Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.72 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NÓ
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Người viết: Nguyễn Thị Thu Hằng
STT: 050 Lớp: Đêm 5 Khóa: 21
TP.HCM, tháng 02 năm 2012
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 1
DANH MỤC TRÍCH DẪN
1. />lieu-tham-khao/CO-SO-XA-HOI-CUA-SU-THI-AN-DO-VA-HY-LAP-42
2. TS. Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học Phần II- Các chuyên đề về triết học Mac –
LêNin 2011
3. TS. Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học Phần I-Đại cương về lịch sử triết học, 2011
4. o/forum/showpost.php?p=384528&postcount=6
5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính
trị quốc gia- Hà Nội 2005
6. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc
gia- Hà Nội 2005
7. Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện chính trị - Hành
chính khu vực II Khoa Triết học. Đề cương bài giảng Triết học Mác – Lênin, , NXB
chính trị- Hành chính 2009
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học Phần II- Các chuyên đề về triết học Mac –
LêNin 2011
2. TS. Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học Phần I-Đại cương về lịch sử triết học, 2011


3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính
trị quốc gia- Hà Nội 2005
4. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc
gia- Hà Nội 2005
5. Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện chính trị - Hành
chính khu vực II Khoa Triết học. Đề cương bài giảng Triết học Mác – Lênin, , NXB
chính trị- Hành chính 2009
Và một số trang web khác
1. />tham-khao/CO-SO-XA-HOI-CUA-SU-THI-AN-DO-VA-HY-LAP-42
2. o/forum/showpost.php?p=384528&postcount=6
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có hàng ngàn năm lịch sử. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản, trải
qua rất nhiều những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử. Khi nói về lịch sử triết học
không thể nào không nói đến nền triết học Hy Lạp cổ đại. Chính Karx Marx cũng đã
nói rằng: "Dại dột là những ai không thấy hết giá trị của thời cổ đại Hy Lạp đối với
chủ nghĩa xã hội vừa chiến thắng trong sự nghiệp xây dựng lại trong đời sống loài
người
[1]
. Đó là một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại
làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau này. Đến nay những gì mà
triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị theo thời
gian. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới khoa
học Mac- Lenin, là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật. Do đó, để
hiểu sâu hơn về chủ nghĩa duy vật biện chứng thì việc nắm vững triết học Hy Lạp cổ
đại mà điển hình là thế giới quan duy vật chất phác- một hình thức lịch sử của thế
giới quan duy vật cũng rất quan trọng, hiểu được cội nguồn phát triển sẽ giúp chúng
ta hiểu sâu sắc hơn về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài

“Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó”
làm đề tài nghiên cứu của mình.
Tiểu luận này gồm có hai chương và tôi đã dựa vào các giáo trình: Hội đồng
Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác –Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia-
Hà Nội 2005, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB
Chính trị quốc gia- Hà Nội 2005, Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Học viện chính trị - Hành chính khu vực II Khoa Triết học. Đề cương bài
giảng Triết học Mác – Lênin, , NXB chính trị- Hành chính 2009…
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 4
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Hy Lạp cổ đại thời kỳ này là một quốc gia nô lệ điển hình và có vị trí địa lý
thuận lợi là cửa ngõ giao lưu Đông – Tây nên Hy Lạp cổ đại đã có điều kiện tiếp thu
được những kiến thức về văn hóa phương Đông và khoa học tự nhiên của người Ai
Cập, Babilon và một phần là những kiến thức của người Ấn Độ cổ đại nên sớm trở
thành cái nôi của nền văn minh phương Tây. Từ những nét đặc thù về kinh tế - xã
hội ấy, triết học Hy Lạp cổ đại có một vị trí và vai trò rất quan trọng đối với lịch sử
triết học thế giới, nó đã mở đường cho sự phát triển triết học Tây Âu sau này.
II. CÁC TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT CHẤT PHÁC CỔ ĐẠI HY LẠP
1. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Thực chất của chủ nghĩa duy vật chất phác là một hệ thống các quan điểm,
quan niệm ngây thơ về thế giới và con người. Các quan điểm, quan niệm của thế
giới này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, căn nguyên của vạn vật là một
(hay vài) dạng vật chất cụ thể cảm tính nào đó mà sự biến đổi theo lẽ tự nhiên của
nó làm cho vạn vật trong thế giới (bao gồm cả con người và đời sống tinh thần của
họ) được sinh thành hay bị hủy diệt. Thế giới quan duy vật chất phác xuất hiện vào
thời cổ đại, khi mà hoạt động thực tiễn của con người còn quá thấp và nhận thức

của con người còn quá ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm đời
thường
[2,13]
.
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 5
2. Các tư tưởng, trường phái
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê, Hêraclít, trường phái
Đa nguyên và đạt được đỉnh cao là trường phái Nguyên tử luận.
a) Trường phái Milê
Trường phái triết học Milê do 3 nhà triết học duy vật là Talét, Anaximăngđrơ,
Anaximen xây dựng vào thế kỷ thứ VI tr.CN. Trường phái này nhằm làm sáng rõ bản
nguyên vật chất của thế giới. Talét cho rằng bản nguyên vật chất của thế giới là nước,
Anaximăngđrơ cho là apeiron, và Anaximencho là không khí.
Mở đầu là Talét, ông không những là một nhà toán học, nhà thiên văn học mà
còn là một nhà triết học tài danh lúc bấy giờ. Ông chủ trương giải thích giới tự nhiên
không phải bằng tín điều mà bằng sự kiện quan sát. Ông kết luận: “Nước là yếu tố
đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật; vạn vật bắt đầu từ nước và luôn quay trở về với
nước; không có nước thì không có gì cả. Nước tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo
ra thì không ngừng sinh ra, biến đổi và mất đi. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất,
tồn tại tựa như một vòng biến đổi tuần hoàn không ngừng nghỉ mà nước là nền tảng
của vòng biến đổi tuần hoàn đó.”
[3,93]
Những quan điểm của Talét mặc dù còn mộc
mạc thô sơ nhưng đã hàm chứa những yếu tố biện chứng chất phác. Nước là cái quy
định sự chuyển biến từ dạng vất chất này sang dang vật chất khác, là cái tạo nên sự
thống nhất của thế giới, là cái chứa đựng tiềm tàng bản chất và hiện tượng.
So với Talét, triết học của Anaximăngđrơ đã có một sự phát triển đáng kể, phức
tạp, sâu sắc và biện chứng hơn. Nếu như Talét cho rằng vạn vật được sinh sôi nảy nở
từ bản nguyên đầu tiên là nước, là cái có thể cảm nhận được bằng giác quan và liên
quan chặt chẽ gần gũi với đời sống con người thì theo Anaximăngđrơ, lại là một cái

không xác định là apeiron- cái vô định hình, vô cùng tận, tồn tại bất diệt, vĩnh viễn.
Anaximăngđrơ cho rằng “apeiron chứa trong mình những lực lượng đối lập nhau;
chính sự đấu tranh của những lực lượng đối lập này mà vạn vật có hình thể, tính chất
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 6
khác nhau được sinh ra, và sau đó, các vật đối lập nhau sẽ hủy diệt nhau để trở về với
apeiron ”
[3,94]
Cũng giống như Talét, Anaximen đã tìm kiếm sự khởi đầu của vạn vật đó chính
là không khí, là yếu tố vật chất có liên quan mật thiết đối với đời sống con người.
Theo ông, khắp vũ trụ được bao trùm bởi không khí và thở: “Cũng như linh hồn
chúng ta, là không khí, giữ chúng ta cùng nhau, cùng hít thở, và không khí bao
quanh toàn bộ thế giới”
[4]
. Dưới góc nhìn của Anaximen thì: Mọi vật được sinh ra từ
không khí, do có năng lực tán tụ mà không khí có thể biến thành nước, đất đá hay
lửa. Lửa do nhẹ mà bay lên tạo thành bầu trời. Đất đá do nặng mà rơi xuống đất tạo
thành tâm vũ trụ. Và từ chúng vạn vật ra đời, tồn tại.
[3,94]
b) Trường phái Hêraclit
- Quan niệm về thế giới:
Sự lớn nhất, nổi tiếng nhất ở Hêraclit là triết học duy vật với nhiều tư tưởng biện
chứng chất phác có giá trị. Ông cho rằng: Thế giới vật chất là do chính vật chất sinh
ra, mà dạng vật chất đầu tiên sinh ra các dạng vật chất khác đó là lửa. Lửa là bản
nguyên vật chất, là nguyên tố vật chất đầu tiên của mọi dạng vật chất
[5,76]
. Vạn vật
đều từ lửa mà ra rồi lại quay trở về với lửa. Toàn bộ thế giới đều là sản phẩm biến đổi
của lửa.“Cái chết của lửa – là sự ra đời của nước, từ cái chết của nước sinh ra không
khí, từ cái chết của không khí – lửa và ngược lại”
[6, 64]

Toàn bộ vũ trụ không phải do thế giới thần linh Thượng đế sáng tạo nên mà đã,
đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi, tàn lụi và
bùng cháy theo quy luật của nó. “Quan niệm về vũ trụ như ngọn lửa bất diệt, Hêraclit
đã tiên đoán được tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới”
[7,34]
- Tư tưởng biện chứng:
Hêraclit bằng quan sát trực tiếp và căn cứ vào kinh nghiệm, ông kết luận rằng:
Không có sự vật, hiện tượng nào trường tồn, bất biến, mà tất cả đều luôn trong trạng
thái vận động, biến đổi và phát triển không ngừng, không có cái gì tồn tại mà lại cố
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 7
định. Trước Hêraclit, các nhà triết học thuộc trường phái Milê cũng đã có những quan
niệm về vận động và biến đổi của thế giới, nhưng phải đến Hêraclit thì học thuyết về
vận động mới được ông phát triển. Ông có một câu nói nổi tiếng mà vẫn còn mãi giá
trị “chúng ta không ai tắm được hai lần trong cùng một dòng sông…”.
Hêraclit thừa nhận vận động của sự vật gắn liền với sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Chính sự mâu thuẫn tồn tại trong sự vật đã trở thành nguồn gốc
phát triển của vạn vật.“Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn diễn
ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ các cuộc đấu
tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Điều đó làm
cho vũ trụ thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng”
[6, 65]
. Như vậy đấu tranh
chính là quy luật phát triển của vũ trụ.
- Nhận thức luận:
Hêraclit cho rằng, nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt- tức là cái quy luật,
trật tự của vũ trụ. Nhận thức lôgốt có nghĩa là nhận thức các sự vật, hiện tượng đa
dạng trong thế giới trong trạng thái đấu tranh và hài hòa của những mâu thuẫn của
chúng.Theo ông, nhận thức bắt đầu từ cảm tính.Tuy coi trọng nhận thức cảm tính,
nhưng ông không tuyệt đối nó vì cảm tính không đủ sức để khám phá tự nhiên. Vì
vậy, muốn nhận thức được những bí ẩn của tự nhiên phải tư duy, phải có đầu óc sáng

suốt. Ông còn nêu lên rằng chân lý luôn mang tính tương đối vì tùy thuộc vào hoàn
cảnh và điều kiện mà thiện- ác, xấu- tốt sẽ chuyển hóa cho nhau.
c) Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago:
Empêđốc là người đầu tiên đã thay đổi học thuyết nhất nguyên thành một loại
học thuyết đa nguyên để xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật
chất để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật.
Empêđốc thừa nhận có sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất,
nước, không khí, lửa. Các nguyên tố này trộn lẫn nhau và tách biệt nhau bởi sự tác
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 8
động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù. Do đó, tình yêu và hận thù, trên nhiều
phương diện được coi như vật chất giống như bốn nguyên tố kia, chúng chính là
nguyên nhân tạo ra mọi sự thay đổi. Dưới con mắt của Empêđốc thì nếu như với sự
tác dụng lực tình yêu, đất, nước, không khí, lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật thì dưới tác
dụng của lực hận thù chúng bị chia tách ra làm vạn vật mất đi. Và vạn vật khác nhau
xuất hiện hay biến mất là tuỳ thuộc vào liều lượng của các yếu tố đất, nước, không
khí, lửa, và tuỳ thuộc vào mức độ tác động của 2 loại lực tình yêu và hận thù sẽ dẫn
đến những kết quả khác nhau. Theo ông, vũ trụ tồn tại trải qua bốn giai đoạn, sự sống
hình thành trong đại dương và sau đó lan ra khắp nơi trên thế giới.
Bước tiếp theo hướng đến trường phái đa nguyên đã được thực hiện bởi
Anaxago. Ông cho rằng vạn vật được sinh ra từ những cái tương tư như chúng, và
ông gọi cái đó là các hạt giống- cái vô cùng nhỏ và có thể phân chia đến vô cùng tận
và bản thân nó không đồng nhất, nó chứa tất cả các hạt giống khác ở liều lượng nhỏ
hơn. Vì có nhiều vô kể các hạt giống khác nhau nên có vô số vạn vật tồn tại.Mỗi sự
vật chứa trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi
tính chất hạt giống của chính nó. Ông nói: “Tất cả các vật sẽ có trong mọi vật;
chúng không thể tách riêng ra, nhưng tất cả các vật đều có một phần của mọi
vật.”
[4]
. Do vậy mà sự biến hóa về chất của vạn vật là do sự thay thế phần lớn các
hạt giống trong chúng. Vũ trụ của Anaxago là một tập hợp trong chuyển động không

phải bởi tình yêu và hận thù như của Empêđốc, mà đó là Nus, có nghĩa là “Trí
tuệ”.“Nus đưa thế giới thoát khỏi sự hỗn độn, tiếp tục trên con đường vận động,
biến hóa của mình, đồng thời đó cũng là quá trình Nus nhận thức bản thân thế
giới”
[3,97]
d) Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmôcrít:
Chiếm vị trí nổi bật và là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thời cực
thịnh được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận với đại biểu là Lơxíp-
Đêmôcrít, trong đó, Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các quan niệm về nguyên tử,
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 9
Đêmôcrít là người phát triển các quan niệm này thành một hệ thống chặt chẽ và có
sức thuyết phục ảnh hưởng lớn.
Lơxíp cho rằng cái tồn tại (nguyên tử) tồn tại, nhưng khác với Pácmêníc, ông
cho rằng cái không tồn tại (chân không) cũng tồn tại. Nguyên tử và chân không cùng
là khởi nguyên của thế giới. Luôn có những cơn lốc xoáy của các nguyên tử xảy ra
trong chân không của vũ trụ. Các nguyên tử từng loại có cùng kích thước sẽ kết hợp
lại với nhau để tạo nên đất, nước, lửa, không khí. Những nguyên tử có tốc độ vận
động rất lớn sẽ kết tụ lại với nhau mà từ đó tạo ra vùng đất và bầu trời cùng các vì tinh
tú rực sáng.
Đêmôcrít Ông là đại biểu kiệt xuất nhất của tầng lớp chủ nô dân chủ thời kỳ
này, ông đã kế thừa được tư tưởng Lơxíp, người thầy của mình, phát triển học thuyết
nguyên tử lên một trình độ mới.
- Quan niệm về thế giới:
+ Học thuyết nguyên tử:
Theo ông, mọi sự vật trên thế giới đều được tạo nên bởi nguyên tử và chân
không. Nguyên tử là hạt vật chất không biến đổi, không thể phân chia được nữa,
luôn vận động, tồn tại vĩnh viễn, hoàn toàn nhỏ bé và không thể nhìn thấy được. Các
nguyên tử giống nhau về chất nhưng khác nhau về hình dạng, kích thước, trật tự và
vị trí. Đêmôcrít là người đầu tiên trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại đưa ra khái
niệm “không gian”. Theo ông “không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó

những nguyên tử vận động vĩnh viễn”
[5,78]
. Nguyên tử vận động trong khoảng không
gian theo đường lốc xoáy đẩy các nguyên tử nhỏ nhẹ ra bên ngoài, nguyên tử nặng
thì được tụ lại vào tâm, kết hợp với nhau tạo nên mọi vật. Và từ đây Trái Đất, sự
sống, con người, vũ trụ…xuất hiện. Nguyên tử có vô vàn hình dạng, chính vì thế
giải thích được tính đa dạng của các sự vật trong thế giới vật chất.
+ Về nguồn gốc của sự vật và và sự sống:
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 10
Về sự sống con người, Đêmôcrít bác bỏ quan niệm duy tâm, tôn giáo khi cho
rằng sự sống do thần thánh sinh ra. Theo ông, sự sống là kết quả của một quá trình
biến đổi lâu dài của giới tự nhiên: “ Sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt,
dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ nước bùn,
chúng sống dưới nước, sau đó chúng lên sống trên cạn và tiến hóa dần đưa đến sự
xuất hiện con người”
[3,99]
Đêmôcrít phê phán quan niệm tôn giáo về sự bất tử của linh hồn, ông cho rằng
linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử và linh hồn sẽ rời thể xác và tan rã
thành các nguyên tử khi sinh vật chết đi.
- Về lý luận nhận thức:
Đêmôcrít có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông
phân nhận thức con người thành dạng nhận thức do các cơ quan cảm giác đem lại và
nhận thức nhờ lý tính. Nhận thức do cơ quan cảm giác mang lại là nhận thức mờ tối,
chưa đem lại chân lý. Muốn khám được bản chất sự vật cần phải thông qua nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính.Thông qua nhận
thức lý tính cho phép đạt chân lý, tuy nhiên đó là một quá trình khó khăn và phức
tạp, đòi hỏi phải có một năng lực tư duy để tìm tòi khám phá.
- Quan niệm về chính trị - xã hội;
Ông là đại biểu cho tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ, bảo vệ quyền lợi của tầng
lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Ông coi chế độ nô lệ là hợp lý và cần thiết

sử dụng nô lệ. Theo ông “ Nghệ thuật quản lý nhà nước là một trong những loại
nghệ thuật cao nhất”
[7,37]
.
Nhà nước là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô nên phải
biết điều hành hoạt động của mình theo chuẩn mực đạo đức và cần phải trừng phạt
nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật.
- Về đạo đức:
Đêmôcrít có những quan điểm tiến bộ và tích cực về mặt đạo đức học. Theo
ông, phẩm chất con người không phải chỉ ở lời nói mà là ở hành động, việc làm.
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 11
Hành động của con người cần phải có đạo đức, con người cần phải sống đúng mực,
ôn hòa, không gây hại cho người khác. Sống trong sự hưởng thụ vừa phải, tâm hồn
thanh thản là hạnh phúc của con người.
CHƯƠNG II : NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT CHẤT PHÁC CỔ ĐẠI HY LẠP
I. Những giá trị đặc sắc
1. Giá trị về thế giới quan
- Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng bẩm sinh, thiên
tài. Họ luôn cố gắng để giải thích sự muôn hình muôn vẻ của thế giới, và quy nó về
một nguyên nhân phổ biến, sâu sắc về nguyên bản đầu tiên của thế giới. Các nhà
duy vật thời kỳ này đã cố tình xây dựng nên mặt lý luận về thế giới, thế giới bao
gồm những gì và được cấu tạo nên như thế nào. Sự xuất hiện phép biện chứng chất
phác đã được họ nghiên cứu và sử dụng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, bảo vệ
quan điểm triết học của mình, và để tìm ra chân lý. Các nhà triết học thời kỳ này có
công lao to lớn trong việc xây dựng được học thuyết về nguyên tử của chất. Họ đã
tạo nên nét nổi bật khi cho rằng thế giới là do vật chất tạo thành, có sự vận động và
biến đổi mặc dù vật chất tạo thành thế giới của mỗi nhà triết học không giống
nhau.Từ những quan niệm về thế giới của các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã
đặt nền móng cơ sở khoa học cho những nghiên cứu về thế giới và vũ trụ sau này.

- Trong khi triết học chủ nghĩa duy tâm thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng nặng
nề của thần linh và tôn giáo, coi ý niệm là cái có trước, còn thế giới sự vật là cái có
sau và được sáng tạo bởi ý niệm thì các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp đã có
những sự khám phá tìm tòi về sự vận động của thế giới tự nhiên, phủ nhận sự tồn tại
của thần linh, Thượng đế. Với những thành tựu đạt được này mà chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 12
Hy Lạp đã phát triển lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào
lưu duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ.
2. Giá trị về nhận thức luận
- Các nhà triết học trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng đã chứa
đựng những yếu tố biện chứng chất phác, mở ra thời đại lý trí của triết học – khoa
học. Hêraclit thì có nhiều phân tích về nhận thức luận và ông được Lênin đánh giá cao
những quan niệm đó và cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản của
phép biện chứng. Đến Đêmôcrit ông có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về
nhận thức. “Ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận
thức, vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của
tư duy trong việc nhận thức tự nhiên”
[5,79]
. Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã
có một trình độ nhận thức cao hơn và sâu sắc hơn về thế giới, giúp con người có một
cách nhìn nhận tiến bộ hơn. Những lý luận nhận thức này là nền tảng cho những
nghiên cứu của nhân loại sau này.
3. Giá trị trong những quan niệm về con người và xã hội
- Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề về con người. Đạo đức lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập đến. Họ đã có những tư tưởng, quan
niệm tiến bộ về con người và xã hội, họ đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con
người. Dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung, họ đều khẳng định con
người là tinh hoa cao quý nhất. “Thế giới quan duy vật chất phác không dựa vào cái
siêu nhiên hay lòng tin, đức tin tôn giáo mà dựa vào cái tự nhiên, dựa vào lý trí hay
lẽ phải đời thường của chính con người để lý giải thế giới và đời sống của họ. Thế

giới quan duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà triết học và khoa học đời
sau phải giải đáp; do vậy, nó đã thúc đẩy hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người phát triển, nó góp phần củng cố sức mạnh tinh thần cho các lực
lượng chính trị tiến bộ trong xã hội”
[2,14]
.
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 13
- Những quan điểm của trường phái duy vật thời kỳ này có sự gắn bó mật thiết
với khoa học, tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó.
II. Những mặt hạn chế
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là dựa vào quan sát
trực tiếp và tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học, chưa dựa vào
các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó chưa thực sự phát
triển
- Nhìn chung do hạn chế của trình độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật
trong thời kỳ đó nên thế giới quan của các nhà triết học duy vật chất phác thường
đồng nhất vật chất với với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, những tư tưởng
triết học còn mang nặng tính thô sơ, máy móc; do đó, nó thường mang tính trực
quan, tính phỏng đoán, tự phát và thiếu chứng cứ khoa học. “Thế giới quan duy vật
chất phác không triệt để, vì nó không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh
thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất; nó chỉ mới giải thích
thế giới chứ chưa thật sự góp phần cải tạo thế giới”
[2,14]
- Bên cạnh những quan niệm duy vật mang tính sơ khai, thế giới quan của các
nhà triết học thời kỳ này còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại,
tôn giáo, chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần linh. Chẳng hạn như Hêraclit đã cho
rằng ngọn lửa vũ trụ không chỉ tạo ra vật chất mà còn sản sinh ra các hiện tượng tinh
thần, tạo ra các linh hồn. Hay những khái niệm mang ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
tâm “linh hồn”, “tình yêu”, “hận thù” của Empêđốc.

- Đêmôcrit tuy có cho rằng vận động là thuộc tính của vật chất, gắn liền với
vật chất nhưng hạn chế của ông là ở chỗ ông không giải thích được nguồn gốc của
sự vận động.
- Tuy có tiến bộ trong việc coi trọng về vấn đề con người, đề cao con người
nhưng vì còn chịu ảnh hưởng của giai cấp chủ nô thống trị nên vẫn bảo vệ lợi ích
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 14
của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô, chưa thấy được tính tất yếu của
việc giải phóng con người hoàn toàn tự do khỏi chế độ nô lệ.
- Chính phép biện chứng còn ngây thơ chất phác chưa rõ ràng, còn rời rạc,
chưa hệ thống hóa, trừu tượng nên sau giai đoạn phát triển rực rỡ đã không đứng
vững và bị phép siêu hình xuất hiện từ thế kỷ IV đến thế kỉ XV thay thế bởi triết học
– thần học
KẾT LUẬN
Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại mà điển hình là chủ nghĩa duy vật
chất phác, nó đã chứa đựng mầm mống của tất cả các hình thức thế giới quan, nó đã
đặt ra hầu hết các vấn đề triết học căn bản mà sau này các học thuyết triết học sẽ
từng bước giải quyết theo nội dung của thời đại mình. Những thành tựu của chủ
nghĩa duy vật ngây thơ, chất phác trong triết học Hy Lạp cổ đại có ý nghĩa rất lớn
đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật nói chung và sự nhận thức của con người nói
riêng về thế giới. Những thành tựu này góp phần tạo thành bộ khung cơ bản nhất để
mô tả thế giới. Những tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại dù còn rất sơ khai nhưng
bước đầu nó đã cho thấy quan hệ biện chứng trong tự nhiên và mối quan hệ biện
chứng trong xã hội. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng trong thời kỳ cổ đại, Chủ nghĩa
duy vật chất phác đã thu được nhiều thành tựu tạo nên chỗ đứng và nền tảng vững
chắc là cơ sở cho sự phát triển của Chủ nghĩa duy vật những giai đoạn sau. Qua đó,
chúng ta rút ra được bài học kinh nghiệm trong thực tiễn: Xuất phát từ một lập
trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương hướng
và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, việc chấp
nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không chi đơn thuần
là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải

nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp nhận một cơ sở
phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động. Xuất phát từ một lập trường
triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 15
vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai
lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 16
MỤC LỤC
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó Trang 17

×