Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.56 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

Đề tài: CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC
HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN
CHẾ CỦA NÓ
Giảng viên: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên: Lê Nguyễn Diễm Hằng
Số thứ tự: 048
Lớp: CHKT - Đêm 5 - K.21
TP. HCM, tháng 02/2012
GV: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, đã trải qua
những thời kỳ phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Nơi đây hội tụ những điều
kiện hết sức thuận lợi cho nền văn hóa tinh thần, trong đó triết học là một lĩnh
vực phát triển mạnh mẽ, trở thành đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp, là môn
khoa học của mọi khoa học. Các triết gia Hy Lạp cổ đại đã tạo nên một nền triết
học có ảnh hưởng đến những quan điểm triết học của cả thế giới sau này.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thời kỳ cổ đại. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan và tiến bộ, không
dựa trên những yếu tố thần thánh, lực lượng siêu nhiên để giải thích sự vật, hiện
tượng, mà lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, đồng nhất vật
chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất.
Việc tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại, bên cạnh
việc rút ra những giá trị, thành tựu và hạn chế của những trường phái, tư tưởng
thời kỳ này còn là nền tảng cho việc nghiên cứu các quan điểm triết học duy vật
về sau, giúp cho người học có được nhận thức đúng đắn và tư duy biện chứng khi
nhìn nhận sự việc, hiện tượng, cũng như giải đáp các vấn đề cuộc sống đặt ra.
Đây cũng được xem là một nhiệm vụ cơ bản của triết học.


2
GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời
Hy Lạp cổ đại là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất liền và vô
số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban-căng và Tiểu Á kéo dài
gần một nghìn năm, nơi đây được xem là nền tảng văn hóa của văn minh phương
Tây. Văn minh của người Hy Lạp cổ đại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngôn ngữ,
chính trị, hệ thống giáo dục, triết học, khoa học nghệ thuật, kiến trúc của thế giới
cận đại, thúc đẩy phong trào phục hưng Tây Âu, cũng như làm sống lại các
phong trào tân cổ điển tại Châu Âu, Châu Mỹ thế kỷ 18 và 19.
Sự hình thành triết học Hy Lạp cổ đại là kết quả của việc kế thừa những di
sản truyền thống tinh túy trong sáng tác dân gian, thần thoại, và các mầm mống
của tri thức khoa học, là kết quả của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác đã viết:
“Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của
thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó
nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học.”
(1)

Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thời kỳ cổ đại, quan niệm sự hình thành thế giới từ một hoặc một số dạng
vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên; là kết tinh những gì tinh túy
nhất của nhận thức nhân loại thời kỳ này, chứa đựng các vấn đề cơ bản của thế
giới quan và tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dù ở cấp độ phôi
thai, mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ.
II. Những tư tưởng, trường phái cơ bản của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy
Lạp cổ đại
1. Trường phái Milê
(1) Triết học Hy Lạp cổ đại: />Triet-hoc-Hy-Lap-co-dai

3
GV: TS. Bùi Văn Mưa
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Milê là Talét, Anaximăngđrơ,
Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên, vận động vĩnh viễn tạo
ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo Anaximăngđrơ đó là một
thực thể vô định và vô hạn - gọi là apeiron, theo Anaximen đó là không khí.
Talét không chỉ là nhà triết học mà còn là nhà toán học, nhà thiên văn học.
Trước Talét, người Hy Lạp giải thích nguồn gốc tự nhiên của thế giới, vạn vật
qua các câu chuyện thần thoại của chúa trời, của các vị thần và các anh hùng.
Talét quan niệm toàn bộ thế giới được khởi nguồn từ nước và khi phân hủy lại
biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra
thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể
thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi tuần hoàn mà nước là nền tảng của vòng
biến đổi tuần hoàn đó. Với quan niệm nước là bản chất chung của tất cả mọi vật,
mọi hiện tượng trong thế giới, ông đã đưa yếu tố duy vật vào trong quan niệm
triết học giải thích về thế giới. Thế giới được hình thành từ một dạng vật chất cụ
thể là nước chứ không phải do chúa trời hay các vị thần.
Anaximăngđrơ là người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề
phát sinh và phát triển của các loài động vật. Khi giải quyết vấn đề bản thể luận
triết học, Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một
dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta
không thể trực quan thấy được, nó chứa đựng trong mình những lực lượng đối
lập, mà chính sự đấu tranh của những lực lượng đối lập này cho ra đời vạn vật
với hình thể, tính chất khác nhau, và sau đó sẽ hủy diệt nhau để về với chính nó.
Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự khái quát trừu
tượng về phạm trù vật chất.
Anaximen cho rằng vật chất là không khí chứ không phải là nước. Theo
ông không khí là nguồn gốc của mọi vật, không khí sinh ra mọi vật bằng sự bay
hơi hay ngưng tụ của nó, vạn vật đều bắt nguồn từ vật chất đầu tiên là không khí
và lại quay trở về không khí. Tóm lại theo Anaximen, không khí là bản nguyên

của mọi sự vật hiện tồn.
4
GV: TS. Bùi Văn Mưa
2. Trường phái Hêraclít
Hêraclít sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng
biện chứng chất phác từ thời Hy Lạp cổ đại. Phép biện chứng của Hêraclít chưa
được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học, nhưng hầu hết
các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu
danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể hiện
trên các điểm chủ yếu sau:
- Về khởi nguyên của vũ trụ: Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa,
các hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa… chỉ là những trạng thái khác nhau của
lửa mà thành. Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới, vũ trụ không phải
do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó đã, đang và sẽ
mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Ngọn lửa vũ
trụ không chỉ tạo ra các sự vật vật chất mà còn sinh ra các hiện tượng tinh thần,
tạo ra các linh hồn.
- Về sự vận động vĩnh viễn của vật chất: Theo Hêraclít, không có sự vật,
hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều trong trạng
thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Quan niệm này được thể
hiện trong câu nói nổi tiếng “không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất
của cái đa dạng và là sự hài hòa giữa các mặt đối lập. Thứ hai, mỗi sự vật, hiện
tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển thành
các mặt đối lập với nó. Thứ ba, đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự đối
lập mà còn là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
(2)
- Về nhận thức: Ông cho rằng thế giới vận động theo trật tự gọi là lôgốt và
tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con người chính là lôgốt khách quan. Ông chia

nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
5
GV: TS. Bùi Văn Mưa
(2) Triết học Hy Lạp cổ đại: />Triet-hoc-Hy-Lap-co-dai
Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logot nhưng không chắc chắn.
Nhận thức lý tính là con đường đạt tới chân lý, dù vậy chỉ mang tính tương đối vì
nó còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh.
3. Trường phái đa nguyên Empêđốc - Anaxago
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy
vật, Empêđốc và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sơ khai của các
trường phái Milê và trường phái Hêraclít, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản
chất của thế giới vật chất đa dạng.
Empêđốc thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố: đất, nước, lửa
và không khí, chúng chịu sự tác động của hai loại lực là tình yêu và hận thù,
chúng đưa đến mâu thuẫn nội tại để giành cho được sự thống trị vũ trụ và kết quả
của chu kỳ vũ trụ vận hành chính là do sự mâu thuẫn này. Tùy thuộc vào liều
lượng của bốn yếu tố và tùy thuộc vào mức độ tác động của hai loại lực mà vạn
vật khác nhau xuất hiện hay biến mất. Dựa trên quan điểm này, Empêđốc cho
rằng vũ trụ luôn vận động trải qua chu trình phát triển gồm bốn giai đoạn. Giai
đoạn 1, vũ trụ là một quả cầu duy nhất, đồng nhất, thống nhất, không phân chia.
Giai đoạn 2, vũ trụ bắt đầu phân hóa. Giai đoạn 3, vũ trụ hoàn toàn bị phân hóa
ra thành bốn yếu tố đất, nước, lửa, không khí. Giai đoạn 4, bốn yếu tố đất, nước,
lửa, không khí kết hợp lại với nhau tạo nên sự vật, hay tách ra khỏi nhau làm sự
vật mất đi.
(3)
Anaxago tiếp nối quan điểm đa nguyên nhưng cho rằng vạn vật đều được
cấu tạo từ các hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng, ông
gọi đó là các hạt giống - là cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng
loại. Do vạn vật có vô số nên tồn tại vô số hạt giống, chúng cực nhỏ và có thể
phân chia đến vô tận. Anaxago xem mỗi cái chứa mọi cái, tức là mỗi sự vật vật

chất chứa trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định
bởi tính chất hạt giống của chính nó.
6
GV: TS. Bùi Văn Mưa
(3) Bùi Văn Mưa: Đại cương về lịch sử triết học, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM, 2011, tr. 96.
Các hạt giống sinh sôi, nảy nở hay thay thế cho nhau dựa vào động lực Nus - là
trí tuệ thuần túy hay linh hồn của thế giới, đưa thế giới thoát khỏi sự hỗn độn,
tiếp tục trên con đường vận động, biến hóa của mình, và qua đó nó nhận thức bản
thân thế giới.
4. Trường phái nguyên tử luận Lơxíp - Đêmôcrít
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể
hiện trong giai đoạn cực thịnh, trong đó Lơxíp là người sáng lập và Đêmôcrít là
người kế thừa và phát triển.
Lơxíp cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là
những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và
vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Vạn vật
trong vũ trụ đều sinh, diệt theo luật nhân quả.
Đêmôcrít là nhà triết học duy vật vĩ đại nhất của dòng triết học duy vật Hy
Lạp thời cổ đại. Ông đã phát triển thuyết nguyên tử của người thầy Lơxíp lên một
trình độ mới, và xây dựng trường phái nguyên tử luận mà nội dung lý luận bao
gồm các bộ phận sau:
- Thuyết nguyên tử: Theo ông vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu
tiên là nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không
biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng, giống nhau về chất nhưng
khác nhau về hình dạng, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng để tạo
thành các sự vật trong thế giới. Chân không là khoảng không gian trống rỗng,
không có kính thước và hình dáng, vô tận và duy nhất. Nguyên tử vận động trong
chân không theo luật nhân quả mang tính tất nhiên tuyệt đối. Trong vũ trụ có
hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ

lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn
xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra
ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh,
7
GV: TS. Bùi Văn Mưa
kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự
nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra.
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà nó được cấu tạo từ
các nguyên tử hình cầu nhẹ, nóng và chuyển động nhanh. Sự sống và con người
không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của chính tự
nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Nói
chung vạn vật trong thế giới được tạo ra từ nguyên tử và tồn tại trong chân
không, chúng đều xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên.
- Quan niệm về nhận thức: Ông chia nhận thức của con người ra làm hai
dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Theo ông, nhận thức của người
ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm
giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ,
không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh
được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, màu
sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và chân không.
Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận
thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải
đẩy tới nhận thức lý tính.
- Quan niệm về đạo đức: Đêmôcrít cho rằng sự hiểu biết là cơ sở của hành
vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là
sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người
sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Ông
luôn đề cao những hành đồng vị nghĩa cao thượng của con người.
- Quan niệm về chính trị - xã hội: Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ,
Đêmôcrit bảo vệ nền dân chủ chống lại chế độ chuyên chính. Nhà nước cộng hòa

dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô, tự điều hành hoạt động của mình
theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ
thuật mang lại cho con người hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ.
8
GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC TƯ TƯỞNG,
TRƯỜNG PHÁI CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Những giá trị:
Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ
khai. Thế giới quan duy vật chất phác không dựa vào cái siêu nhiên hay lòng tin,
đức tin tôn giáo mà dựa vào cái tự nhiên, vào lý trí hay lẽ phải đời thường của
con người để lý giải thế giới và đời sống của họ
(4)
. Các nhà triết học quan sát các
hiện tượng tự nhiên một cách trực tiếp và mong muốn giải thích chúng một cách
khoa học. Điều này đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật
và biện chứng sơ khai của triết học Hy Lạp thời kỳ này.
- Trường phái Milê với Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen đã xuất phát từ
thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một vật chất duy
nhất; đóng góp quan trọng trong việc đặt nền móng sự hình thành các khái niệm
triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những
khái niệm như khái niệm về chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập…
- Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những
quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông đã được
nhiều nhà triết học cận đại và hiện đại kế thừa và phát triển, ông được coi là đại
biểu của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại với tư tưởng sâu sắc và đúng đắn như sự
biến chuyển của vạn vật, sự đấu tranh, thống nhất của các mặt đối lập.
- Trường phái đa nguyên là một sự tìm tòi của chủ nghĩa duy vật, khắc
phục hạn chế của quan điểm duy vật đơn nguyên để lý giải tính thống nhất trong
sự đa dạng của thế giới. Empêđốc – Anaxago đã giải thích sự vật vật chất thông

qua sự biến chuyển có tính ngẫu nhiên, qua đó chỉ có vật nào phối hợp điều hòa
mới có thể tồn tại.
9
GV: TS. Bùi Văn Mưa
(4) Bùi Văn Mưa: Chuyên đề về triết học Mac - Lênin, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM, 2011, tr. 14.
- Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp,
thuyết nguyên tử là đỉnh cao trong tư tưởng của ông đối với chủ nghĩa duy vật,
có giá trị cho việc phát triển học thuyết nguyên tử về sau. Về lý luận nhận thức,
ông đặt ra và giải quyết vấn đề về nhận thức, vai trò của cảm giác khi bắt đầu quá
trình nhận thức, vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên. Ngoài ra ông
còn có nhiều đóng góp quý giá về đạo đức con người, về chính trị và xã hội…
Thế giới quan duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà triết học và
khoa học đời sau phải giải đáp. Do đó, nó đã thúc đẩy hoạt động nhận thức, và
hoạt động thực tiễn của con người phát triển, góp phần củng cố sức mạnh tinh
thần cho các lực lượng chính trị tiến bộ trong xã hội.
(5)
Tuy ra đời trên nền tảng thần thoại và tôn giáo nhưng thế giới quan của
triết học duy vật Hy Lạp cổ đại hoàn toàn mới lạ, dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã
đem lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra,
giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội.
II. Những hạn chế
Thế giới quan duy vật chất phác xuất hiện vào thời cổ đại, khi mà hoạt
động thực tiễn của con người còn quá thấp, nhận thức của con người còn quá
ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm đời thường. Do đó nó
mang tính trực quan, phỏng đoán, thiếu chứng cứ khoa học, thường đồng nhất vật
chất với vật thể cụ thể. Các quan điểm triết học duy vật chỉ dừng lại ở mức độ
mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Các nhà triết học vẫn chưa thoát khỏi ảnh hường của
quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy.
- Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen đưa ra những định nghĩa thế giới và

giải thích chúng một cách máy móc, chưa có khái niệm biện chứng, thể hiện
những tư tưởng trên một lập trường nhất định nhưng đồng thời cũng bộc lộ
những giới hạn hẹp hòi của tư tưởng ấy.
10
GV: TS. Bùi Văn Mưa
(5) Bùi Văn Mưa: Chuyên đề về triết học Mac - Lênin, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM, 2011, tr. 14.
- Hêraclít về căn bản có quan điểm duy vật, nhưng vẫn duy trì yếu tố thần
thánh trong tư tưởng của mình. Ông đề ra khái niệm vạn vật biến chuyển một
cách rõ ràng, nhưng chưa thấy được hướng biến chuyển, biến chuyển như thế
nào
- Empêđốc - Anaxago phát triển quan điểm đa nguyên về bản chất của thế
giới, Đêmôcrít có tư tưởng thuyết phục về thuyết nguyên tử luận. Tuy nhiên
những quan điểm này cũng còn mang tính sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
Thế giới quan duy vật chất phác không triệt để, vì nó không lý giải được
bản tính của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và
cái vật chất, nó chỉ mới giải thích thế giới chứ chưa thật sư góp phần cải tạo thế
giới.
(6)
Các triết gia Hy Lạp cổ đại là các nhà khoa học tự nhiên xuất thân từ tầng
lớp giàu có, đại diện cho tầng lớp chủ nô, quan niệm nô lệ phải tuân theo người
chủ (Đêmôcrít), do đó tư tưởng còn mang tính giai cấp, bảo vệ cho giai cấp, tầng
lớp thống trị của mình.
11
GV: TS. Bùi Văn Mưa
(6) Bùi Văn Mưa: Chuyên đề về triết học Mac - Lênin, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM, 2011, tr. 14.
KẾT LUẬN
Thế giới quan của chủ nghĩa duy vật chất phác là thế giới quan của một bộ
phận giai cấp chủ nô hay tầng lớp quý tộc tiến bộ thống trị trong xã hội vẫn còn

là mặt hạn chế mà tư tưởng Mac sau này đã khắc phục bằng các học thuyết về
chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với giai cấp vô sản, đưa phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản lên một vị thế mới.
Tuy nhiên không thể phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa duy vật chất
phác là nền tảng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật về sau, đồng thời đã góp
phần giúp con người nhận thức được thế giới, về bản chất thế giới và sự vận
động của nó, các nhà triết học tiêu biểu như Hêraclít, Đêmôcrít với các quan
điểm có giá trị định hướng cho lĩnh vực triết học và khoa học tự nhiên sau này.
12
GV: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1











CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI 2
I. Hoàn cảnh ra đời 2
II. Những tư tưởng, trường phái cơ bản của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp
cổ đại 2
1. Trường phái Milê 2
2. Trường phái Hêraclít 4

3. Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago 6
4. Trường phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít 6
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC TƯ TƯỞNG,
TRƯỜNG PHÁI CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI 8
I. Những giá trị 8
II. Những hạn chế 9
KẾT LUẬN 11
13
GV: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình triết học (dùng trong các trường đại học và
cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, 2006.
2. Bùi Văn Mưa: Đại cương về lịch sử triết học (Tài liệu dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại Học
Kinh Tế TP.HCM , 2011.
3. Bùi Văn Mưa: Các chuyên đề về triết học Mác - Lênin (Tài liệu dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường
Đại Học Kinh Tế TP.HCM , 2011.
4. Đinh Ngọc Thạch: Lịch sử triết học phương tây (dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học), Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG-HCM,
2010.
5. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình chủ nghĩa duy vật lịch sử,
NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
6. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học,
NXB Tổng Hợp, 2003.
7. www.go.vn/diendan/showthread.php?516783-Triet-hoc-Hy-Lap-co-dai
8. www.triethoc.edu.vn
9. www.vi.wikipedia.org

14

GV: TS. Bùi Văn Mưa
15

×