(Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc.
1.2.Điều kiện về khoa học và văn hóa:
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong phú
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 8
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến
trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha trộn sự
thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
- Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa,
mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và
đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã
thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một
nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh
thần và các nghi lễ.
- Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ
VI TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa
nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
- Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống
triết học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống
triết học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
- Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
- Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới

vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát:
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 9
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần
thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ
yếu sau: Brátman (đại ngã), Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
4.2 Trường phái triết học chính thống:
Trường phái Vêđanta. Samkhya, Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
- Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào
vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ
được bản lai thanh tịnh của mình.
- Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn
4.3 Hệ thống triết học không chính thống
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn giáo,
ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính
duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian
tương đối ngắn Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử thi và cả
trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là hiện hữu
những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm tin vào những
cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng hợp lý luận cho
tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như một nguồn có giá
trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô điều kiện.

- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ đại được
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 10
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường, duyên
khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ đế, nhân
đế, diệt đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2:SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ
ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, điều kiện
lịch sử:
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những thành
tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết với
khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm
xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy
Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau
nhưng tất cả điều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
• Tại Ấn, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết
học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết
học Ấn Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo
lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng
khác tới cả ngàn năm.
• Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới
việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa
học".
2. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện xã hội:
Cả hai nền Triết học cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có sự phân chia giai

cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng lớp nô lệ.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 11
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
• “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ
thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà
không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu
Âu hiện đại được” Ph.Ăngghen đã nhận xét.
• Trong khi Ấn độ cũng trải qua rất nhiều thời kỳ bị xâm lăng bởi nhiều
quốc gia và các dân tộc, tạo nên sự da dạng của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín
sâu sắc, với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền
giả và người vô tín ngưỡng. Theo thống kê năm 2001, người Ấn theo Ấn giáo
80.5%, Hồi giáo 13.4 %, Kitô giáo 2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%,
không xác định 0.1%.
3. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên và sự ra đời của
vạn vật
Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của thần
thánh, tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi. Thế
giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.
• Ấn Độ: Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý
niệm thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra
vạn vật, tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân
hồi báo ứng. Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã
và tiểu ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với
đại ngã.
• Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm –
tôn giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu
luân hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh
sáng tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt
đối. Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần tạo hóa
mô phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới dạng các tinh tú,

và chỉ được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người. Con người bao gồm
thể xác khả tử và linh hồn bất tử.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 12
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế giới tạo thành từ
vật chất, không tồn tại thần thánh.
• Tại Ấn Độ: trường phái Nyaga, Vaisêsika và Lokayata ủng hộ thuyết
nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất được cấu thành từ các nguyên tử kết
hợp lại, xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm đất, nước, gió và lửa.
• Tại Hy Lạp: sự tương đồng này thể hiện qua trường phái duy vật và thuyết
nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit.
 Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu
tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng
lửa tạo ra vạn vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí,
kết hợp với lực tình yêu và hận thù.
 Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu
thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã
thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.
4. Tương đồng trong nhận thức thế giới quan duy vật và vô thần có tính
biện chứng sâu sắc.
• Tại Ấn Độ: nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn
tại khách quan, do đó cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác,
kết luận, tương tự và bằng chứng. Bên cạnh đó, phái Nyaga và Vaisêsika đều xây
dựng trên những phương thức logic học.
• Tại Hy Lạp: Đêmôcrit đề cao nhận thức lý tính, xuất phát từ nhận thức
cảm tính, để tìm ra nhận thức lý tính. Bên cạnh đó, Đêmôcrit cũng tiến hành xây
dựng những phương pháp nhận thức logic học như quy nạp, so sánh, giả thuyết,
định nghĩa.
5. Triết học Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy
tâm :

• Tại Ấn Độ:
 Trường phái duy vật: Gaimini, Gotama, Kanada,…
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 13
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
 Trường phái duy tâm : Upanisad
• Tại Hy Lạp:
 Trường phái duy vật: Talet, Anaximen, Hecraclit, Democrit,…
 Trường phái duy tâm: Pitago, Pacmenic, Xocrat, Platong,…
6. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại
cho con người cuộc sống hạnh phúc:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, tất cả đều nghiên cứu về vai trò của con
người và tự nhiên, mỗi thời kỳ có một sự quan tâm khác biệt nhưng cùng tô màu
vẽ sắc cho các nền triết học ấy. Vì vậy, đây chính là nền tảng, tiền đề cho sự phát
triển của hai nền triết học này trong các giai đoạn sau.
• Triết học Ấn Độ giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh như:
bản chất, ý nghĩa cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ…
• Triết học Hy Lạp thì tìm hiểu, lý giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống
đạo đức, chính trị, xã hội của con người.
7. Một số điểm tương đồng khác đáng lưu ý của hai nền triết học:
• Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ
thống hóa và giải thích được nguồn gốc, tính chất, vai trò của phạm trù đối với
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
• Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành tầng
lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng nền
triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
• Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu
hình về sự tồn tại.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 14
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Khác nhau về đối tượng nghiên cứu:
• Triết học Ấn Độ lấy xã hội làm gốc, là tâm điểm để nhìn xung
quanh, đi sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của
linh hồn cá nhân con người. Đối tượng chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo đức, tâm
linh. Do đó, xu hướng là hướng nội, lấy cái trong giải thích cái ngoài.
• Đối tượng nghiên cứu của triết học Hy Lạp rất rộng, bao gồm toàn
bộ tự nhiên, xã hội, tư duy có gốc là tự nhiên. Ngã theo hướng lấy ngoại (ngoài
con người) để giải thích trong (con người). Tựu trung, xu hướng nổi trội là duy
vật.
2. Triết học Hy Lạp gắn bó mật thiết với tự nhiên thì tại Ấn Độ triết học
có sự đan xen với tôn giáo
• Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để
tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về
thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra
trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới
trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên
cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy,
các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các
hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Trong khi đó, nét nổi bật
của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng tôn giáo và
chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất
khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể
hiện qua các bộ kinh Vêđa, Upanisát. Xuất phát từ những đòi hỏi và hiện thực xã
hội, các nhà triết học Ấn Độ cổ đại là những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà giáo
dục, đạo đức, chính trị - xã hội, thiên về cải tạo thế giới, giải thoát chúng sinh ra
khỏi điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khắc nghiệt.
• Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu
cầu thực tiễn và gắn với khoa học. Sự xuất hiện của những tri thức khoa học và

Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 15
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặc lớn về nhận thức của con
người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh,
được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại.
Bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng
thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét,
Ơclít, Ngược lại, người Ấn Độ cổ tin và giải thích rằng trong vũ trụ tồn tại
đồng thời ba thế lực liên quan nhau là thần linh, con người và quỹ ác ứng với ba
cõi vũ trụ bao la là thiên giới, trần thế và địa ngục. Họ đã phân tích các hiện
tượng tự nhiên và lý giải chúng qua biểu tượng của thế giới thần linh phong phú,
chia nhau chi phối sự biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự điều khiển của nguyên
lý rita “Toàn thể vũ trụ được thành lập trên nguyên lý rita và vận hành trong nó”
chân xác, thích hợp, trật tự vận hành vũ trụ. Do đó, người Ấn Độ cổ đại rất sùng
bái, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến tế. Triết học của họ bênh vực và đề cao tầng
lớp tăng lữ “ Vì sự phồn vinh của thế giới mà từ mồm, tay, đùi và bàn chân mình,
Ngài (Bratman) đã tạo ra tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ”, “Do sinh ra
từ bộ phận cao quý nhất của Bratman, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa mà
tăng lữ có quyền làm chúa tể của các tạo vật ấy” (Luật Manu). Tuy Jaina giáo và
Phật giáo thuộc hệ thống không chính thống nhưng cũng đều thể hiện quan điểm
điểm duy tâm, thần bí. Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật
giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là
phủ nhận đấng tối cao Bratman sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận luôn atman nghĩa
là không có tôi, và quan điểm “vô thường”.
• Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham hiểu biết, yêu thích sự thông
thái (philosophia). Triết học được coi như “người mẹ” của các ngành khoa học,
“triết học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học mang lại cho chúng ta năng
lực hiểu biết, “người mẹ” đó nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì nếu không có tư
duy lý luận nhà khoa học không thể trở thành nhà khoa học đúng nghĩa. Triết học

Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản chất, là
nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy diệt của
mọi cái trong thế giới, còn linh hồn cá nhân bị vây hãm, ràng buộc bởi những
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 16
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
ham muốn nhục dục của thể xác. Do đó, con người phải dốc lòng tu luyện, chiêm
nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với linh
hồn vũ trụ. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ
quan, thần bí.
3. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần. Trong khi đó, Triết học
Ấn Độ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình:
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch
sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng. Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại phân chia các
trường phái triết học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu vào những nội dung cụ thể
thì có mặt duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay
duy tâm. Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt
để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như
phương Tây.
3.1. Triết học có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và chia
ra thành các trường phái khác nhau: trường phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm)
và trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra những nhà vô thần và hữu thần,
gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc đấu
tranh giữa trào lưu triết học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm

của Platông. Hai học thuyết đó ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống phương Tây. Có
thể nói triết học Hy Lạp cổ đại rất nhất quán, kiên định một quan điểm, một lập
trường.
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy Lạp)
là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 17
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo
Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không
khí. Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên
của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn
vật.
Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở
miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại
có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế
giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên
của vũ trụ (trường phái Pitago).
Đối lập lại chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã xây
dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự
nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy
Lạp - La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ
thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của
mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
3.2. Triết học Ấn Độ có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình:
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không thể
phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện

chứng và phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ
thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan
xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép
siêu hình.
Chẳng hạn như những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những tư
tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 18
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện
và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho
rằng loại nào có nguyên nhân của loại đó “Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được
Vrihi”. Từ đó mà trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng nếu vạn
vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên
nhân cũng là vật chất, đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) một dạng vật chất tiềm
ẩn, không hình dạng, không giới hạn, không thể nhận biết được bằng cảm tính.
Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sativa (nhẹ nhàng, thuần khiết),
razas (tích cực, năng động), tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân
bằng thì Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện, tức là trạng thái không thể trực quan
được. Nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì sự sinh thành vạn vật của vũ trụ khởi
đầu.
Ngược lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng
nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật
chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purasa) mang tính phổ
quát, vĩnh hằng, bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố
vật chất ở con người. Khi tinh thần chiếu rọi vào Sativa thì sinh ra trí tuệ, khi tinh
thần chiếu rọi vào razas thì sinh ra vận động, khi tinh thần chiếu rọi vào tamas thì
sinh ra hình thể.
Còn các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của
Vêđa, nhưng coi Vêđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa
sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng

cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần. Nhưng cảm
giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không phản
đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của
nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ
tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động
ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được
tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại
của thần.Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng
thế giới được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 19
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
với thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn
thể xác thì mất đi.
4. Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận,
từ đó xây dựng nhân sinh quan con người. Ngược lại, Triết học Ấn Độ cổ đại
lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó
mới là vũ trụ quan, bản thể luận:
• Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là suy
tư về bản chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể bản nguyên tượng
trưng làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là nước, đối
với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần.
Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số, Pacmênic cho
rằng bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi
sự vật đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử nhỏ nhất, không
thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn. Hêraclit đưa ra quan
niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là
vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là sự
biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó. Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại mới đi đến vấn đề nhân sinh quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì
thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những

người sẽ gây ảnh hưởng xã hội và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các
mục đích riêng của mình Mỗi con người là thước đo sự vật cho mình, không
phải chỉ sự vật được nhận thức, mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông
và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa cá nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này
của các nhà ngụy biện. Con người, thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng
biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã) của con
người phản ảnh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Bản chất của con người là lý trí
và được tìm thấy trong một xã hội được xếp đặt theo trật tự duy lý. Cái tư tưởng
hiện đại cho rằng cá nhân không thể tách khỏi xã hội và "nhân tính" là hình thành
do xã hội và phát triển trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh trong tư tưởng
Hy Lạp.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 20
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
• Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực
nhân sinh (bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi khổ của con người) nhằm
tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều
kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa
con người trong lao động sản xuất.
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn
tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh
hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng
và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống
trần tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là
"nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác
này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với
chân bản của mình là Brahman được.Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng
vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối
cao" tuyệt đối thì con người phải dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động và tu
luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới

nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với "linh
hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu thoát" (moksa).
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp báo" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni
đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh
ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi
của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo.
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm giải
quyết các vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng “hướng
nội”. Có thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và là ưu thế của nhiều học
thuyết triết học Ấn Độ cổ đại.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 21
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
5. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận
xét khách quan. Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh đến sự
thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ theo nguyên tắc
“thiên nhân hợp nhất”:
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Đặt
trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người
chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên triết học Hy Lạp cổ
đại thể hiện đậm nét về bản thể luận của vũ trụ. Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ
đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ giữa người với đời sống tâm linh, ít
quan tâm tới mặt sinh vật của con người, chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề
thuộc về lĩnh vực nhân sinh quan (bản chất, ý nghĩa, đời sống, nguồn gốc, nổi
khổ của con người) gắn liền với quan điểm tôn giáo nhằm tìm kiếm con đường,
phương tiện, cách thức giải thoát con người, mà không thấy mối quan hệ giữa
con người trong lao động sản xuất.

Dẫn chứng:
• Platông đã chia thế giới thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên
trời, mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và
thế giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối,
khả biến, thoáng qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự sinh
thành của thế giới sự vật, con người và hoạt động của linh hồn.
• Upanisát cho rằng “tinh thần vũ trụ tối cao” Brátman là thực thể
cao nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều
nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết, là khách thể. Còn Atman là tinh thần
con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hóa, là chủ thể, và chẳng qua chỉ là
linh hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi. Linh hồn con người “Átman” chỉ
là sự biểu hiện, là một bộ phận của “Brátman”. Theo trường phái Yôga là sự thừa
nhận nguyên lý hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể, thông qua các phương pháp
Yôga mà mỗi cá thể có thể tập luyện để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn
trong mình để làm chủ mình, tiến tới làm chủ môi trường, và sau cùng là vươn
đến sự giải thoát.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 22
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
6. Triết học Hy Lạp cổ đại ngã về tư duy duy lý còn Triết học Ấn Độ cổ
đại thì ngã về dung trực giác:
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của Hy
Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý
vô hạn cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy
luật của Triết học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất
thấp đến mức độ bản chất cao hơn. Do vậy họ có xu hướng cô lập hoá, cách ly
hoá, làm mất đi tính tổng thể. Phương tiện nhận thức của triết học Hy Lạp là khái
niệm, mệnh đề, biểu thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn.
Triết học A thường dùng trực giác hay nói cách khác là đi thẳng đến sự hiểu
biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật hiện tượng. trực giác giữ được cái tổng
thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược đểm là

không phổ biến rộng rãi được bởi trực giác mỗi người mỗi khác và không phải
lúc nào cũng đúng. Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt đầu từ luân lý đạo đức,
nhận thức gắn liền với đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ đề cao việc tự
nhận thức, tự hiểu. Điều này quy định tính chất trực nhận, trực giác trong triết
học Ấn Độ. Từ đó, một lôgíc kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức lại
nghiêng về ẩn dụ, hình ảnh. Cụ thể, trường phái Mimansa coi cảm giác là nguồn
gốc duy nhất của nhận thức.
7. Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang
tính chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt. Trong khi
đó, triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng phục cổ,
không có những bước nhảy vọt về chất:
• Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng
tiến hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau
phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.Mặc dù là học trò của Platông, nhưng
Arixtốt đứng trên quan điểm duy vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông.
Về mặt bản thể luận, ông cho rằng việc Platông chia thế giới thành thế giới ý
niệm và thế giới sự vật là hoàn toàn thiếu cơ sở. Về mặt nhận thức luận, ông bác
bỏ hoàn toàn quan niệm Platông cho rằng ý niệm là cái có trước và độc lập so với
sự vật, theo Arixtốt điều này là vô dụng ngược đời. Theo ông, bản chất phải nằm
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 23
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
ngay bên trong sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành cái
chung dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù
không phải là cái có trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại của sự vật mà ngược
lại sự tồn tại sự vật được phản ánh trong khái niệm, quy luật, phạm trù của nhận
thức.
• Trong khi đó, triết học Ấn Độ ít thấy có những bước nhảy vọt về
chất mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung có phát triển nhưng
chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, xuất phát từ tinh
thần Vêđa chia ra làm hai hệ thống: hệ thống chính thống ủng hộ tinh thần Vêđa

và trường phái không chính thống phản đối lại tinh thần Vêđa. Các nhà triết học ở
các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay một
hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là vạch ra những sai lầm và
không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy nó không mâu thuẫn với
các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn
và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không
triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến kéo dài quá lâu và bảo
thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen, cộng sinh bên nhau.
8. Sự khác biệt về hệ thống thuật ngữ được sử dụng:
• Về cách diễn đạt: khi diễn đạt mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trên
thế giới thì triết học Hy Lạp sử dụng những thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy
luật”… Trong khi đó, khi diễn đạt mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trên
thế giới thì triết học Ấn Độ sử dụng những thuật ngữ “lý”, “mệnh”, “thần”…
cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhiên hợp nhất nên tất cả phải mang tính
nhịp điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ từ thái cực đến lưỡng nghi.
• Về tính chất và sự biến đổi của thế giới: triết học Hy Lạp sử dụng thuật
ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh, cái động là chính, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Ngược lại, triết
học Ấn Độ dùng các thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, lấy cái tĩnh làm
gốc vì triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 24
TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
• Về bản thể luận: triết học Hy Lạp dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt là khi bàn về quan hệ
giữa con người và vũ trụ dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người với tự
nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Trong khi đó, để nói về bản chất của
vũ trụ, đặc biệt là khi bàn về quan hệ giữa con người và vũ trụ thì triết học Ấn Độ
dùng thuật ngữ tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó, hình – thần
là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
Nhóm 8 _ Liêu Kỳ Nhân Trang 25

×