Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.8 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
o0o
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ
ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Người thực hiện : LÊ THANH
HẢI
Lớp : Cao học QTKD –K21- Đêm 5
Số thứ tự: 47 – nhóm 5
Giảng viên HD : TS BÙI VĂN
MƯA
TP.HCM năm 2012
MỤC LỤC
1
Trang
Lời mở đầu ………………………………………………………………………………… 1
Chương I: Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại ……………….2
I. Hoàn cảnh ra đời ………………………………………………….………………… 2
II. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại …………… 3
1. Trường phái Mi Lê…………………………………………………………………3
2. Trường phái Heraclit……………………………………………………………….4
3. Trường phái đa nguyên Empedoc – Anaxago…………………………… 6
4. Trường phái nguyên tử luận Lơxip – Democrit…………………………… 7
Chương II: Giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại… ……….9
I. Giá trị ………………………………………………………………………… 9
II. Hạn chế ……………………………………………………………………… 11
Kết luận ………………………………………………………………………………… 13
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………………….14
LỜI MỞ ĐẦU


Nền văn minh Châu Âu đang phát triển rực rỡ hiện nay bắt nguồn từ đâu? Câu trả
lời này không quá khó, chính là nền văn minh Hy lạp cổ đại với chế độ chiếm hữu nô
lệ kéo dài đến vài thế kỷ. Engghen đã viết: “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế
quốc La Mã thì cũng không có Châu Âu hiện đại được”. Và khi nhắc đến nền văn
minh Hy Lạp thì chắc cũng sẽ không có ai không khắc đến kho tàng triết học đồ sộ với
các trường phái duy vật và duy tâm công kích, đấu tranh lẫn nhau. Sự phát triển của
nền triết học Hy Lạp cổ đại đã để lại những thành tựu rực rỡ mà đến ngày nay nhân
loại vẫn tiếp tục nghiên cứu khám phá. Trong giới hạn đề tài này, tôi sẽ tập trung
nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại để hiểu rõ hơn về nội dung
các tư tưởng của các nhà triết gia vĩ đại thuộc trường phái này như: Talet,
Anaximangdro, Anaximen, Hereclit, Empedoc, Anaxago, Lơxip, Democrit, Epicua …
2
và qua đó phân tích những giá trị , hạn chế từ đó rút ra những kết luận phục vụ cho
công việc học tập và đời sống xã hội của sinh viên.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi thật sự choáng ngộp với sự hiểu biết bao
la của các bận tiền nhân. Trong điều kiện giới hạn về trình độ khoa học công nghệ
cộng với sức mạnh chi phối của tôn giáo cùng trào lưu duy tâm lúc bấy giờ nhưng các
triết gia vẫn đưa ra các khám phá cực kì to lớn, hữu ích và thật sự dũng cảm. Ngoài
vốn tri trức mà họ đã để lại thì phong cách sống và làm việc của họ cũng là điều mà
thế hệ trẻ chúng tôi phải học hỏi rất nhiều.
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã nghiên cứu các tài liệu triết học của thầy Bùi Văn
Mưa – giảng viên cao học ĐH Kinh Tế, tài liệu triết học của tiểu ban triết học thuộc
khoa lý luận chính trị ĐH Kinh Tế, các tài liệu và bài viết trên mạng như Wikipedia,
diendankienthuc, triethoc …
Tôi xin chân thành cảm ơn.
TP Hồ Chí Minh ngày 21 tháng 02 năm 2012
Sinh viên thực hiện: Lê Thanh Hải
CHƯƠNG I
TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI

I. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một vùng lãnh thổ có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm phần
đất liền và vô số đảo lớn nhỏ trên biển Egie, miền Nam bán đảo Ban Căng và ven biển
phía tây Tiểu Á. Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh
chóng phát triển mạnh về kinh tế, chính trị mở rộng giao thương và trao đổi văn hóa
với các nước khu vực Bắc Phi, Tiểu Á và các nước Phương Đông. Bên cạnh những
thành tựu về kinh tế, chính trị thì hoạt động văn học, nghệ thuật cũng diễn ra sôi nổi
với các bộ sử thi, thần thoại đồ sộ mà thông qua đó con người tìm cách giải thích về
nguồn gốc giới tự nhiên, nguồn gốc con người, rồi dần dần kết hợp với sự phát triển
của các tinh hoa toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp mà tư
3
duy triết học tách dần ra khỏi thần thoại để nhận thức thế giới chân thật hơn. Ngoài ra
chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh mẽ tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động, đề cao
lao động trí óc , coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy các tầng lớp trí thức
tập trung đào sâu vào tư duy lí luận để nghiên cứu Triết học và khoa học. Chính vì vậy
Engels đã nhận xét : “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có
nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà
không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu
hiện đại được”
1
.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là
kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Trong bối cảnh nêu trên, các trường phái triết học theo chủ nghĩa duy vật chất phác
ra đời và là một bộ phân không thể tách rời của Triết học Hy Lạp cổ đại, với các Triết
gia lỗi lạc như: Heraclit (530-470 TCN); Democrit (460-370TCN); Arixtot (384-322
TCN) …
Các Triết gia trên được liệt kê vào trường phái triết học duy vật chất phác vì mang
một số điểm chung của trường phái này. Về thế giới quan là duy vật quan niệm vật
chất có trước ý thức, khởi nguồn của thế giới từ không từ một đấng tạo hóa nào mà do

các yếu tố vật chất tạo thành. Tuy nhiên về phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa
học bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của
chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức
triết học.
II. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại
Các trường phái chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại gồm có:
1. Trường phái Mi lê
Milê là một đô thị sầm uất và là trung tâm thương mại lớn nằm ven biển vùng Cận
Đông của Hy Lạp cổ đại. Trường phái triết học Milê do 3 nhà triết học duy vật là Talét,
Anaximăngđrơ, Anaximen (Thalès, Anaximandre, Anaximène) xây dựng, nhằm làm
1
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết Học phần I – Đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 90
4
sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Nếu bản nguyên vật chất của thế giới được
Talét cho là nước, thì Anaximăngđrơ cho là apeiron, còn Anaximen cho là không khí.
Talet (624-547 TCN) xuất thân trong một gia đình thương gia giàu có, không chỉ là
nhà triết học mà còn là nhà toán học, nhà thiên văn học… Ông chủ trương giải thích giới
tự nhiên không phải bằng tín điều mà bằng sự kiện quan sát. Từ chỗ nhận thấy mọi hạt
giống, thức ăn, bản thân của mọi sinh vật đều ẩm ướt, mà nguồn gốc của các vật thể ẩm
ướt chính là nước, hơn nữa đại lục nổi trên đại dương mà ông kết luận: “Nước là yếu tố
đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật; vạn vật bắt đầu từ nước và luôn quay trở về với
nước; không có nước thì không có gì cả. Nước tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo
ra thì không ngừng sinh ra, biến đổi và mất đi. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn
tại tựa như một vòng biến đổi tuần hoàn không ngừng nghỉ mà nước là nền tảng của
vòng biến đổi tuần hoàn đó”
2
.
Anaximandro (610 – 546 TCN): ông vốn là bạn của Talet. Ông đã sáng tạo ra đồng
hồ mặt trời, vẽ bản đồ bề mặt trái đất và biền Hy Lạp, theo thuyết địa tâm coi trái đất
là trung tâm vũ trụ.

Ông giải thích nguồn gốc sự sống, cho rằng các loài sinh vật đầu tiên sống dưới
nước, sau đó thích nghi dần cuộc sống trên cạn, con người có nguồn gốc từ một loài cá
… ông cho rằng apeiron là bản nguyên của thế giới. Đây là một dạng vật chất đơn
nhất, bất định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn. Theo ông,mọi sự vật không chỉ có bản chất
chung apeirôn,mà còn xuất hiện từ nó. Tự bản thân apeirôn sinh ra mọi cái đồng thời
là cơ sở vận động của chúng. Toàn bộ vũ trụ được cấu tạo từ apeirôn tồn tại như một
vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng.
Anaximen (585-525 TCN) lại cho rằng nguồn gốc của vạn vật bắt đầu từ không
khí,nhờ không khí và sự chuyển động của nó,vạn vật trong vũ trụ được tạo ra và sau
đó lại quay về dạng không khí. Chính do năng lực tụ và tán của không khí mà vật chất
được hình thành ở các dạng khác nhau. Ông cũng là người đưa ra các giả thuyết để
giải thích về các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
2
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 94
5
Tóm lại, các nhà triết học của trường phái Mi Lê đã đi từ thế giới để giải thích thế
giới, có những đóng góp nhất định trong việc hình thành các quan niệm mới về khởi
nguyên của vật chất, ngược lại với quan điểm duy tâm tôn giáo, tạo tiền đề cho các
triết gia về sau tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển giúp loài người tiến gần hơn
với chân lý.
2. Trường phái Heraclit:
Heraclit (535-475 TCN) là một nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép
biện chứng. Trường phái duy vật đơn nguyên mà ông xây dựng thể hiện rõ các tư
tưởng biện chứng chất phác của Hy Lạp cổ đại thông qua các phỏng đoán thiên tài về
quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập.
Hecraclit cho rằng lửa là nguồn gốc sinh ra tất cả mọi vật trên đời “ mọi cái biến đổi
thành lửa và lửa biến thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng
hóa thành vàng “
3
. Vật chất từ lửa mà ra và tùy theo độ của lửa mà chuyển hóa thành

các dạng vật chất khác và khi mất đi lại quay về với lửa: “lửa sống nhờ đất chết, không
khí sống nhờ lửa chết, nước sống nhờ không khí chết, đất sống nhờ nước chết”. Quan
điểm này thể hiện tính cơ động và tích cực của tồn tại đồng thời thể hiện bản chất ổn
định và trật tự bất biến của thế giới. Heraclit cũng cho rằng vũ trụ không do một thần
thánh nào tạo nên mà nó mãi là một ngọn lửa bất diện, hoạt động theo những qui luật
của riêng nó: “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay
một người nào đó sáng tạo ra nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh
cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi
tàn”
4
Khi coi vận động của vật chất là vĩnh viễn, dựa vào kinh nghiệm của mình Heraclit
cho rằng mọi sự vật trên thế giới vừa tồn tại vừa không tồn tại, chúng luôn không
ngừng vật động và biến đổi theo cái logos, tức là qui luật biến đổi trong vũ trụ. Thế
giới như một dòng chảy , trôi mãi: “ không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”
5
.
3
Heraclitus: />4
Heraclitus: />5
Vấn đề triết học căn bản: trit-
hc-cn-bn&catid=36:tp-chi-xa&Itemid=202
6
Thế giới vật chất vừa đa dạng vừa thống nhất bao gồm các sự vật, hiện tượng chứa
đựng trong mình các mặt đối lập, và sự chuyển hóa của các mặt đối lập đều phải thông
qua đấu tranh.
Theo heraclit, linh hồn của con người bao gồm sự thống nhất giữa hai mặt đối lập:
cái ẩm ướt và lửa. Người nào có nhiều yếu tố lửa hơn tức là tâm hồn được khô ráo thì
là người tốt và ngược lại. Ông cho rằng quá trình nhận thức bắt đầu từ cảm tính nhưng
để có được chân lý thì con người phải nhận thức bằng lý tính, tức là làm theo cái
logos. Ông viết “tư duy có một ý nghĩa vĩ đại và sự thông thái chính là ở chỗ nói lên

chân lý, ở chỗ lắng nghe tự nhiên rồi hành động thích hợp với tự nhiên”
6
3. Trường phái đa nguyên Empedoc – Anaxago:
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật, Empedoc và Anaxago đã cố vượt qua quan
điểm đơn nguyên của trường phái Mile và trường phái Heraclit để xây dựng quan điểm
đa nguyên trên tinh thần duy vật.
Empedoc (500-430 TCN) là một triết gia thiên tài sinh ra ở Acragas tức Sicile ngày
nay. Ông cho rằng vật chất được sinh ra từ bốn khởi nguyên độc lập : đất, nước, không
khí, lửa. Dưới tác dụng của lực tình yêu và hận thù chúng kết hợp hoặc chia tách làm
cho vạn vật được sinh ra hay mất đi. Tùy thuộc vào liều lượng của bốn yếu tố đất,
nước, lửa, không khí và lực tác dụng mạnh yếu của tình yêu và hận thù mà vạn vật
khác nhau xuất hiện hay biến mất.
Empedoc cho rằng vũ trụ luôn vận động trải qua chu trình phát triển gồm bốn giai
đoạn: giai đoạn một, tình yêu chiến thắng ngự ở tâm vũ trụ, hận thù bị đẩy dần ra xa
ngoài biên; gia đoạn hai, hận thù tiến dần vào tâm vũ trụ đẩy tình yêu ra ngoài, vũ trụ
bắt đầu phân hóa; giai đoạn ba, hận thù chiếm ngự tâm vũ trụ, tình yêu bị đẩy ra ngoài
biên, vũ trụ bị phân hóa thành đất, nước, lửa và không khí; giai đoạn bốn, tình yêu tiến
dần lại vào tâm vũ trụ đẩy hận thù đi ra khỏi tâm, dưới sự tác động của tình yêu và hận
6
Heraclitus: />7
thù mà bốn yếu tố đất, nước, lửa, không khí kết hợp với nhau sinh ra vạn vật hoặc tách
ra làm sự vật mất đi.
Anaxago (500-428 TCN) là học trò của anaximen tuy nhiên quan điểm về nguồn
gốc của vạn vật lại theo quan điểm đa nguyên. Ông nổi tiếng với các câu nói : “ tất cả
có trong tất cả”
7
, “ do cảm giác yếu kém, chúng ta không có khả năng phán xét về
chân lý”
8
.

Anaxago cho rằng vạn vật được sinh ra từ những cái tương tự như chúng mà ông
gọi là hạt giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống
cực nhỏ và có thể phân chia đến vô cùng tận. Do vạn vật có vô số nên tồn tại vô số hạt
giống. Các hạt giống sinh sôi nảy nở hay thay thế cho nhau phải có một động lực gọi
là Nus – trí tuệ thuần khuyết. Đồng thời Anaxago cho rằng các hạt giống không thuần
nhất mà nó chứa đựng thêm những phẩm chất của tất cả các loại hạt giống khác nhưng
mức độ nhỏ hơn cho nên : mỗi cái chứa mọi cái
9
. Đây là một ý tưởng biện chứng khá
độc đáo mà vẫn đang được các nhà khoa học hiện nay tiếp tục nghiên cứu, nghiền
ngẫm.
4. Trường phái nguyên tử luận Lơxip – Democrit:
Đây là đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại với các nhà triết gia tiêu biểu
như Lơxip, Democrit, Epicua. Trong đó Lơxip là người đi tiên phong trong việc nêu ra
các quan niệm về nguyên tử, Democrit đã phát triển, hoàn thiện thành một hệ thống
chặt chẽ và có sức thuyết phục hơn, Epicua sau đó góp phần bổ sung và củng cố.
Trường phái nguyên tử luận thời kì này nhờ đó phát triển mạnh mẽ đủ sức đương đầu
với trào lưu duy tâm thịnh hành, mà tiêu biểu là Platon.
Lơxip (500-440 TCN) cho rằng khởi nguyên của thế giới là từ nguyên tử (cái tồn
tại) và chân không (cái không tồn tại). Trong vũ trụ, các cơn lốc xoáy nguyên tử
chuyển động không ngừng với vận tốc vô cùng lớn trong chân không từ đó chúng kết
hợp với nhau theo từng loại để tạo nên đất, nước, lửa và không khí. Nguyên tử là
7
Anaxago: />thai/Anaxago.htm
8
Anaxago: />thai/Anaxago.htm
9
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 97
8
những hạt nhỏ nhất và không thể chia nhỏ thêm được nữa. Mọi vật chất trong vũ trụ

đều sinh ra và mất đi theo luật nhân quả.
Democrit (460-370 TCN) là nhà triết học duy vật vĩ đại nhất của Hi Lạp cổ đại và
là một đại biểu xuất sắc cho tầng lớp chủ nô dân chủ lúc bấy giờ. Nội dung lý luận của
ông gồm các bộ phận sau:
+ Thuyết nguyên tử:
Democrit xuất phát từ nguyên lý “không có gì thì không thể cho cái gì cả”
10
, bởi vì
theo suy luận của ông nếu chia nhỏ vật chất ra liên tục cho đến vô cùng thì kết quả
cuối cũng sẽ chỉ có hai trường hợp, một là không có gì cả, hai là còn lại cái gì đó.
Trường hợp một nếu xảy ra thì xem như không có vật chất trên đời, là điều vô lý.
Trường hợp hai thì cái còn lại cuối cùng, nhỏ nhất chính là nguyên tử. Các nguyên tử
có hình dạng, kích thước khác nhau nên khi liên kết lại với nhau sẽ cho ra các chất
khác nhau. Cũng như thầy Lơxip của mình, Democrit cho rằng khởi nguyên của vũ trụ
là từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân
quả mang tính tất nhiên tuyệt đối. Mọi sự vật hiện tượng trên thế giới đều có nguyên
nhân và kết quả rõ ràng, chính sự thiếu hiểu biết của con người mới cho rằng có sự
ngẫu nhiên. Ông cũng giải thích sự hình thành của vũ trụ: các luồng xoáy nguyên tử
vận động và va chạm vào nhau đẩy các nguyên tử nhẹ ra ngoài , nguyên tử nặng rơi
vào trong, và từ các tầng lớp nguyên tử đó sẽ kết hợp với nhau tạo ra vạn vật. Khi
nguyên tử tụ lại với nhau thì sự vật được tạo thành, khi các nguyên tử chia tách ra thì
sự vật biến mất. Ngoài ra Democrit cũng lí giải nguồn gốc hình thành và tiến hóa của
con người bắt nguồn từ các sinh vật sống ở nơi ẩm ướt, thông qua quá trình tiến hóa đã
chuyển lên trên cạn và đưa đến xuất hiện con người. Chỉ có sinh vật mới có linh hồn,
và bản thân linh hồn cũng được cấu tạo từ nguyên tử, khi linh hồn rời khỏi thể xác sẽ
tan rã thành các nguyên tử dạng lửa. Dù có một số hạn chế nhưng việc xây dựng
thuyết nguyên tử với các lý luận về bản chất thế giới là vật chất – nguyên tử, vạn vật
trong tự nhiên sinh ra và mất đi đều tuân theo luật nhân quả, không do thần thánh tạo
ra …thật sự là một quan niệm vô thần dũng cảm đương thời.
10

Những lý thuyết của các triết gia cổ Hy Lạp – La Mã: />9
+ Quan niệm về nhận thức:
Bên cạnh học thuyết về nguyên tử, Democrit còn xây dựng nhận thức luận dựa trên
kinh nghiệm của mình. Ông cho rằng nhận thức của con người về thế giới là chân thật,
nhưng mức độ rõ ràng thì khác nhau. Theo ông, nhận thức của con người chia ra làm
hai giai đoạn là nhận thực cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính chỉ cho ta
thấy cái bên ngoài sự vật, còn muốn khám phá sâu hơn về bản chất của sự vật phải
dùng đến nhận thức lý tính do đó nhận thức lý tính đáng tin cậy hơn. Muốn có được
nhận thức lý tính phải trải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu cộng với khả năng tư duy
cao của con người. Từ chỗ coi trọng nhận thức lý tính, ông đã xây dựng nên các
phương pháp nhận thức logich như : qui nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa và được
xem là người đầu tiên phát biểu về logich học.
+ Quan niệm về đạo đức:
Democrit cho rằng sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức, sống không gây hại
cho mình và cho người khác là hành vi có đạo đức. Ông phản đối những người trục lợi
bất chính, giàu có thái quá và đề cao hành vi nghĩa hiệp, cao thượng của con người.
Ông cũng phát hiện ra chính nhu cầu tồn tại và phát triển của con người là động lực
phát triển của xã hội.
+ Quan niệm về chính trị – xã hội:
Democrit đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ để bảo vệ quyền lợi nền dân chủ
Aten. Do xuất thân từ chủ nô nên ông chỉ quan tâm đến quyền lợi của chủ nô và công
dân tự do, quên đi quyền lợi của nô lệ. Theo ông, nô lệ chỉ cần tuân theo mệnh lệnh
của ông chủ. Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải nâng cao khả năng quản
lý điều hành theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý để đem lại một cho con người
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Epicua (341-270 TCN) cho rằng nguyên tử có trọng lượng và vận động không chỉ
theo chiều thẳng đứng mà còn theo chiều xiên. Sự vận động của vạn vật trên thế giới
chịu chi phối bởi các qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Ông phủ nhận thuyết định mệnh
10
và là một nhà vô thần. Ông cho rằng thượng đế hay thần thánh chỉ là sản phẩm tượng

của con người do con người tạo ra khi gặp các vấn đề khó khăn không biết bấu víu vào
ai. Cho nên ông khuyên con người phải bình tĩnh, tránh hành động thái quá, biết giữ
gìn sức khỏe để đủ sức đương đầu với mọi khó khăn trong cuộc sống.
CHƯƠNG II
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Giá trị của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy lạp cổ đại
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy lạp cổ đại thể hiện tư tưởng vô thần, chống lại quan
điểm duy tâm tôn giáo. Đây là một tư tưởng thật sự dũng cảm lúc bấy giờ khi mà các
quan điểm tôn giáo vẫn đang khắc sâu và tồn tại mạnh mẽ. Bằng việc phủ nhận thế
giới vạn vật do một đấng thần linh sáng tạo ra, các triết gia Hy lạp cổ đại đã tự tin
quan sát, tìm hiểu và đưa ra những lý giải về nguồn gốc của con người và vạn vật:
nguồn gốc vạn vật bắt nguồn từ nước (Talet), không khí (Anaximen), lửa (Heraclit),
nguyên tử (Lơxip, Democrit) …
Các nhà triết học duy vật Hy lạp cổ đại đã xây dựng được thế giới quan làm tiền đề
cho nhận thức sâu rộng của loài người. Họ không chỉ nhìn thấy sự muôn hình muôn vẻ
của thế giới mà con đi sâu vào cơ sở của nó, tìm nguyên nhân để giải thích nó như thế
giới từ gì tạo nên, vận động như thế nào và tác động như thế nào đến đời sống con
người. Họ chỉ ra được vật chất không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị tiêu diệt
mà sự vận động của nó là một quá trình tự nhiên, không ngừng biến đổi, chuyển hóa
trong một vòng tuần hoàn không ngừng nghỉ.
Có những tư tưởng biện chứng khi đề cập đến qui luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Họ biết được trong thế giới không có sự vật, hiện tượng nào đứng im
tuyệt đối, vạn vật vừa tồn tại vừa không tồn tại , cái này biến đổi thành cái khác và để
cho sự chuyển hóa, biến đổi được xảy ra thì phải thông qua đấu tranh.
11
Tư tưởng sơ khai về các cặp phạm trù triết học như : “ cái chung – cái riêng” : mọi
sự vật đều chứa trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng chỉ bị qui định
bởi hạt giống của chính nó nên mỗi cái chứa mọi cái ; “nguyên nhân – kết quả” : các
nguyên tử hoạt động trong chân không theo luật nhân quả ; “tất nhiên – ngẫu nhiên”

: bản tính thế giới là tất nhiên, sự thiếu hiểu biết của con người mới sinh cái ngẫu
nhiên, ngẫu nhiên mang tính chủ quan.
Triết học duy vật Hy lạp cổ đại chứa đựng những nội dung cơ bản của các ngành
khoa học lúc bấy giờ như toán học, thiên văn học, y học …Do xuất thân của các triết
gia Hy lạp cổ đại là các nhà khoa học tự nhiên nên trong tư tưởng triết học của họ đều
hàm chứa các nội dung khoa học tiến bộ lúc bấy giờ. Democrit cho rằng sự sống được
hình thành từ nơi ẩm ướt rồi dần dần tiến hóa lên sống trên cạn đưa đến sự xuất hiện
của loài người mà sau này .Vũ trụ được hình thành từ nguyên tử và chân không và
nguyên tử là những hạt cực nhỏ không nhìn thấy được. Anaxago thì cho rằng mỗi hạt
giống được phân chia đến vô cùng và chứa đựng tất cả các hạt giống khác ở liều lượng
nhỏ hơn. Chính nhờ những luận điểm này đã tạo nên cơ sở khoa học cho các nguyên
cứ về nguyên tử và vũ trụ của con người sau này.
Logich học cũng manh nha hình thành trong giai đoạn này với các phương pháp
nhận thức logich như qui nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa được Demorcrit đưa ra
mà trở thành tiền đề cho bộ môn Logich học hiện đại.
Các triết lý mang giá trị vượt thời gian như "không ai có thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông", "Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới"
11
, “mầm nào
sinh ra giống ấy”
12
… không chỉ trong khoa học mà còn trong nhận thức tư tưởng đời
sống hàng ngày.
Các nhà triết học duy vật Hy lạp cổ đại đã có một trình độ nhận thức cao về thế
giới. Khi đặt ra câu hỏi: liệu chất liệu sơ đẳng nào tạo nên vạn vật đa dạng trên thế giới
? họ đã có một bước tiến cao về nhận thức, đặt ra giả thuyết rồi suy tính tìm lời giải về
11
Các hình thức lịch sử của chủ nghĩa duy vật: />nghia-duy-vat.35CE1109.html
12
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 97

12
giới tự nhiên chứ không sa lầy vào việc viện dẫn thần thoại, truyền thuyết. Việc phân
biệt được nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính cũng như đề cao nhận thức lý tính
như kim chỉ nam cho mọi hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như trong cuộc sống
hàng ngày mà đến tận bây giờ không ai có thể phủ nhận được.
Các nhà duy vật Hy lạp cổ đại cũng có những tư tưởng, quan niệm tiến bộ hơn về
con người và xã hội. Tự do dân chủ được đề cao và con người phải hành động có đạo
đức, phê phán bất công, trục lợi. Họ cũng đề cao mô hình pháp trị và xem quản lí nhà
nước như là một nghệ thuật để đem hạnh phúc, ấm no và dân chủ.
II. Hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy lạp cổ đại
Do hạn chế nhất định về trình độ khoa học kĩ thuật nên thế giới quan duy vật chất
phác thường đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể. Để nhìn nhận thế giới, các triết gia
giai đoạn này chỉ có thể dùng trực quan kết hợp với phỏng đoán mà thiếu đi các chứng
cứ khoa học xác thực.
Do sống trong thời đại chịu ảnh hưởng nhiều bởi thần thoại và tôn giáo nên các khái
niệm còn mang ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo như “tình yêu”, “thù
hận”, “ linh hồn” …nên giải thích các hiện tượng còn mơ hồ, chủ quan, cảm tính.
Ngay cả khi không dùng các khái niệm liên quan đến tôn giáo thì lại đưa ra một khái
niệm khác cũng huyền bí không kém: cái logos , cái apeiron …
Chưa thấy được hết khả năng của con người trong việc cải tạo giới tự nhiên. Các
triết gia thời kì này chỉ đưa ra các luận điểm cơ bản về thế giới vạn vật nhưng lại
không phát hiện ra sức ảnh hưởng của con người cũng như tác động mạnh mẽ của con
người đến giới tự nhiên.
Chưa lí giải được nguồn gốc vận động của thế giới vật chất. Bức tranh triết học giai
đoạn này nhìn chung nêu ra được các vấn đề bản chất vận động của thế giới: nguyên
tử luôn vận động theo qui luật nhân quả
13
(Democrit), mọi sự chuyển hóa của các mặt
đối lập đều thông qua đấu tranh
14

(Heraclit)…tuy nhiên nguồn gốc vận động là sự tự
13
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 99
14
Heraclitus: />13
thân vận động của thế giới vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau giữa các yếu
tố nội tại trong vật chất thì các triết gia gia đoạn này chưa khám phám ra.
Chưa giải thích được các hiện tượng tinh thần , không biết được linh hồn là hiện
tượng tinh thần, đồng nhất linh hồn như vật chất: linh hồn cũng được tạo thành từ các
nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển động nhanh
15
(Democrit).
Tư tưởng bảo vệ giai cấp, bảo vệ quyền lợi thống trị của tầng lớp mình. Dù có suy
nghĩ đến sự tự do dân chủ nhưng chỉ là ở mức thấp. Nô lệ phải tuân theo mệnh chủ nô.
Không thấy được tính tất yếu của việc giải phóng con người khỏi chế độ nô lệ.
Phép biện chứng còn ngây thơ chất phác nên sau giai đoạn phát triển rực rỡ đã
không còn đứng vững và bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế.
KẾT LUẬN
Nền triết học duy vật chất phác Hy lạp cổ đại đã đạt được những thành tựu rực rỡ và
cống hiến lớn lao cho sự phát triển của triết học nhân loại. Mặc dù còn chứa đựng
trong đó nhiều hạn chế do trình độ khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ nhưng những thành
quả của nó là tài sản vô giá cho các thế hệ về sau, có thể kế đến như: các tư tưởng biện
chứng về thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, nhận thức luận tiến bộ, logich
học sơ khai, thuyết nguyên tử…
Trong thời đại chịu chi phối rất lớn bởi chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo nhưng các triết
gia duy vật Hy lạp cổ đại vẫn thể hiện tư tưởng tiến bộ dũng cảm đưa ra thế giới quan
đúng đắn về nguồn gốc của thế giới vật chất. Tuy còn chất phác, ngây thơ nhưng
những quan niệm ấy là cơ sở để các thế hệ tiếp theo tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để
đi đến hoàn chỉnh bức tranh triết học.
Việc học tập và nguyên cứu về triết học duy vật Hy lạp cổ đại giúp chúng ta nắm

vững về chủ nghĩa duy vật, hiểu được quá trình hình thành và phát triển từ gốc rễ từ đó
15
Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – đại cương về lịch sử triết học, TPHCM, 2011, tr 99
14
chúng ta nhận thực được các sự vật, hiện tượng một cách bản chất, khoa học để đi đến
giải quyết các mối quan hệ một cách đúng đắn. Ngoài ra, nắm được các giá trị và hạn
chế của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy lạp cổ đại giúp chúng ta thuận lợi hơn trong
việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay rất cam go, bị áp lực tác
động rất lớn từ các thế lực thù địch bên ngoài thì việc hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa
xã hội từ đó kiên định theo con đường của Đảng là rất quan trọng. Để làm được điều
đó, chúng ta phải có kiến thức căn bản về triết học Mác – Lê, và việc nghiên cứu về
nguồn gốc bản chất của chủ nghĩa duy vật cũng như các tư tưởng biện chứng sẽ giúp
chúng ta biết vận dụng sáng tạo, khắc phục các sai lầm, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học,
TPHCM, 2011
2. Bùi Văn Mưa (chủ biên): Triết học phần 2 – Các chuyên đề về triết học Mác
- Lênin, TPHCM, 2011
3. Bùi Văn Mưa: Triết học & Bức tranh vật lý học về thế giới, NXB ĐHQG
TPHCM, 2007
4. Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở: http://vi. wikipedia .org
5. Các hình thức lịch sử của chủ nghĩa duy vật: />6. Những lý thuyết của các triết gia cổ Hy Lạp – La Mã:

7. 150 Nhà thông thái:
8. Những vấn đề triết học căn bản:
9. Triết học Hy Lạp cổ đại: www.go.vn
10.Triết học :
15

×