Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG KHU CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.73 KB, 18 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Khu công nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát
triển ở châu Á. Các khu công nghiệp phát triển nhanh chóng đem lại lợi ích về
kinh tế rất lớn cho các quốc gia.
Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là tốc độ phát triển kinh tế “nóng” của các
KCN và sự tập trung công nghiệp trong một khu vực nhất định đã kéo theo
nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường.
Số liệu thống kê cho thấy, trong số 131 KCN đã xây dựng xong và đưa vào
vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung, 10 KCN đang xây dựng, các KCN
còn lại thì chưa xây dựng. Ngay cả ở những KCN đã có trạm xử lý nước thải
tập trung, thì chất lượng thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa
đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một
số KCN tập trung tập các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da, ngành
hoá chất độc hại cao.
Cùng với đó, người dân đang phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ
việc phát triển các KCN ở địa phương, sự ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, sự
thoái hoá đất đai do những chất thải độc hại từ KCN gây ra
Từ những hậu quả nghiêm trọng nói trên thì việc đưa ra các quy định,
chính sách nhằm bảo vệ môi trường khu công nghiệp là vấn đề rất cấp thiết.
Vì vậy nhóm chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “ các công cụ
quản lý môi trường khu công nghiệp”.
II. NỘI DUNG:
1.2. Hiện trạng công tác quản lý môi trường khu công nghiệp
Việt Nam:
Theo thống kê, Việt Nam có trên 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp,
đóng góp của công nghiệp vào GDP là rất lớn. Tuy nhiên chúng ta cũng phải
chịu nhiều thiệt hại về môi trường do lĩnh vực công nghiệp mang lại. Hiện nay
khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp và phần lớn các khu công nghiệp chưa
có trạm xử lý nước thải. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, nặng
nhất là công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây


dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản. Tính đến cuối năm 2002 cả nước có
khoảng 74 khu công nghiệp với tổng diện tích đất tự nhiên 13.300 ha, không kể
khu công nghiệp Dung Quất với diện tích 14.000 ha, trong đó có 68 khu công
nghiệp, 4 khu chế xuất và 2 khu công nghiệp cao. Phần lớn các khu công nghiệp
được thành lập tại các vùng kinh tế trọng điểm. Cùng với sự gia tăng năng lực
sản xuất và đa dạng hoá sản phẩm, các khu công nghiệp ngày càng làm cho môi
trường ô nhiễm nặng nề, mà đây là vấn đề thường bị bỏ qua. Rất ít khu công
nghiệp có nhà máy xử lý nước thải tập trung, hầu hết các khu công
nghiệp đều chưa có hệ thống lưu trữ và xử lý chất thải rắn an toàn về mặt môi
trường, đặc biệt là chất thải nguy hại. Chúng ta chưa thống kê, đo được khối
lượng chất thải độc hại, kim loại nặng (chì, thuỷ ngân, crôm ) trong các doanh
nghiệp sản xuất ắc quy, cơ khí, điện tử Hiện nay phần lớn các đơn vị đầu tư
kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thường không có đủ vốn để đầu tư
cơ sở hạ tầng như đường sá, sân bãi, cấp điện, cấp nước, giao thông, thông tin
liên lạc cơ sở hạ tầng về môi trường. Dẫn đến tình trạng chung là hệ thống cơ
sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh nhưng đã có một số các nhà máy, xí nghiệp công
nghiệp hoạt động. Vì vậy ô nhiễm môi trường khu công nghiệp là điều khó
tránh khỏi. Vùng trọng điểm phía Nam, ngoài 7 khu công nghiệp đã xây dựng
trạm xử lý nước thải tập trung còn phần lớn các nhà máy nằm trong và ngoài
khu công nghiệp đều không có hệ thống xử lý nước thải cục bộ trước khi xả vào
nguồn, hoặc nếu có thì hoạt động không hiệu quả. Nhiều trạm xử lý vận hành
không đúng quy cách. Nhiều nhà máy hoạt động gây ra tiếng ồn ở mức độ khá
cao, nhà xưởng chưa thông thoáng, nhiều nơi khí độc và nhiệt thừa tích tụ trong
không gian làm ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Theo các chuyên gia về
môi trường tập trung hàng trăm nhà máy lớn nhỏ, vào một khu công nghiệp, tạo
nên ảnh hưởng tích tụ từ nhiều nguồn ô nhiễm đến nước, không khí và đất. Nếu
nhiều nhà máy sử dụng hoá chất nằm gần nhau có thể thải ra các loại hoá chất
tương tác hoặc trộn lẫn gây ảnh hưởng tích luỹ hoặc cộng sinh đến môi trường
khu vực và cộng đồng dân cư lân cận.
Hiện nay vẫn chưa có những quy định thống nhất về môi trường dành cho

khu công nghiệp, chưa có những công cụ chính sách môi trường thích hợp và
chưa xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng môi trường cho khu công
nghiệp. Với chức năng được giao, Ban quản lý môi trường các khu công nghiệp
có thẩm quyền xử phạt các vi phạm về môi trường tương đương với cấp
quận/huyện nhưng do chưa có tổ chức thanh tra môi trường chuyên trách nên
chưa có sự phối hợp chặt chẽ và kịp thời với thanh tra môi trường Sở Khoa học,
Công nghệ và Môi trường.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong các khu công
nghiệp còn chưa hoàn chỉnh. Chưa hình thành hệ thống các quy định thống nhất
về công tác quản lý môi trường theo các loại hình ô nhiễm rắn, lỏng, khí và
chưa thích hợp với đặc điểm của các KCN - đòi hỏi quản lý ô nhiễm theo từng
ngành và theo cả hệ thống trong KCN là chưa phù hợp. Quy định về thẩm định
môi trường đối với các dự án trong KCN chậm được đổi mới và không có chế
tài mang tính bắt buộc. Ngoài cơ chế hỗ trợ theo Quyết định 183 năm 2003 của
Thủ tướng Chính phủ, thì cơ chế hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý chất thải ở
KCN vẫn chưa được hình thành. Hơn nữa, việc có nhiều đầu mối quản lý KCN
cũng dẫn đến hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong quản lý môi trường trong
KCN chưa được tốt.
So với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các KCN đã
đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành đã
tăng lên đáng kể, từ gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế
hoạch 5 năm 2011-2015 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi
vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường.
Ngoài việc tăng số lượng KCN xây dựng và vận hành công trình xử lý
nước thải tập trung, theo báo cáo của nhiều địa phương, đặc biệt là các địa
phương tập trung nhiều KCN như Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh, ý thức bảo vệ môi trường của các chủ đầu tư hạ tầng KCN cũng như của
các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN cũng đã được cải thiện theo hướng tích
cực. Các sở, ngành ở địa phương đã tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc doanh

nghiệp thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
II.2 Những thành phần chủ yếu gây ô nhiễm môi trường ở khu
công nghiệp:
• Chất thải rắn: là chất thải phát sinh từ các hoạt động sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các nguồn phát sinh chất thải công nghiệp gồm:
- Các phế thải từ vật liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp, tro, xỉ, trong các
nhà máy nhiệt điện
- Các phế thải từ nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất;
- Các phế thải trong quá trình công nghệ
- Bao bì đóng gói sản phẩm
Tại các vùng kinh tế trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An.
Vùng đã và đang hình thành các trung tâm đô thị, thương mại dịch vụ, công
nghiệp lớn vào bậc nhất nước ta. Tuy nhiên, quá trình phát triển với tốc độ cao
trên toàn vùng đã và đang làm phát sinh một khối lượng lớn chất thải rắn, ảnh
hưởng không nhỏ đến môi trường. Ta có thể thấy điều này qua một số thống kê.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, lượng phát thải chất thải rắn từ các cơ sở công
nghiệp trên thành phố khoảng 1.202 tấn/ngày, tại Đồng Nai là 240 tấn, tại Bình
Dương ước tính khoảng 100 tấn/ngày… Lượng chất thải rắn tại các KCN ngày
càng gia tăng, nhưng vấn đề thu gom và xử lý chất thải tại các KCN còn nhiều
bất cập, nhất là đối với việc quản lý, vận chuyển và đăng ký nguồn thải đối với
chất thải nguy hại. Sự thiếu đồng bộ trong quản lý cộng với sự gia tăng nhanh
chóng của chất thải rắn công nghiệp đã và đang gây nên những ảnh hưởng xấu
tới môi trường.
• Nước thải công nghiệp: là nước thải được sinh ra trong quá trình sản
xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và các hoạt động phục vụ cho sản
xuất như nước thải khi tiến hành vệ sinh công nghiệp hay hoạt động sinh hoạt
của công nhân viên.
Trong Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2009 do Bộ TN&MT công bố
ngày 1/6/2010 tại Hà Nội cho biết: khoảng 70% trong số hơn một triệu m3 nước

thải một ngày từ các khu công nghiệp (KCN) được xả thẳng ra môi trường
không qua xử lý. Có đến 57% số KCN đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý
nước thải tập trung, nước thải không qua xử lý từ các KCN xả thải trực tiếp vào
môi trường gây ra những thiệt hại không nhỏ tới hoạt động sản xuất nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại các khu vực lân cận.
• Bụi, khí thải, và tiếng ồn:
Ngoài ra, tại các KCN, ô nhiễm khí bụi và tiếng ồn là loại hình ô nhiễm
khó kiểm soát. Khí thải của các cơ sở sản xuất chứa nhiều chất độc hại được xả
trực tiếp vào môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân quanh
vùng. Theo kết quả quan trắc, nồng độ chất SO
2
, CO, NO
2
gần KCN hoặc trong
các KCN đang gia tăng. Nồng độ bụi tại ven các trục giao thông chính đều đã
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-6 lần. Tại nhiều nhà máy cơ khí, luyện kim, công
nghiệp hoá chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến khoáng
sản trong KCN, nồng độ bụi và khí độc hại (điển hình là khí SO
2
) trong không
khí, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-5 lần.
3.2. Các công cụ quản lý môi trường khu công nghiệp:
3.2.1 Công cụ mệnh lệnh kiểm soát:
Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực môi
trường KCN đã nỗ lực xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách và triển khai
thường xuyên nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường. Một số công việc cụ thể đã triển khai là:
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008
quy định về KCN, KCX và KKT, trong đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm
của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh

giá tác động môi trường, xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường theo hướng
tăng cường phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT trong thực hiện
một số nhiệm vụ bảo vệ môi trường KCN, KKT. Việc tăng cường phân cấp, ủy
quyền cho Ban quản lý KCN, KKT đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Ban quản
lý KCN, KKT-cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp các KCN, KKT thực hiện sát
sao hơn nhiệm vụ quản lý, kiểm tra, giám sát môi trường KCN, KKT.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thường xuyên có văn bản chỉ đạo, đôn đốc,
hướng dẫn các địa phương tăng cường quản lý môi trường KCN, KKT; phối
hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thanh tra, kiểm tra tình hình
hoạt động của các KCN, KCX, KKT, trong đó có tình hình bảo vệ môi trường
KCN, KCX, KKT
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-
BTNMT, ngày 15/7/2009, về Quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh
tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp.
Thông tư quy định cụ thể trách nhiệm trong hoạt động bảo vệ môi trường
đối với cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường các cấp; Ban Quản lý
khu kinh tế, Ban Quản lý khu công nghệ cao, Ban Quản lý khu công nghiệp và
Cơ quan quản lý cụm công nghiệp; chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu
hạ tầng kỹ thuật khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công
nghiệp và tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có liên quan đến hoạt động đầu
tư, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu
công nghiệp và cụm công nghiệp .Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 9 năm 2009 và thay thế Quyết định số 62/2002/QĐ-BKHCNMT ngày
09/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban
hành Quy chế bảo vệ môi trường khu công nghiệp.
Quy chế này quy định việc quản lý thống nhất về bảo vệ môi trường các
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao nhằm bảo vệ môi trường
bên trong và xung quanh khu công nghiệp. Quy chế nêu rõ: Bảo vệ môi trường
KCN là các hoạt động nhằm giữ cho môi trường bên trong và xung quanh KCN
được trong sạch, cải thiện môi trường, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do

các hoạt động của KCN gây ra cho môi trường.
Quy chế quy định: KCN chỉ chính thức đi vào hoạt động khi có đủ các điều
kiện đảm bảo môi trường như: Có quy hoạch chi tiết phân khu cụm công
nghiệp; Có hệ thống cấp điện, nước đảm bảo cho nhu cầu sử dụng theo từng
giai đoạn phát triển; Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thoát nước mưa và thoát
nước thải riêng biệt; Có trạm xử lý nước thải tập trung đảm bảo đạt tiêu chuẩn
xử lý xả thải vào nguồn tiếp nhận tương ứng; Có địa điểm và phương tiện cần
thiết sẵn sàng cho việc trung chuyển và/hoặc lưu trữ tạm thời chất thải rắn công
nghiệp, chất thải nguy hại với điều kiện đảm bảo hợp vệ sinh và an toàn cho
môi trường
Bộ KHCN&MT có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường đối với các KCN trên lãnh thổ Việt Nam; tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra việc thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường của các KCN. Bộ
KHCN&MT giao cho Cục Môi trường trực tiếp quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường KCN với các nội dung như: Tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM của
các dự án đầu tư xây dựng KCN; Thẩm định các dự án xây dựng nhà máy xử lý
nước thải tập trung, trạm trung chuyển, lưu giữ và bãi chôn lấp chất thải nguy
hại của KCN; Đề xuất việc điều chỉnh tiêu chuẩn thải cho phép với các KCN;
Tổ chức chỉ đạo xây dựng báo cáo thường niên về hiện trạng môi trường KCN
Việt Nam; Chỉ đạo, tổ chức các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, thanh tra môi
trường KCN, giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bảo vệ môi
trường KCN và ra quyết định xử phạt các trường hợp vi phạm quy chế bảo vệ
môi trường trong phạm vi thẩm quyền; Làm đầu mối quản lý, cung cấp thông
tin hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ xử lý và quản lý môi trường KCN; Phối hợp với
các cơ quan chức năng xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KCN trong
phạm vi cả nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
môi trường
Sở KHCN&MT chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương về công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN, đồng
thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ KHCN&MT về chuyên môn, nghiệp vụ,

chính sách vĩ mô thực hiện nội dung công tác quản lý về bảo vệ môi trường
KCN; Tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi
trường KCN trong phạm vi quyền hạn được giao hoặc chuyển đến các cơ quan
có thẩm quyền xử lý
Quy chế cũng đã khẳng định nếu Công ty phát triển hạ tầng KCN và các
doanh nghiệp KCN vi phạm quy chế bảo vệ môi trường KCN sẽ bị xử phạt
hành chính về bảo vệ môi trường theo Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 của
Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt
Nam. Công ty phát triển hạ tầng KCN, các doanh nghiệp KCN cố tình gây cản
trở công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra môi trường sẽ bị lập biên bản trình lên
UBND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương hoặc/và Bộ KHCN&MT để có
quyết định xử lý.
Hiện nay trong thực tế chúng ta có thể thấy rất nhiều trường hợp vi phạm
đã bị cơ quan chức năng xử lý, điển hình như Công ty TNHH Nihon Etching,
đang hoạt động tại Lô 37 khu công nghiệp Quang Minh, sản xuất lắp ráp, gia
công bảo dưỡng và xử lý bề mặt các loại dụng cụ và khuôn mẫu (mạ), khi kiểm
tra, công ty thực hiện không đúng một trong các nội dung trong báo cáo đánh
giá tác động môi trường đã được phê duyệt và các yêu cầu khác trong quyết
định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, vi phạm Điều 9 Khoản 1
Nghị định số 81/2006NĐ- CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.Quản lý, vận chuyển và xử lý chất
thải nguy hại không đúng quy định về bảo vệmôi trường, vi phạm Điều 15
Khoản 3 Nghị định số 81/2006NĐ-CP.
Hiện nay vấn đề môi trường ngày càng nhận được sự quan tâm của thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng, trong đó nguồn ô nhiễm chủ yếu và nghiêm
trọng lại xuất phát từ các khu công nghiệp, vì vậy những quy định, chế tài áp
dụng trong việc bảo vệ môi trường khu công nghiệp ngày càng gia tăng và thắt
chặt hơn. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để cải thiện và nâng cao
chất lượng môi trường khu công nghiệp.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì vấn đề bảo vệ môi trường khu công

nghiệp còn gặp nhiều khó khăn:
Một trong những nguyên nhân chính là do bài toán lợi nhuận: Điển hình
như trong vấn đề xử lý nước thải nếu như đầu tư hệ thống xử lý nước thải,
ngoài tốn chi phí mua máy móc, công nghệ, doanh nghiệp phải tốn thêm các
khoản như chi phí bảo trì, nhân công, hóa chất để vận hành dây chuyền này.
Trong khi đó mức phạt cao nhất đối với những trường hợp vi phạm cũng chỉ
100 triệu đồng, số tiền này so với phần lợi nhuận họ thu được từ việc xả thải mà
không xây dựng hệ thống xử lý là quá nhỏ cho nên thay vì bỏ một khoản chi phí
lớn để đầu tư xây dựng hệ thống thì họ sẵn sàng chấp nhận nộp phạt. Tình trạng
này diễn ra ở hầu hết các khu công nghiệp, điều này chứng tỏ các công cụ được
sử dụng chưa mang lại hiệu quả cao do chế tài xử lý chưa mạnh tay. Dù mức xử
phạt trong Nghị định 117/2009/NĐ-CP đã tăng hơn nhiều so với Nghị định
80/2006/NĐ-CP, nhưng vẫn thấp hơn so với thiệt hại mà doanh nghiệp vi phạm
gây ra.
Ngày 31/12/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 117/2009/NĐ-CP về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Theo đó, mức phạt
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cao nhất có thể lên đến 500 triệu đồng/doanh
nghiệp. Ngoài việc nộp phạt hành chính, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm,
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung, từ
tước quyền sử dụng đối với Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường, Giấy
phép hành nghề vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại; Giấy phép xả nước thải
vào nguồn nước và các loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề có nội dung liên
quan về bảo vệ môi trường… đến tạm đình chỉ hoạt động, cấm hoạt động và
buộc di dời. Đối với ô nhiễm nước thải, ngoài cảnh cáo thì mức phạt nhẹ nhất là
từ 100 – 500 nghìn đồng trong trường hợp thải lượng nước thải nhỏ hơn
10m3/ngày đêm, mức phạt cao nhất là từ 400 - 500 triệu đồng cho các hành vi
xả nước thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật cho phép. Trong khi đó, mức phạt hành chính thấp nhất đối
với vi phạm về thải khí, bụi là 500 nghìn đồng đến 2 triệu đồng cho hành vi thải

mùi hôi thối, mùi khó chịu vào môi trường. Hành vi thải khí, bụi vượt tiêu
chuẩn kỹ thuật về chất thải (dưới 1,5 lần) sẽ bị phạt từ 1 - 120 triệu đồng. Mức
phạt tăng dần lên tới 500 triệu đồng trong trường hợp vi phạm thải khí, bụi có
chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt tiêu huẩn, quy chuẩn kỹ
thuật cho phép. Đối với các vi phạm về tiếng ồn, mức phạt thấp nhất là 2 triệu
đồng và cao nhất là 100 triệu đồng. Mức phạt cao nhất áp dụng cho các hành vi
gây tiếng ồn vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn từ 1,5 lần trở lên
trong khoảng thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ ngày hôm sau. Vi
phạm các quy định về độ rung sẽ bị phạt tiền từ 15 - 50 triệu đồng. Các hành vi
gây ô nhiễm đất, nước hoặc không khí bị phạt tiền từ 10 - 500 triệu đồng.
Trong thời gian qua, có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định
này và vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt quá ít so với việc phải đầu tư
trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Một số doanh nghiệp gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa thực hiện các biện pháp khắc phục, mặc
dù đã quá thời hạn khắc phục hậu quả cũng vẫn chưa bị xử phạt theo Nghị định
117. Nói tóm lại công tác thanh tra môi trường còn kém, các chế tài xử phạt còn
nhẹ,( mức phạt về tiền quá dễ dàng cho cơ sở tiếp tục vi phạm Luật BVMT, lợi
nhuận của doanh nghiệp chưa tính đến chi phí phải chi cho công tác BVMT).
chưa nghiêm minh và chưa có tính răn đe.
Một biểu hiện nửa vời nữa trong xử lý vi phạm về môi trường lâu nay là
công tác kiểm tra sau xử lý không được thực hiện đầy đủ, dẫn đến tình trạng
DN chỉ cần nộp tiền phạt là có thể coi như đã chấp hành xong quyết định xử
phạt, còn việc khắc phục thế nào thì tới đâu hay tới đó.
Mặt khác, đối với các DN vi phạm, bị phạt tiền nhiều hay ít không đáng
ngại bằng việc bị công khai ra trước dư luận vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, hình
ảnh DN. Cách đây vài năm, Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp
TP.HCM đăng công khai “danh sách đen” các DN gây ô nhiễm tại các khu chế
xuất, khu công nghiệp trên địa bàn và hiệu quả thấy rõ là các DN sau đó chạy
đua với thời gian để khắc phục vi phạm nhằm sớm được rút tên khỏi danh sách.
Điều 58, nghị định 117 do Chính phủ ban hành ngày 31-12-2009 về xử lý

vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường quy định biện pháp công khai thông
tin về tình hình ô nhiễm và vi phạm pháp luật của các DN gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Điều này cho phép người ra quyết định xử phạt có quyền
chủ động công khai trên các website chuyên ngành, các phương tiện thông tin
đại chúng về vi phạm của DN nhằm răn đe những trường hợp tương tự.
Tuy nhiên, nhiều cán bộ, cơ quan có thẩm quyền xử phạt lại hiểu rằng chỉ
những trường hợp vi phạm được kết luận là nghiêm trọng mới được cung cấp
thông tin cho báo chí. Vì thế, rất nhiều vụ vi phạm được các cơ quan này phát
hiện, xử phạt nhưng khi báo chí đề nghị cung cấp thông tin thì chỉ nhận được
cái lắc đầu với lý do “không được phép công khai”. Cách hiểu như thế này rất
dễ tạo kẽ hở để người thực thi pháp luật với đối tượng vi phạm thỏa hiệp cùng
nhau để bưng bít thông tin mà lẽ ra dư luận có quyền được biết, từ đó giảm hiệu
quả răn đe của biện pháp xử lý vi phạm.
Một biểu hiện nửa vời trong xử lý vi phạm về môi trường lâu nay là công
tác kiểm tra sau xử lý không được thực hiện đầy đủ, dẫn đến tình trạng DN chỉ
cần nộp tiền phạt là có thể coi như đã chấp hành xong quyết định xử phạt, còn
việc khắc phục thế nào thì tới đâu hay tới đó.
Mặt khác, đối với các DN vi phạm, bị phạt tiền nhiều hay ít không đáng
ngại bằng việc bị công khai ra trước dư luận vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, hình
ảnh DN. Cách đây vài năm, Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp
TP.HCM đăng công khai “danh sách đen” các DN gây ô nhiễm tại các khu chế
xuất, khu công nghiệp trên địa bàn và hiệu quả thấy rõ là các DN sau đó chạy
đua với thời gian để khắc phục vi phạm nhằm sớm được rút tên khỏi danh sách.
Ngoài những khó khăn trên, trong thực tế công cụ quản lý ô nhiễm bằng
mệnh lệnh kiểm soát chưa hát huy hiệu quả cao còn do hệ thống văn bản pháp
luật về bảo vệ môi trường của nước ta hiện nay nhìn chung vẫn còn chưa đầy
đủ, chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ; thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn
việc thực hiện quy chế quản lý chất thải nguy hại; các địa phương áp dụng chưa
thống nhất và còn nhiều lúng túng và nhất là thiếu các chế tài xử phạt cụ thể đối
với các hành vi vi phạm. Phạm vi điều chỉnh của các điều khoản mới chỉ dừng

lại ở việc đưa ra một cách chung chung và chưa có tính hệ thống, đồng bộ, cụ
thể cho các đối tượng liên quan. Tất cả những điều này khiến cho các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội “lách luật”, vì vậy mà cho đến nay, chúng ta chưa giải
quyết được thấu đáo các vấn đề liên qua đến quản lý môi trường khu công
nghiệp và thực sự chưa thu được những kết quả khả quan như mong đợi.
3. 2.2. Công cụ Kinh tế:
Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích
trong hoạt động của các khu công nghiệp để tạo ra các tác động tới hành vi ứng
xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường (Thuế và phí môi trường, giấy phép
chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm", ký quỹ môi trường, trợ cấp
môi trường, nhãn sinh thái.)
Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác động
tích cực như các hành vi môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các
chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến
khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi
trường, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho
ngân sách nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia.
Ở nước ta trong lĩnh vực quản lý môi trường khu công nghiệp:
+ Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày
19/3/2009 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho xây dựng cơ sở hạ
tầng KCN ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (thay thế Quyết
định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004). Theo đó, các KCN ở địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn được ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần cho
xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung cho KCN. Việc triển khai Quyết
định số 183/2004/QĐ-TTg và Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg đã góp phần tích
cực trong việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung
ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Hiện tại, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước
thực hiện chức năng hỗ trợ tài chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong đó
các loại hình dự án mà quỹ cho vay tập trung vào các lĩnh vực như: xử lý chất

thải công nghiệp của các khu công nghiệp, xử lý nước thải của nhà máy, xí
nghiệp, xử lý ô nhiễm làng nghề, xử lý khói bụi xi-măng và các loại bụi khác,
triển khai công nghệ sạch, thân thiện môi trường và tiết kiệm năng lượng
Trong suốt thời gian hoạt động (từ năm 2002 và chính thức cho vay từ năm
2004), quỹ đã cam kết cho vay hơn 566 tỷ đồng với tổng số 113 dự án trải khắp
33 tỉnh, thành phố trong cả nước, tài trợ số tiền hơn 21 tỷ đồng, ký quỹ phục hồi
môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản đạt gần 25 tỷ đồng, thu lệ phí
bán CERs hơn 31 tỷ đồng. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực xử lý chất thải
của các khu công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 45,14%, trong khi các dự án
Triển khai công nghệ sạch, thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng vẫn còn
hạn chế, mới chỉ ở mức 4,26% với 17 dự án.
+Phí môi trường: Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Việt Nam quy định thu
phí với 7 chất gây ô nhiễm đối với nước thải công nghiệp ở tất cả các cơ sở sản
xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Đối với quản lý nước thải:
Mức thu phí và cách tính phí nước thải công nghiệp ở Việt Nam: Theo
nghị định 67/2003/NĐ-CP mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
công nghiệp của Việt Nam được tính theo từng chất gây ô nhiễm có trong nước
thải, theo từng môi trường tiếp nhận.
Thu phí nước thải không có nghĩa là thu nước thải ra mà là thu những chất
gây ô nhiễm hòa tan trong lượng nước thải. Nếu nước thải chứa càng nhiều hợp
chất gây ô nhiễm môi trường thì thu phí càng nhiều và ngược lại
Thu phí nước thải chỉ là một trong số nhiều công cụ kinh tế quản lý môi
trường đã, đang và sẽ được đẩy mạnh áp dụng trong hời gian tới. Giải pháp ưu
tiên này đã được ghi rõ trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020 đã được chính phủ phê duyệt.
Việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hiện đang được các tổ
chức doanh nghiệp, hộ gia đình rất quan tâm. Tuy nhiên, trong quá trình triển
khai, thực hiện việc thu phí nhiều địa phương, doanh nghiệp vẫn còn lúng túng
và bản thân nhà quản lý cũng gặp không ít khó khăn.

Khó nhất hiện nay của việc thu phí nước thải công nghiệp là việc xác định
khối lượng chất thải. Hiện nay, một số địa phương tự đi đo, có nơi thì lấy số
liệu của Báo cáo đánh giá tác động môi trường, nơi thì lấy kết quả của thanh tra,
quan trắc định kỳ. Nhưng số liệu giữa các đơn vị rất khác nhau, thời gian đầu
các địa phương còn lúng túng trong việc thu phí nên đã tạm dừng việc lấy mẫu
phân tích mà giao cho các doanh nghiệp tự kê khai sau đó gửi tờ khai đến Sở
TN&MT thẩm định.
+ Nhãn sinh thái, doanh nghiệp xanh, sản xuất sạch hơn:
Theo Mạng lưới nhãn sinh thái toàn cầu (GEN) định nghĩa Nhãn sinh thái
là nhãn chỉ ra tính ưu việt về mặt môi trường của một sản phẩm, dịch vụ so với
các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên các đánh giá vòng đời sản phẩm.
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước cấp cho các sản phẩm không
gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình
sử dụng các sản phẩm đó".
Ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, được dán nhãn sinh thái là
một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất. Vì thế các sản
phẩm có nhãn sinh thái thường có sức cạnh tranh cao và giá bán ra thị trường
cũng thường cao hơn các sản phẩm cùng loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công
cụ kinh tế tác động vào nhà sản xuất thông qua phản ứng và tâm lý của khách
hàng. Do đó, rất nhiều nhà sản xuất đang đầu tư để sản phẩm của mình được
công nhận là "sản phẩm xanh", được dán "nhãn sinh thái" và điều kiện để được
dán nhãn sinh thái ngày càng khắt khe hơn. Nhãn sinh thái thường được xem
xét và dán cho các sản phẩm tái chế từ phế thải (nhựa, cao su, ), các sản phẩm
thay thế cho các sản phẩm tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm có tác
động tích cực đến môi trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó
ảnh hưởng tốt đến môi trường.
Chương trình Nhãn xanh Việt Nam được triển khai trên phạm vi toàn quốc
từ tháng 3 năm 2009(ngày 05 tháng 3 năm 2009 Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã ra Quyết định số 253/QĐ-BTNMT phê duyệt Chương trình cấp
nhãn sinh thái) nhằm mục tiêu liên tục cải thiện và duy trì chất lượng môi

trường sống thông qua giảm thiểu sử dụng và tiêu dùng năng lượng, vật liệu
cũng như các loại chất thải sinh ra do quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng phục vụ đời sống.
Để đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường, Chương trình Nhãn xanh Việt
Nam thực hiện đánh giá khả năng kiểm soát, hạn chế tác động đối với môi
trường của các loại sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng theo quan điểm “xem xét toàn
bộ vòng đời sản phẩm”. Theo đó, lợi ích môi trường mà mỗi sản phẩm có khả
năng mang lại từ việc giảm thiểu phát thải các loại chất gây ô nhiễm, chất độc
hại ra môi trường từ các khâu khai thác nguyên/vật liệu, sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng cho đến khi thải bỏ đối với loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng đó
sẽ được xem xét và đánh giá trên cơ sở các bộ tiêu chí được xây dựng riêng cho
từng loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng.
Người tiêu dùng và khách hàng có nhiều thông tin hơn về các tác động của
sản phẩm hoặc dịch vụ đối với môi trường và sức khoẻ con người, và họ ngày
càng có nhận thức cao hơn đối với những vấn đề môi trường. Những lý do này
làm cho ngày càng có nhiều người tiêu dùng muốn chuyển tải những nhận thức
của họ sang sự thay đổi về ý thức mua hàng cái mà người ta vẫn dùng là “người
tiêu dùng xanh”.
Mục đích của nhãn sinh thái là khuyến khích việc sản xuất và tiêu dùng
những sản phẩm thân thiện với môi trường, xây dựng ý thức bảo vệ môi trường
trong xã hội gắn với lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa
nhãn sinh thái là một lĩnh vực mà các lợi ích kinh tế - môi trường chủ yếu có
thể được nhận qua việc khai thác mối quan tâm đến môi trường của người tiêu
thụ sản phẩm.
Sự ra đời của nhãn sinh thái có mục đích giúp cho ngời tiêu dùng nhận biết
được những tính năng thân thiện với môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ, để
từ đó đưa ra sự lựa chọn của mình. Nếu sản phẩm được cấp nhãn sinh thái càng
ngày càng được nhiều người tiêu dùng lựa chọn thì điều đó chứng tỏ nó đã kích
thích các doanh nghiệp thay đổi quá trình công nghệ nhằm đáp ứng được các
tiêu chí môi trường và yêu cầu của người tiêu dùng, hay nói cách khác các

doanh nghiệp có các sản phẩm được dán nhãn sinh thái sẽ có uy tín hơn đối với
người tiêu dùng, họ sẽ tiêu thụ được sản phẩm nhiều và thu lợi lớn hơn.
Nhãn sinh thái cung cấp thông tin trung thực liên quan đến việc làm giảm
thiểu những tác động xấu của hàng hóa đến môi trường, dịch vụ giữa người sản
xuất với người tiêu dùng tạo nên sự ổn định về cung, cầu và giá cả, giúp cho
hoạt động thương mại ổn định vững chắc và lâu dài. Hiện nay, tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, điều đó đặt ra yêu cầu về một nền sản
xuất bền vững, trong sạch. Các nhà sản xuất muốn ổn định được sản lượng sản
xuất cũng như doanh số bán ra, cần phải chứng minh cho người tiêu dùng biết
rằng sản phẩm của mình không gây ô nhiễm môi trường. một trong những
phương tiện thực hiện điều đó là “nhãn sinh thái”.Mục tiêu của việc cấp Nhãn
xanh Việt Nam nhằm khuyến khích các doanh nghiệp thiết kế sản phẩm và tiến
hành hoạt động theo hướng giảm các tác động có hại tới tài nguyên và môi
trường trong suốt quá trình khai thác nguyên liệu, sản xuất, bao gói, vận
chuyển, tiêu thụ và thải bỏ sản phẩm. Đồng thời, khuyến khích ngành công
nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm vào thị trường thế giới với cam kết thực
hiện các quy định về môi trường đáp ứng các tiêu chuẩn sản phẩm theo ISO
14024.Như vậy thông qua thị trường sản phẩm nó điều tiết hành vi của các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp góp phần bảo vệ môi trường.
Như chúng ta đã thấy, việc dán nhãn sinh thái mang lại hiệu quả cao trong
vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và tại các khu công nghiệp nói riêng, song,
do nhiều hạn chế về mặt thông tin, hơn nữa đây là một vấn đề hết sức mới mẻ
nên nhiều doanh nghiệp của ta còn chưa hiểu được nội dung và tầm quan trọng
của việc áp dụng nhãn sinh thái đối với các sản phẩm hàng hóa của mình. Ngoài
ra, về năng lực quản lý, để áp dụng dán nhãn sinh thái, yêu cầu các doanh
nghiệp phải thay đổi phương thức quản lý môi trường theo cách tiếp cận hệ
thống. Đây là một phương thức quản lý còn rất mới đối với các doanh nghiệp
của ta, vì vậy, việc triển khai áp dụng sẽ gặp không ít khó khăn, trong đó, việc
nâng cao trình độ quản lý của các doanh nghiệp là điều rất cần thiết. Về kinh
phí cho việc triển khai áp dụng nhãn sinh thái bao gồm các chi phí về hệ thống

quản lý môi trường lẫn chi phí cho việc chứng nhận đăng ký nhãn sinh thái,vì
vậy rất tốn kém, trong khi khả năng tài chính của các doanh nghiệp lại có hạn.
Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò cấp thiết của SXSH trong công
nghiệp, ngày 07/9/2009 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1419/QĐ-
TTg phê duyệt "Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm
2020". Quyết định này đã nêu ra những chỉ tiêu, lộ trình cụ thể và những dự án
mà các Bộ, ngành địa phương cần phải làm để thúc đẩy các doanh nghiệp mở
rộng SXSH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu; Giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô
nhiễm; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khỏe con người và bảo
đảm phát triển bền vững.
Theo đó đến năm 2015 sẽ có 25% doanh nghiệp áp dụng các giải pháp sản
xuất sạch hơn. Tuy nhiên, điều mà các doanh nghiệp quan tâm chính là làm sao
để có một nguồn tài chính với lãi suất vay hợp lý để các doanh nghiệp có thể
tiếp cận các dự án đầu tư, đổi mới công nghệ và xử lý môi trường của doanh
nghiệp mình, khi mà vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường trong
quá trình sản xuất, kinh doanh đang ngày càng trở nên bức thiết hơn bao giờ
hết. Và vấn đề này đã dần được giải quyết nhờ vào các chính sách cơ chế hỗ trợ
của nhà nước và các cơ quan chức năng: Quỹ ủy thác tín dụng xanh do Trung
tâm sản xuất sạch hơn điều phối, Quỹ sẽ hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp
đầu tư công nghệ sach hơn từ trung đến dài hạn với mức bảo lãnh tối đa 50%
tổng giá trị khoản vay, trả thưởng tối đa 25% tổng giá trị vay tại 3 ngân hành
thương mại ACB, Techcombank và VIB. Thời gian xem xét cho một dự án là
75 ngày, triển khai đầu tư trong 3-6 tháng. Theo đại diện Quỹ, 1 doanh nghiệp
muốn đầu tư thiết bị giá 100.000 USD với lợi ích hàng năm 200.000 USD, nếu
đầu tư thông thường thì thời gian hoàn vốn là 5 năm nhưng nếu đăng ký với
Quỹ thì mức hỗ trợ tối đa là 25% và thời gian hoàn vốn sẽ là 3,75 năm.
Với lãi suất cho vay ưu đãi 5,4%/năm, thời hạn cho vay không quá mười
năm và mức hỗ trợ cho vay không vượt quá 70% trên tổng mức đầu tư dự án thì
các nguồn vốn vay từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đang thật sự hấp dẫn

đối với các doanh nghiệp, nhất là hiện nay lãi suất vay ngân hàng thương mại
đang cao và có nhiều biến động.
Ðây đang được xem là những “'cái phao về tài chính' của nhiều doanh
nghiệp có nhu cầu vay vốn hướng đến sản xuất sạch hơn.
Kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng sản xuất sạch hơn không chỉ mang lại
lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích về mặt môi trường, đó là:
• Cải thiện hiệu suất sản xuất;
• Sử dụng nguyên liệu, nước, năng lượng có hiệu quả hơn;
• Tái sử dụng phần bán thành phẩm có giá trị;
• Giảm ô nhiễm môi trường;
• Giảm chi phí xử lý và thải bỏ các chất thải rắn, nước thải, khí thải;
• Tạo nên hình ảnh tốt hơn về doanh nghiệp; và
• Cải thiện sức khoẻ nghề nghiệp và an toàn cho cán bộ công nhân
viên.
Hiện nay trong tiến trình hội nhập kinh tế đất nước, đặc biệt trong bối cảnh
giá vật tư, nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất có sự biến động tăng cao thì
vấn đề áp dụng quy trình sản xuất sạch, tiết kiệm các nguồn tài nguyên năng
lượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp là một trong những
giải pháp quan trọng góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường (BVMT),
làm tăng hiệu quả trong sản xuất. Thực chất của SXSH là áp dụng các công
nghệ mới, kỹ thuật cao vào quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu các chất thải
phát sinh trong quá trình sản xuất, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu mà vẫn đảm
bảo được năng suất, chất lượng sản phẩm. Xuất phát từ lợi ích đó mà SXSH
đang ngày càng trở nên cần thiết đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp.
Mặc dù áp dụng SXSH được coi là một công cụ trong bảo vệ môi trường,
song trên thực tế việc áp dụng SXSH trong các khu công nghiệp vẫn còn nhiều
khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của các doanh nghiệp về lợi
ích của SXSH còn hạn chế. Việc tuyên truyền phổ biến SXSH cũng như thực
hiện các mô hình trình diễn kỹ thuật hiện nay còn đang rất khiêm tốn

Bên cạnh đó, việc áp dụng trên thực tế quy trình sản xuất sạch của các xí
nghiệp không phải là công việc dễ dàng. Đây là cả một quá trình lâu dài và gặp
không ít những khó khăn. Khó khăn đầu tiên gặp phải là do nhận thức của phần
lớn cán bộ công nhân viên các xí nghiệp chưa đúng đắn và đầy đủ về vấn đề
này . Khó khăn tiếp theo là do sức ép về vốn của các xí nghiệp do họ cần ưu
tiên đầu tư vào những lĩnh vực cấp bách khác . Vấn đề quan trọng nữa là vấn đề
công nghệ sản xuất sạch ở nước ta còn nhiều hạn chế xây dựng và phát triển
KCN, KKT theo hướng bền vững.
3.2.3. Tuyên truyền giáo dục:
+Tổ chức các hội thảo chuyên đề về bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT,
qua đó thu thập thông tin, ý kiến của các cơ quan Nhà nước Trung ương, địa
phương và doanh nghiệp để nắm bắt tình hình thực tế, nghiên cứu điều chỉnh
các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường KCN,
KCX, KKT.
Có các chương trình phổ biến và hướng dẫn cho các Doanh nghiệp hiểu rõ
những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, các mức xử phạt vi
phạm hành chính đối với từng trường hợp cụ thể, giúp Doanh nghiệp hạn chế
tối đa các thiếu sót và những sai phạm không đáng có, đồng thời góp phần
chung vào công cuộc Bảo vệ môi trường – Phát triển bền vững, ngày
04/08/2010, Công ty cổ phần Long Hậu đã tổ chức chương trình Phổ biến nghị
định số 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực Bảo vệ môi trường.
+ Chính sách khuyến khích các DN đầu tư vào các dự án xanh, sạch hơn.
Đi đôi với việc xử phạm vi phạm cần có cơ chế, chính sách khen thưởng các cá
nhân, DN có thành tích tốt trong việc bảo vệ môi trường, có như vậy, môi
trường KCN mới được đảm bảo và phát triển bền vững.
III. Phương hướng giải quyết:
Để thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường KCN, trong thời gian tới
cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
1. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về

bảo vệ môi trường KCN, KKT: Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ
chủ trì, phối hợp với một số bộ, ngành liên quan triển khai một cuộc kiểm tra
tình hình thực hiện quy hoạch KCN ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam-nơi
tập trung nhiều KCN nhất cả nước, trong đó có nội dung kiểm tra tình hình, tiến
độ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung của các KCN. Trong năm
2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng sẽ chủ trì tổ chức ba cuộc kiểm tra tình hình
sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách Trung ương cho xây dựng một số hạng mục hạ
tầng KCN (công trình xử lý nước thải tập trung, giải phóng mặt bằng, xây dựng
đường trục chính theo Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 của Thủ
tướng Chính phủ) tại một số địa phương vùng Trung du và miền núi Bắc bộ,
miền Trung và Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
2. Tiếp tục triển khai công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch KCN đảm
bảo hiệu quả, chặt chẽ: Giám sát chặt chẽ, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương
thành lập KCN đúng theo Quy hoạch tổng thể phát triển KCN cả nước được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đáp ứng đủ điều kiện thành lập mới, mở rộng
KCN theo quy định; triển khai xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng KCN,
trong đó có các công trình xử lý chất thải KCN theo đúng quy hoạch chi tiết
KCN được duyệt và tiến độ đã cam kết. Ngoài ra, trong quý I/2011, trong
chương trình tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển KCN, KKT, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư sẽ tổ chức Hội thảo chuyên đề về môi trường KCN, KKT để các nhà
quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và doanh nghiệp KCN,
KKT thảo luận, đề xuất hoàn thiện các cơ chế, chính sách về môi trường KCN,
KKT trong thời gian tới để đảm bảo thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi
trường KCN, KKT.
3. Nghiên cứu, điều chỉnh cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối với
lĩnh vực môi trường KCN: Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổ chức điều tra,
nghiên cứu toàn diện tình hình bảo vệ môi trường, xây dựng công trình xử lý
nước thải tập trung trong KCN để đề xuất các biện pháp tổng thể điều chỉnh cơ
chế, chính sách hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường
KCN. Trong thời gian tới, cơ chế, chính sách quản lý KCN, KKT trong lĩnh vực

môi trường cần điều chỉnh theo hướng:
- Xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm và phối hợp giữa Sở Tài nguyên
và Môi trường, Ban quản lý KCN, KKT địa phương, cảnh sát môi trường trong
công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý Nhà nước về môi trường KCN, KKT; tăng
cường phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường
và các cơ quan liên quan trong công tác quản lý Nhà nước về KCN, KKT.
- Tăng cường phân cấp cho Ban quản lý KCN, KKT trong việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về môi trường trong KCN, KKT gắn với tăng
cường cơ chế phối hợp, hướng dẫn giữa các cơ quan Trung ương và địa phương
cũng như tăng cường bộ máy, nhân lực, thiết bị cho Ban quản lý KCN, KKT,
Sở Tài nguyên và Môi trường để thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường
KCN, KKT.
- Xác định rõ vị trí, vai trò của Thanh tra Ban quản lý KCN, KKT trong hệ
thống Thanh tra Nhà nước để đảm bảo thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT
trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính đối với hoạt động
của KCN, KKT nói chung và bảo vệ môi trường KCN, KKT nói riêng.
- Tăng cường vai trò của các cơ quan Nhà nước trong công tác tuyên
truyền, vận động, tăng cường năng lực và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng.
Sớm sửa đổi Thông tư 08 để tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý môi
trường các KCX, KCN; nâng cao vai trò trách nhiệm của các Công ty PTHT
KCX, KCN trong việc nắm tình hình, kiểm tra, giám sát hoạt động BVMT của
DN trong KCX, KCN; tiếp tục phát huy vai trò của bộ phận chuyên môn về
BVMT của KCX, KCN.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra các DN về công tác BVMT. Tuy
nhiên, công tác thanh tra cần phải có kế hoạch, tránh chồng chéo. Từng bước
hạn chế việc khai thác, sử dụng nước ngầm để bảo vệ nguồn tài nguyên nước
ngầm chung. Ngành Tài nguyên và Môi trường phối hợp với ngành Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn và địa phương rà soát, xác định các nguồn thải
trên địa bàn để có cơ sở xác định trách nhiệm của các đơn vị xả nước thải làm

ảnh hưởng đến môi trường; thống nhất một đầu mối cấp phép xả thải đối với
KCN ven kênh thủy lợi.
- Tăng cường đào tạo, tập huấn và bồi dưỡng các kiến thức quản lý BVMT
cho các bộ phận môi trường KCX, KCN và các nhân viên chuyên trách về môi
trường của các DN trong KCX, KCN; nâng cao nhận thức về BVMT trong giới
chủ DN.
- Cơ quan có thẩm quyền chỉ đạo xây dựng hệ thống quan trắc tự động từ
ngân sách nhà nước để có hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý
và giám sát, kiểm tra chất lượng nước thải tại các KCX, KCN, kịp thời phát
hiện các trường hợp xả thải vượt tiêu chuẩn cho phép ứng dụng các công cụ tin
học trong công tác quản lý môi trường tại các cơ quan quản lý nhà nước và tại
DN.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm có văn bản hướng dẫn thủ tục về
BVMT đối với các trường hợp doanh nghiệp đã đi vào hoạt động, sản xuất
nhưng chưa thực hiện thủ tục môi trường thay thế cho Thông tư 04/2008/TT-
BTNMT quy định chấm dứt việc làm Đề án BVMT từ ngày 31/12/2009 để tháo
gỡ các vướng mắc cho các DN, vì trong thực tế, việc các DN sang nhượng, cho
thuê lại nhà xưởng rất phổ biến.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu
hướng dẫn cấp phép, quản lý hoạt động sau cấp phép của các đơn vị hoạt động
trong lĩnh vực tư vấn về môi trường và dịch vụ phòng thí nghiệm, phân tích
chất lượng môi trường nhằm đảm bảo chất lượng tư vấn về môi trường cho
doanh nghiệp. Đồng thời, bảo đảm kết quả phân tích mẫu chính xác, khách
quan, trung thực để phục vụ cho công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, đảm bảo
được tính chính xác, hạn chế việc khiếu nại của doanh nghiệp.
IV. KẾT LUẬN:
Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực môi
trường KCN đã nỗ lực xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách và triển khai
thường xuyên nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường, những việc làm này đã bước đầu mang lại kết

quả khả quan trong công cuộc bảo vệ môi trường khu công nghiệp.
Bên cạnh những mặt đã làm được cần chủ trương hơn nữa, đẩy nhanh hơn
nữa quá trình hoàn thiện các công cụ quản lý môi trường, đặc biệt là các công
cụ quản lý môi trường ở các khu KCN nhất là đối với các nước đang trong tiến
trình công nghiệp hóa đất nước như Việt nam hiện nay, đó là điều kiện cần cho
sự phát triển bền vững đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước quá độ
đi lên xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo:
1. />nuoc-thai-cong-nghiep-cua-viet-nam-va-philippines
2. />ID=164&CID=164&IDN=2398&lang=vn
3. />portalid=1&tabid=359&itemid=338
4. />nhiem_t77c545n20261tn.aspx
5. />%C3%B4ng-c%E1%BB%A5-kinh-t%E1%BA%BF-trong-qu%E1%BA%A3n-l%C3%BD-m
%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-g%E1%BB%93m-nh%E1%BB%AFng-lo
%E1%BA%A1i-n%C3%A0o
6. />7. />8. />%E1%BB%9Bithi%E1%BB%87uNh%C3%A3nxanhVi%E1%BB%87tNam.aspx

×