Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.52 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận Triết học :
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN
CHẾ CỦA NÓ
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Sinh viên thực hiện: Liên Khánh Châu
STT:15
Lớp: Đêm 5
Khóa: 21
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 2 năm 2012
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Tiến sĩ Bùi Văn Mưa, Thầy
đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và truyền đạt kiến thức cho tôi
trong suốt khóa học cũng như để hoàn thành bài tiểu luận này. Bản thân tôi cũng rất
yêu thích môn học này, và đã cố gắng để hoàn thành tốt nhất, song chắc chắn cũng
không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy tôi rất mong thầy sẽ có
những góp ý và bổ sung để tôi có thể sữa chữa bài tiểu luận được tốt hơn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Thầy.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương 1: Khái quát về triết học Nho Gia………………………………… 2
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Nho gia………………… 2
1.2 Các trường phái của tư tưởng Triết học Nho Gia và những
tư tưởng của các trường phái này…………………………………………… 3


Chương 2: Giá trị và những hạn chế của Triết học Nho Gia…………… 9
2.1 Những giá trị của triết học Nho Gia………………………………………. 9
2.1.1 Quan điểm về giáo dục………………………………………………… 9
2.1.2 Quan điểm về chính trị………………………………………………… 9
2.1.3 Quan điểm về quản lý xã hội…………………………………………….9
2.1.4 Nho Giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa………………………… 10
2.2 Những hạn chế của triết học Nho Gia…………………………………… 10
2.2.1 Nho giáo dựa trên mối quan hệ tam cương ngũ thường
hà khắc để cai trị xã hội……………………………………………………… 10
2.2.2 Nho Giáo có tư tưởng mang đậm tính nguyên tắc……………………….11
2.2.3 Nho Giáo quá xem trọng tư tưởng thiên mệnh………………………… 11
2.2.4 Nho Giáo mang đậm tính duy tâm tôn giáo…………………………… 11
2.2.5 Nho Giáo với quan điểm hạn chế là phân biệt nam nữ…………………. 12
Chương 3: Kết luận………………………………………………………… 13
Danh mục tài liệu tham khảo
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Bên
cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản
sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng
như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho
gia. Nho gia là một truyền thống có tính cách triết lý và đạo đức nhằm giáo hóa con
người vì lợi ích của bản thân và xã hội, đặc biệt lấy mẫu người quân tử làm lý tưởng
- quân tử chi đạo - chu toàn từ nghĩa vụ làm con trong gia đình tới chức năng quản
lý ngoài xã hội. Vì vậy khi nhận được đề tài “ Tư tưởng Triết học Nho Gia và những
giá trị hạn chế của nó”, thì tác giả cảm thấy rất may mắn khi có cơ hội được tìm hiểu
về một trong những tư tưởng ra đời sớm và có ảnh hưởng sâu sắc nhất thời bấy giờ.
Đồng thời bản thân tác giả cũng rất ngưỡng mộ Nhà triết gia Khổng Tử, bởi ông là

một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử Triết học.
Nghiên cứu về tư tưởng triết học Nho Gia, tác giả cần làm rõ những tư tưởng
về viêc tu thân để trở thành người quân tử là việc đạt đạo và đạt đức. Bên cạnh đó là
đường lối nhân trị và chính danh, thuyết thiên mệnh. Đồng thời tác giả nêu ra những
giá trị và hạn chế tư tưởng triết học Nho Gia, tư tưởng đó có giá trị như thế nào đối
với ai ? Đối với các tầng lớp nào trong xã hội và những mặt hạn chế của nó.
Tác giả đã dùng những tài liệu sau để làm tài liệu tham khảo như: Triết học-
Phần I.Đại cương về lịch sử triết học của TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên); Khổng Tử
thầy muôn thuở Phương Đông của Võ Thiện Điển, nhà xuất bản văn hóa- thông tin;
Đại Cương Triết học Đông Phương của Nguyễn Ước, nhà xuất bản tri thức.
Liên Khánh Châu 1
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ NHỮNG GIÁ
TRỊ HẠN CHẾ CỦA NÓ.
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Nho Gia
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh
hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của
nhiều quốc gia phương Đông nói chung. [2,52].
Khổng Tử ( 551 – 479 TCN) tên Khâu, hiệu Trọng Ni, ngưới nước Lỗ (Sơn
Đông), là triết gia đầu tiên của Trung Hoa, có ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng nhất, và
được rất nhiều người kính ngưỡng. [4,286].
Khổng Tử sáng lập ra Nho gia vào cuối thời Xuân Thu rất quan tâm đến các
vấn đề đạo đức – chính trị - xã hội. Ông coi hoạt động đạo đức là nền tảng của xã
hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cho con người. Đến
thời kì Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị chia thành 8
phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Mạnh Tử đã
có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy,ông đã khép
lại giai đoạn hình thành Nho gia. [2, 53].
Sang thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư ( 179 – 104 TCN) đã dựa trên lợi ích của

giai cấp phong kiến thống trị,khai thác lý luận Âm Dương – Ngũ hành,đưa ra thuyết
trời sinh vạn vật và thiên nhân cảm ứng để hòan chỉnh thêm cho Nho Gia trong việc
giải thích vạn vật, con người và xã hội. [2, 54].
Liên Khánh Châu 2
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Khi Phật giáo trền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, Nho giáo hấp thụ một
số tư tưởng của hai học thuyết này để phát triển tiếp tục. [2, 54].
Nho giáo tiếp tục phát triển qua các triều đại tiếp theo nhưng đến thời Minh –
Thanh thì Nho giáo không có phát triển mới nổi bật mà ngày càng khắc khe bảo thủ.
Sang đến thế kỉ XIX, Nho giáo đã trở nên già cỗi và không còn sức sống nữa. [2,
55].
Kinh điển của Nho gia gồm hai bộ là Bộ Ngũ Kinh ( Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân,
Thu) và Bộ Tứ Thư ( Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử). Hệ thống kinh điển
đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự
nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là
những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
1.2 Các trường phái của triết học Nho gia và những tư tưởng của những trường
phái này.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có
hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu,
người lý tưởng này được gọi là quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải
tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo ( quan hệ mà con người phải biết ứng xử trong
cuộc sống ) mà trước hết là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ và cần phải đạt đức
( phẩm chất tốt đẹp của con người cần phải thể hiện trong cuộc sống ), đồng thời
phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành
động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả người quân tử phải thực
hành đường lối nhân trị ( cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như
bản thân mình….) và chính danh ( cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha,
con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ…). Chỉ có như vậy người quân tử mới xây
dựng được một xã hội đại đồng nơi có trật tự kỉ cương, mọi người được chăm sóc

Liên Khánh Châu 3
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bình đẳng và mọi cái đều là của chung; là xã hội có đời sống vật chất đầy đủ, có
quan hệ người với người tốt đẹp; là xã hội có giáo dục, mọi người trong xã hội được
giáo hóa . [2, 61].
- Thứ nhất nói về việc tu thân của quân tử thì cần phải đạt đạo, đạo là chỉ về ba
mối quan hệ hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ ( tam cương ) đây là ba mối quan hệ
trong gia đình - xã hội, và sẽ là nền tảng cho những quan hệ đạo đức – chính trị. Khi
các quan hệ này chính danh nghĩa là:
+ Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung
thành một dạ. Biểu hiện bằng đức trung.
+ Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải làm tròn chữ hiếu phụng dưỡng cha. Biểu hiện bằng
đức hiếu.
+ Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ
vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
Giữa trung và hiếu thì trung đứng đầu.
Sau này Đổng Trọng Thư đã thêm vào hai mối quan hệ nữa là huynh – đệ,
bằng – hữu và mở rộng thành ngũ luân- năm mối quan hệ mà con người phải xác
định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy.
Do xã hội thời Xuân Thu – Chiến quốc loạn lạc, đạo đế vương đời trước mờ
tối, luân thường đạo đức suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo, người đời say đắm
về đường công lợi là do ba mối quan hệ này rối loạn. Vì vậy muốn cải loạn thành trị,
muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó.
Liên Khánh Châu 4
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Thứ hai của việc tu thân là cần phải đạt đức, Khổng Tử cho rằng người quân
tử phải có đủ tam đức ( trí, nhân, dũng ); do có trí nên người quân tử không nhầm
lẫn, do có nhân nên người quân tử không buồn phiền, do có dũng nên người quân tử
không có gì phải kinh sợ. Sang thời Chiến Quốc, Mạnh Tử bỏ dũng thay vào đó lễ

và nghĩa thành tứ đức ( nhân, nghĩa, lễ, trí ); đến thời nhà Hán, Đổng Trọng Thư
thêm tín thành ngũ thường ( nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). [ 2, 61] . Đứng đầu ngũ thường
là nhân, nghĩa trong đó nhân là chủ. Vì vậy gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
+ Quan điểm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định
bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội và đươc
hiểu theo nghĩa rất rộng. Khổng Tử cho rằng nhân là lòng thương người; còn Mạnh
Tử thì cho rằng nhân là lòng trắc ẩn. [2, 57] Tóm lại nhân là lấy cách đối đãi với
mình mà đối đãi với người:” Nậng cận thủ thí” ( Suy từ bụng ta ra bụng người),” Kỷ
sở bất dục vật thi ư nhân” ( Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người), “
Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” ( Mình muốn tự lập thì cũng thành
lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công). [1, 251]
Như vậy nhân có hai phần: thứ nhất là đức đối với người và thứ hai là đức đối với
mình. Và Khổng Tử cho rằng nhân chính là đức quan trọng nhất bao gồm cả: trí,
dũng, trung, thứ, lễ, nghĩa, trực, cung, khoan, tín, mẫn, huệ…. [1, 252].
+ Quan điểm về nghĩa: Theo Nho gia nghĩa chính là dạ thủy chung , đức nghĩa
dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta, khi tự vấn lương tâm mình về điều mình
nên nói, về việc mình nên làm. Khi nói một điều gì đó hay khi làm một việc gì đó
mà ta cảm thấy thoải mái, thảnh thơi, hứng thú trong lương tâm thì đó là ta nói điều
nghĩa, ta làm việc nghĩa. Vậy nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người
phải làm. Khổng Tử cho rằng con người muốn sống tốt thì phải lấy nghĩa đáp lại lợi,
chứ không nên lấy lợi đáp lại lợi vì như vậy sẽ sinh ra oán trách. Ông còn cho rằng
Liên Khánh Châu 5
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bậc quân tử tinh tường về nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về lợi. Tiểu nhân và quân tử
chủ yếu khác nhau về mặt phẩm chất đạo đức. [ 2, 58].
+ Quan điểm về lễ: Để đạt được nhân, để lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương
cho xã hội Khổng Tử chủ trương dùng lễ, đặc biệt là lễ nhà Chu. Đối với Khổng Tử
tác dụng của lễ nhằm tới bốn chủ đích:
 Hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng hậu, làm gốc cho đạo nhân.
 Giữ tình cảm sao cho trung dung.

 Xác định phân minh lẽ phải trái, tính thân sơ, trật tự trên dưới.
 Tiết chế những thường tình dung tục của con người.[ 8].
Khổng Tử nói: “ Cung kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận
mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành rối loạn. Ngay
thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ ”. [4, 295 ].
Trước hết lễ được hiểu là lễ giáo phong kiến như những phong tục tập quán;
những quy tắc, quy định về trật tự xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử,
tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình pháp…; sau đó lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý
thức thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội
trước lễ nghi, trật tự, kỷ cương phong kiến. Nhân và lễ có quan hệ rất mật thiết.
Nhân là nội dung bên trong của lễ, còn lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài.
Khổng Tử cho rằng trên đời không hề tồn tại người có nhân mà vô lễ. Vì vậy ông
khuyên chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ làm
điều trái lễ. [ 2, 59].
+ Quan niệm về trí: sự sáng suốt nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu thấu đạo
trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân. Khổng Tử coi trí là điều
Liên Khánh Châu 6
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
kiện để có nhân. Và muốn có trí thì phải học “học không biết chán, dạy không biết
mỏi”. Khi học cần coi trọng mối liên hệ mật thiết giữa các khâu: tư – tập, hành. [ 2,
59].
+ Quan niệm về tín: lòng dạ ngay thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.
Tín là đức trong mối quan hệ bạn bè và rất quan trọng với tất cả mọi người. Tín
củng cố sự tin cậy giữa người với người, củng cố lòng tin với đạo lý thánh hiền, tin
vào sự tốt đẹp và vững bền của các mối quan hệ trong xã hội phong kiến.[ 2, 59].
+ Quan niệm về dũng: sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái sai
cái xấu để vứt bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa…Là đức nói lên tinh thần hăng hái,
gan dạ dám hy sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn, dũng biểu hiện sức mạnh và ý
chí thực hiện mục đích của mình. Khổng Tử rất quan tâm tới chữ dũng nhưng ông
vừa cổ vũ vừa dè dặt. Ông thường gắn dũng với nghĩa để kết luận người quân tử coi

trọng điều nghĩa; gắn dũng với trí để chỉ dũng không thể không có trí soi sáng. Gắn
dũng với lễ cho thấy quân tử ghét những kẻ có dũng mà không có lễ, không có trí…[
2, 59].
Nhìn chung, Nho Gia đặt con người trong năm mối quan hệ (ngũ luân) với
những lập luận khác chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu
dưỡng của con người có tính hợp lý hơn. Bên cạnh đó con người còn phải trau dồi
những đức là ngũ thường ( nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) để trở thành quân tử. Nó thể hiện
tính nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc.
- Sau khi đã tu thân thành một người quân tử, thì bước tiếp theo là phải hành
động theo đường lối nhân trị nghĩa là người cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo
hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến cưỡng chế, trừng phạt. Vai trò của
đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước; là điều kiện quan
trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trì trật tự xã
Liên Khánh Châu 7
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hội. Biện pháp cơ bản để thực hiện nhân trị là chính danh, lễ, vai trò tài đức của
người cầm quyền và vai trò của dân với ý nghĩa là gốc là nền tảng của chính trị. [ 2,
62].
- Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm
của ông về trời – đất, quỷ - thần không rõ ràng. Tuy nhiên để tìm chỗ dựa vững chắc
cho lý luận đạo đức của mình, Khổng Tử và cả Mạnh Tử đã xây dựng thuyết thiên
mệnh. Dựa trên thuyết thiên mệnh, ông cho rằng :” Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính
chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và Tính tương cận, tập tương viễn ”. Điều này có
nghĩa là : Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ
bản là đồng đều ở mỗi người. Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn cảnh, môi
trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác
xa người kia. Vì vậy muốn giữ được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải
làm giáo dục cho cả nước, cả thiên hạ hữu đạo. Khổng Tử còn cho rằng nếu lập đạo
của trời nói về âm và dương; lập đạo của đất nói về cương và nhu; thì lập đạo của
người phải nói về nhân và nghĩa. [ 2, 56].

Liên Khánh Châu 8
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Chương 2: GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TRIẾT
HỌC NHO GIA
2.1 Những giá trị của triết học Nho Gia
2.1.1 Quan điểm về giáo dục
Tư tưởng cốt lõi của Nho gia là chú trọng đến việc lập đạo cho người mà muốn
lập đạo thì phải thực hiện giáo dục cho cả nước. Nho Gia rất coi trọng trí thức, coi
trọng việc học hành. Đây là một tư tưởng rất tiến bộ vào thời này. Muốn cả đất nước
tốt thì những con người trong đất nước đó cũng phải tốt. Nho gia coi trọng đức là coi
trọng cách làm người, coi người là yếu tố quyết định. Giáo dục của Nho Gia góp
phần nâng cao tri thức cho mọi người đặc biệt là về văn hóa, lịch sử và triết học.
Nho gia đã thổi lên một ngọn lửa hiếu học vào đông đảo quần chúng nhân dân thời
bấy giờ.
2.1.2 Quan điểm về chính trị
Nho Gia xem trọng thuyết lễ trị. Đó là các lễ giáo phong kiến, tập tục, quy tắc,
quy định về trật tự xã hội; pháp luật Nhà nước và các luân lý đạo đức quy định ý
thức, hành vi ứng xử, trật tự kỷ cương phong kiến… Điều này đã góp phần lập lại
trật tự và khôi phục lại kỷ cương phép nước cho xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng này
cũng đã có ảnh hưởng rất sâu sắc và rộng lớn đến các nước trên thế giới chứ không
riêng gì Trung hoa. Con người sống trong xã hội không thể thiếu lễ vì vậy Khổng tử
đã dốc sức san định lại lễ để giúp phân định trật tự trong gia đình và cả ngoài xã hội,
giúp giáo huấn con người sống phải biết tuân thủ pháp luật và không được làm trái
luân thường đạo lý, đi ngược lại với xã hội.
2.1.3 Quan điểm về quản lý xã hội
Liên Khánh Châu 9
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nho Giáo nhấn mạnh việc cai trị theo đường lối nhân trị và chính danh. Điều
này góp phần xây dựng một xã hội có tôn ti trật tự, và gắn con người vào năm mối
quan hệ ngũ luân , trong đó Nho Giáo đặt mối quan hệ vua – tôi lên vị trí quan trọng

nhất, điều này cho thấy Nho gia xây dựng tinh thần trung quân ái quốc nhưng không
mù quáng, trung quân nhưng vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Người cai trị phải trung
thành với Tổ Quốc và trung hậu với nhân dân.
2.1.4 Nho Giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa
Nền văn minh Trung Hoa đã phát triển hơn 4000 năm và có thể nói là nền văn
minh sớm nhất trên thế giới, và được xem như cái nôi văn minh của nhân loại [6].
Nho giáo đề cao đạo đức, lễ nghĩa, văn hiến và với tất cả những điều trên đã góp
phần xây dựng được một nền văn hóa Trung Hoa đương đại với những bản sắc rất
riêng và đặc sắc. Có thể nói đây là một thành công, một đóng góp to lớn của Nho
giáo đến sự phát triển của Trung Hoa nói chung và cả các nước lân cận với sự ảnh
hưởng to lớn và sâu sắc của tư tưởng Nho Giáo.
2.2 Những hạn chế của triết học Nho Gia
2.2.1 Nho giáo dựa trên mối quan hệ tam cương ngũ thường hà khắc để cai trị
xã hội
Tư tưởng của Nho Gia chủ yếu xoay quanh việc cải tạo đạo đức cho con người
để trở thành người quân tử bằng việc tu thân. Tu thân ở đây chủ yếu là đạt đạo tam
cương ( vua – tôi, cha – con, chồng – vợ ), trong đó Nho Gia nhấn mạnh mối quan
hệ vua – tôi là quan trọng nhất. Bằng việc quá đề cao mối quan hệ vua – tôi này, đã
làm cho xã hội thời nay ngày càng phong kiến, khắc khe, bảo thủ, và quan liêu.
Bên cạnh việc đạt đạo, con người cần phải đạt đức, đó là ngũ thường – năm
phẩm chất cần có ở người quân tử đó là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Việc đặt ra các
Liên Khánh Châu 10
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chuẩn mực như thế đã vô tình gò ép con người vô một khuôn phép quá khắt khe và
việc xây dựng nhân cách đạo đức cho con người hoàn toàn không dựa trên các quan
hệ kinh tế - xã hội, mà chỉ dựa duy nhất vào tầng lớp thống trị làm cho tư tưởng này
trở nên duy tâm, không phù hợp với thực tế.
2.2.2 Nho Giáo có tư tưởng mang đậm tính nguyên tắc
Nho Giáo với những tư tưởng quá khắt khe bảo thủ và khuôn mẫu không chịu
tiếp thu những cái mới ưu việt hơn, điều này đã làm cho Nho Giáo ngày càng già

cỗi, không còn sức sống và dần dần bị lụi tàn.
Cũng chính vì mang đậm tính nguyên tắc mà trong một thời gian dài Nho Giáo
đã làm ảnh hưởng và trì trệ tình hình phát triển của xã hội thời bấy giờ so với các
nước phương Tây.
2.2.3 Nho Giáo quá xem trọng tư tưởng thiên mệnh
Khổng tử cho rằng sự hiểu biết về thiên mệnh được xem là điều kiện tiên quyết
để trở thành con người hoàn thiện.” Không hiểu mệnh trời thì không trở thành người
quân tử. Đã biết có mệnh trời thì phải sợ và thuận mệnh. Đó là cái đức của người
quân tử. Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời…” [3, 28 ]. Vì quá xem trọng thuyết
thiên mệnh này mà con người thời nay thường an phận và cam chịu những gì được
cho là số phận an bài mà không chịu phấn đấu để vượt lên số phận. “ Con quan thì
lại làm quan, con sải ở chùa lại quét lá đa”. Cũng chính vì như vậy mà con người
thường ỷ lại vào số phận và thân thế, còn những người có tài thì không có cơ hội để
vươn lên. Đây cũng chính là một tư tưởng góp phần tạo nên tính quan liêu, phong
kiến trầm trọng thời bấy giờ.
2.2.4 Nho Giáo mang đậm tính duy tâm tôn giáo
Liên Khánh Châu 11
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa
học tư nhiên, kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn
minh phương Tây vốn xuất hiện sau.
2.2.5 Nho Giáo với quan điểm hạn chế là phân biệt nam nữ
Đây là một tư tưởng sai lầm và gây ảnh hưởng rất lớn đến tận thời nay. Vào
thời này người phụ nữ thường không được đi học chữ, mà chỉ học cầm, kì, thi, họa,
sau đó đến tuổi lấy chồng thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu” [7]. Điều này đã
làm cho người phụ nữ thời bấy giờ bị xem thường và phụ thuộc quá nhiều vào đàn
ông. Làm cho người phụ nữ chân yếu tay mềm và trở thành đối tượng bị áp bức
nhiều nhất trong xã hội. Họ đã bị tước đi quyền được quyết định cuộc đời mình, tất

cả đều bị phụ thuộc vào người khác. Tư tưởng này sau này đã bị bác bỏ và là nguyên
nhân của nhiều cuộc nổi dậy đòi lại quyền lợi cho người phụ nữ, họ cần được tôn
trọng và được đối đãi một cách công bằng. Thực tế cũng đã chứng minh ngày nay
có nhiều người phụ nữ đã rất thành công và những gì mà đàn ông làm được họ vẫn
có thể làm được. Tuy nhiên sức ảnh hưởng của tư tưởng này quá lớn, thậm chí ngày
này ở một số nước trên thế giới nó vẫn tồn tại việc phân biệt và bất bình đẳng giữa
nam và nữ.
Liên Khánh Châu 12
Tư tưởng Triết học Nho Gia và những giá trị hạn chế của nó GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Chương 3: KẾT LUẬN
Nho Gia khi ra đời đến nay đã hơn 2500 năm với khao khát cải biến xã hội thời
Xuân Thu – Chiến Quốc từ loạn thành trị là một khao khát thầm kín và mang một ý
nghĩa nhân văn rất sâu sắc. Với ý tưởng xây dựng một xã hội đại đồng là một xã hội
bình đẳng và có giáo dục. Đây là một xã hội mà biết bao thế hệ luôn ao ước. Bằng
việc giáo dục đạo đức cho giai cấp thống trị để trở thành người quân tử thông qua
việc tu thân, phải đạt đạo và đức. Nho Gia đã góp phần rất lớn trong việc giáo dục
và rèn luyện đạo đức cho con người. Đây là một điều rất đáng quý và có ý nghĩa rất
to lớn. Tuy nhiên Nho Gia hoàn toàn không dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội,
không xuất phát từ việc xây dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng
nhân dân bị trị, mà chỉ dựa trên các quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội, xuất phát từ
việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và chỉ dựa duy
nhất vào tầng lớp thống trị là một chủ trương duy tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế cuộc
sống bấy giờ. Dù sao tư tưởng Nho Gia cũng đã có những đóng góp rất to lớn đến
nền văn hóa và triết học thời bấy giờ. Và Khổng Tử với những tư tưởng mang tính
nhân bản rất đáng quý và là một trong những triết gia vĩ đại nhất có nhiều đóng góp
với lịch sử phát triển của Triết hoc nói chung và Triết học phương Đông nói riêng.

Liên Khánh Châu 13
Tài liệu tham khảo
1. Võ Thiện Điển, Khổng Tử Thầy muôn thuở phương Đông, NXB Văn Hóa –

Thông Tin, 2009
2. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết học,
Khoa lý luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT Tp.HCM, 2011.
3. TS. Nguyễn Ngọc Thu ( chủ biên), Lịch Sử Triết học, Khoa lý luận chính trị
tiểu ban triết học Trường ĐHKT Tp.HCM, 2003.
4. Nguyễn Ước, Đại Cương Triết Học Đông Phương, NXB Tri Thức, 2009.
5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong
“Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”” - Hoàng Thị Bình.
6. www.diendankienthuc.net ngày truy cập: 15/2/2012.
7. www.vn.net ngày truy cập : 20/2/2012.
8. www.dunglac.org ngày truy cập : 24/2/2012.

×