Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

bản sắc văn hóa mường trong sáng tác của hà thị cẩm anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.17 KB, 105 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––





NGUYỄN THỊ BÍCH DẬU





BẢN SẮC VĂN HÓA MƢỜNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ CẨM ANH





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC






THÁI NGUYÊN - 2014


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––––––––––––––




NGUYỄN THỊ BÍCH DẬU




BẢN SẮC VĂN HÓA MƢỜNG
TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ CẨM ANH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS ĐÀO THỦY NGUYÊN





THÁI NGUYÊN – 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong
một công trình nào khác.



Tác giả


Nguyễn Thị Bích Dậu

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
Luận văn đã được chỉnh sửa theo những ý kiến đóng góp của các thầy, cô
giáo trong hội đồng khoa học.

Xác nhận của khoa Ngữ văn Xác nhận của ngƣời hƣớng dẫn khoa học


PGS.TS Đào Thuỷ Nguyên






















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của đề tài 8
7. Cấu trúc đề tài 8
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ BẢN SẮC VĂN
HOÁ DÂN TỘC. NHÀ VĂN HÀ THỊ CẨM ANH TRONG DÒNG
CHẢY CỦA VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN –
ĐƯƠNG ĐẠI 9
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hoá dân tộc 9
1.1.1. Khái niệm “bản sắc văn hoá dân tộc” 9
1.1.2. Bản sắc văn hoá dân tộc trong sáng tác văn học 13
1.1.3. Bản sắc văn hoá dân tộc Mường 18
1.2. Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong dòng chảy của văn xuôi các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại 25
Chƣơng 2: NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG MANG ĐẬM
BẢN SẮC VĂN HOÁ MƢỜNG TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ
CẨM ANH 30

2.1. Cảm hứng về con người mang đặc trưng tâm hồn, tính cách dân tộc Mường . 30
2.1.1. Con người giàu lòng nhân ái, vị tha và tinh thần đoàn kết 30
2.1.2. Con người thuỷ chung son sắt 34
2.1.3. Con người chân thực, hồn hậu 37
2.1.4. Con người giàu nghị lực, vượt lên hoàn cảnh 39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.2. Cảm hứng về những phong tục, tập quán mang đậm bản sắc văn
hoá Mường 43
2.2.1. Cảm hứng trân trọng, tự hào về những phong tục, tập quán đẹp 43
2.2.2. Cảm hứng phê phán những hủ tục lạc hậu 52
2.3. Cảm hứng về thiên nhiên mang đặc trưng vùng miền 55
2.3.1. Thiên nhiên thơ mộng, bình dị, thuần khiết mang đậm dấu ấn vùng miền 55
2.3.2. Thiên nhiên gắn bó, hoà hợp với con người miền núi 59
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
BẢN SẮC VĂN HÓA MƢỜNG TRONG SÁNG TÁC CỦA HÀ THỊ
CẨM ANH 64
3.1. Cốt truyện và yếu tố ngoài cốt truyện 64
3.1.1. Cốt truyện 64
3.1.2. Yếu tố ngoài cốt truyện 68
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 73
3.2.1. Xây dựng thế giới nhân vật phân cực tốt - xấu 73
3.2.2. Miêu tả ngoại hình 76
3.3. Nghệ thuật ngôn từ 83
3.3.1. Ngôn ngữ đậm chất sử thi truyền thống 83
3.3.2.Hệ thống ngôn ngữ gắn với con người và cuộc sống xứ Mường 86
3.3.3. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gắn với tư duy trực giác và cảm tính 88
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nói đến nền văn học Việt Nam, chúng ta không chỉ kể đến bộ phận văn
học của người Kinh mà còn phải kể đến sự đóng góp của văn học các dân tộc
thiểu số. Có thể khẳng định rằng văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một
bộ phận hợp thành quan trọng của nền văn học nước ta. Chúng ta đã biết đến
nhiều tác phẩm văn học dân gian đặc sắc của các dân tộc Thái, Tày, Nùng,
Mường, Ê đê…Đến thời kì hiện đại, nền văn học các dân tộc thiểu số lại xuất
hiện nhiều cây bút tài năng như: Y Phương, Cao Duy Sơn, Nông Minh Châu,
Vi Hồng, Y Điêng Trong hơn nửa thế kỉ qua, các nhà văn dân tộc thiểu số đã
góp cho nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị không chỉ về phương diện văn học,
nghệ thuật mà còn đọng lại những trữ lượng văn hoá tinh thần phong phú của
nhiều dân tộc anh em. Mỗi trang văn ấy là muối bể tâm hồn được kết đọng từ
những giọt nước biển văn hoá mặn mà, đậm đà bản sắc riêng của từng dân tộc
trên đất nước Việt Nam chúng ta. Có thể nói, văn học các dân tộc thiểu số
chính là tài sản quý giá mà chúng ta cần có ý thức khám phá, trân trọng và giữ
gìn. Trong bối cảnh xã hội hiện đại đầy bão táp của nền kinh tế thị trường và
quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc bảo tồn những giá trị
văn hoá, văn học các dân tộc thiểu số càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1.2. Có ý kiến cho rằng văn hoá là tấm gương nhân loại. Thật vậy, nhìn vào nền
văn hoá của từng quốc gia, từng dân tộc, ta hiểu được đặc trưng tâm hồn, tính
cách của mỗi quốc gia, dân tộc ấy. Xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi quốc gia càng có ý nghĩa cấp

thiết. Đặc biệt, vấn đề bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc của các dân tộc thiểu số
trong thời kì hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá luôn được các học giả, các nhà
nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quan tâm sâu sắc. Việc giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc có liên quan mật thiết tới sự tồn tại và phát triển của một
dân tộc nói riêng và của một quốc gia nói chung. Có thể nói một nền văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc thì nền văn học của dân tộc đó cũng không
thể tồn tại. Vì vậy, một trong những tiêu chí quan trọng để xác định giá trị của
tác phẩm văn học đó chính là bản sắc dân tộc của nó.
1.3. Bên cạnh những nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số nổi tiếng và có nhiều
sáng tác mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như Cao Duy Sơn, Y Phương, Lò
Ngân Sủn, Dương Thuấn, Mai Liễu, Vi Hồng… thì Hà Thị Cẩm Anh tuy đến
sau nhưng đã mang đến một sắc áo độc đáo của dân tộc Mường. Dường như
được tắm mình trong bầu không khí văn hoá truyền thống Mường từ thuở lọt
lòng nên cái chất văn hoá Mường đã ăn sâu vào máu thịt, tâm hồn của nhà văn.
Khác với nhiều nhà văn khi ra thành thị sống đã đánh mất vẻ riêng của tâm hồn
dân tộc mình thì Hà Thị Cẩm Anh vẫn giữ được nét đặc trưng của mảnh đất và
con người xứ Mường. Tuy nhiên, sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh vẫn là một
mảnh đất đầy mới mẻ mà chưa có nhiều người đặt chân đến, nhất là những
nghiên cứu về bản sắc văn hoá trong các sáng tác của nhà văn cũng chưa được
đề cập đến một cách đầy đủ và có hệ thống. Đề tài này sẽ góp phần giúp chúng
ta hiểu hơn về bản sắc văn hoá dân tộc trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh.
Qua đó thấy được đóng góp riêng của nhà văn đối với việc giữ gìn và bảo tồn
văn hoá dân tộc trong thời kì mới.
2. Lịch sử vấn đề
Nói đến các nhà văn nổi tiếng của văn học các dân tộc thiểu số, người
đọc đã quen với những tên tuổi như Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Y Phương…Còn
Hà Thị Cẩm Anh, tuy gặt hái được nhiều thành công trong những năm gần đây

song văn chương của bà vẫn còn là một mảnh trời riêng mà chưa nhiều người
nghiên cứu. Do đó, các công trình nghiên cứu mang tính đầy đủ và hệ thống về
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh chưa có. Tên tuổi và văn nghiệp của nhà văn
mới chỉ được người ta đề cập đến trong một số bài báo, trong lời tựa các tập
truyện ngắn. Dựa theo kết quả thống kê và phân loại, chúng tôi nhận thấy
những ý kiến đánh giá về bản sắc dân tộc trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
chủ yếu tập trung vào hai phương diện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Về phương diện nội dung:
Trong lời tựa Khi đá cũng được giải oan, Lã Thanh Tùng có nhận xét về
những niềm vui và nỗi đau cũng mang nét riêng biệt trong truyện ngắn Hà Thị
Cẩm Anh: “Cây bút của chị cũng gió mưa, hoa lá sâu rầy ong bướm như hàng
nghìn nhà văn trên trái đất này, nhưng cái niềm vui và nỗi đau của chị thì lại
đặc trưng cho bản thể chị, chúng “ngún” lên từ từng tế bào, giọng nói, cái lối
hành xử của chị, về cuộc sống đang ngổn ngang bề bộn nơi cái xứ Mường
Vang, Mường Dồ âm u đại ngàn Bắc Trung Bộ Việt Nam” [4]. Nhận xét về tập
truyện ngắn Nước mắt của đá, Lã Thanh Tùng cho rằng: “Trên tay các bạn
đang là máu thịt chị, bảy truyện ngắn tròn trịa, ấm nóng, bảy tiếng thở dài và
bảy bài ca u buồn…Bảy truyện ngắn trong tập này giống như bảy chú lùn siêng
năng kết đoàn cùng xây đắp một tổ ấm ngăn nắp mời gọi, để mỗi độc giả khi lạc
vào có thể tự mình thể nghiệm một vai Bạch Tuyết ê chề mà hạnh phúc” [4].
Hầu hết những người nghiên cứu về Hà Thị Cẩm Anh đều có một quan
điểm trùng hợp đó là họ đều nhận ra chất văn hoá Mường rất riêng và một sức
hút diệu kì trong trang văn của bà.
Đọc những truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, những ai chưa từng đặt
chân đến mảnh đất của xứ sở người Mường đều ít nhiều hiểu được cuộc sống
và phong tục của con người nơi đây. Chính vì có một tình yêu máu thịt với quê
hương mà những trang viết của nhà văn đậm đà bản sắc dân tộc đến thế. Trong

lời tựa tập truyện ngắn Bài xường ru từ núi, Đỗ Đức đã có những đánh giá
tinh tế khi ông có sự liên tưởng giữa Hà Thị Cẩm Anh và Ra - xun - gam - za -
tốp: “Đọc tập truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh tôi lại nhớ tới Ra - xun Gam -
za - tốp với cuốn sách Đaghetxtan - tình yêu của tôi. Ở đây tôi không có ý so
sánh văn chương của hai tác giả, bởi họ rất khác biệt nhau về lối viết. Nhưng
cái giống nhau lại gần như trùng khít, đó là ngòi bút của họ chỉ quanh quẩn
trên quê hương xứ sở của mình. Con đường văn nghiệp gắn chặt với mảnh đất
mình được sinh thành…Hà Thị Cẩm Anh, chị người Mường. Mảnh đất chị chọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
cho văn chương là Mường Vang, là làng Chiềng, là thung lũng Si Dồ - xứ
Thanh. Nhân vật của chị là chú Giáp, ông Nềnh, chị Sun, thằng Chinh
ngốc…Là quê hương chị với những làng bản đã quen tên, những con người đã
nhẵn mặt” [3].
Tác giả Nguyên Tĩnh trong bài Hà Thị Cẩm Anh và thung lũng Si Dồ
khẳng định rằng Hà Thị Cẩm Anh đã tìm thấy “cái Mường trong văn học” rất
riêng. Ông cho rằng Hà Thị Cẩm Anh rời quê hương Cẩm Sơn của mình từ khá
sớm nhưng cái sợi dây nối kết con người và văn hoá cội nguồn truyền thống
giữa nhà văn với quê hương chưa bao giờ đứt. Tuy nhà văn đã ra đi từ lâu để
làm người thành thị nhưng “hình bóng quê hương, bản mường trong sáng tác
lúc nào cũng lồ lộ…Nhà văn không chỉ viết nên những truyện ngắn dễ thương
về thung lũng Si Dồ, mà còn làm một việc khác nữa, là khôi phục cho các thế
hệ sau cùng tưởng tượng về sông núi, cỏ cây, con người, nguồn cội…đang bị
thời gian làm cho phôi pha, mòn, mất dần dư vị của tiếng cồng chiêng, lời ăn
tiếng nói và dòng máu Mường trong huyết quản” [43]. Theo Nguyên Tĩnh thì
có lẽ vốn sống của Hà Thị Cẩm Anh phong phú đã khiến cho những câu
chuyện của bà đậm chất văn hoá Mường mà không hề gượng ép, khiên cưỡng:
“Trong số không nhiều những nhà văn dân tộc Mường còn bám trụ lại trên xứ
Thanh; phần nhiều là người làm thơ, riêng Hà Thị Cẩm Anh lại chọn cho mình

viết văn xuôi. Công việc nhọc nhằn đòi hỏi phải bươn trải, lăn lộn và nhất là
phải tích luỹ kiến thức và vốn hiện thực phong phú. Vốn sống nói chung là một
thách thức đối với các nhà văn, vốn sống về văn hoá của người Mường lại càng
khó. Làm sao để trong tác phẩm của mình mang được bóng dáng của quê
hương, của người Mường. Không phải chỉ là nói nhịu trong lời ăn tiếng nói,
trong sinh hoạt để làm nên sắc thái. Cũng không phải chỉ là một vài tên gọi:
Vạ, Mộng râu, Mộng váy v.v…rồi ép cho nó cái vỏ của người Mường một cách
khiên cưỡng” [43].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong bài viết Văn học hiện đại dân tộc
Mường: những khuôn mặt đã khẳng định sức sáng tạo bất ngờ và mạnh mẽ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
dữ dội của Hà Thị Cẩm Anh: “Năm 1998, Hà Thị Cẩm Anh cầm bút trở lại và
lần này thì quyết liệt. Có ai ngờ người phụ nữ đã bước vào tuổi “lục thập hoa
giáp” lại có một trận maratông trong văn chương và gây bất ngờ như vậy.
Những gì chất chứa trong con người chị đã bung như nham thạch núi lửa tuôn
trào. Chị viết liên tục, sôi động và trầm lắng những gì đã quan sát, trải nghiệm,
để những Đêm Khua Luống dành cho người chết, Ngôi nhà sàn cũ kĩ, Gốc
gội xù xì…để lại nhiều dư ba trong bạn đọc” [55].
Có thể nói, các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đã đi sâu phản ánh cuộc
sống của con người miền núi, là bức tranh toàn cảnh về quê hương xứ Mường
của bà. Trong đó, vừa chan chứa niềm tự hào về những phong tục tập quán của
quê hương, vừa ẩn giấu giọt nước mắt xót xa cho sự phai nhạt của những
truỳên thống văn hóa khi đời sống kinh tế thị trường thâm nhập vào bản
mường. Hà Thị Cẩm Anh đặc biệt trăn trở về nỗi đau của thân phận người phụ
nữ, về những cánh rừng, dòng sông đang oằn mình hứng chịu sự huỷ dịêt của
con người. Những trang văn của nữ sĩ vừa là chia sẻ, vừa là trải nghiệm và
cũng là tiếng kêu cứu của thiên nhiên. Về vấn đề thông điệp bảo vệ thiên nhiên
trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, tác giả Phạm Duy Nghĩa đánh giá:

“Trong văn xuôi miền núi, cùng với Nguyễn Huy Thiệp, La Quán Miên và
Hoàng Thế Sinh, Hà Thị Cẩm Anh là cây bút có ý thức tuyên ngôn về mối quan
hệ hoà hợp con người - tự nhiên và đặt ra vấn đề bảo vệ thiên nhiên một cách
rõ ràng, kiên quyết. Truyện ngắn của nhà văn dân tộc Mường này có môtíp:
Con người đến với thiên nhiên để tìm một chỗ dựa tinh thần khi bản thân bị
cộng đồng xa lánh, hắt hủi và khi đó họ trở thành người tình nguyện bảo vệ
thiên nhiên” [26, tr.94].
Qua các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta nhận thấy một tình yêu thiên
nhiên sâu nặng và tình cảm nhân đạo sâu sắc của người con xứ Mường. Đồng
thời hiện lên trong các tác phẩm của nhà văn là nét đẹp mang bản sắc riêng của
văn hoá Mường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Về phương diện nghệ thuật:
Tác giả Thanh Tùng trong bài tựa Khi đá cũng được giải oan viết cho
tập truyện ngắn Nước mắt của đá đánh giá một nét phong cách nổi bật trong
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đó là “một “bản lĩnh lãng mạn” riêng, tinh tế
mà vạm vỡ, thô tháp mà dịu mát, ngỗ ngược mà nhân tình ấm áp ?” [4] . Tác
giả bài viết khẳng định chất hiện thực gồ ghề, xù xì của cuộc sống đời thường
đã làm vơi bớt phần nào chất lãng mạn trong các trang văn của bà: “Nhưng sẽ
có nhiều người đọc thích bình lặng, muốn được nghe những lời du dương,
muốn được uống mật ong và rượu hoa quả, thì văn cách của Hà Thị Cẩm Anh
cần phải giấu bớt chất gồ ghề, phải tăng cường chất nũng nịu phụ nữ, tóm lại,
phải lãng mạn, lãng mạn hơn nữa” [4].
Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, ta thấy có sự phân cực rõ ràng
giữa cái thiện và cái ác. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải có lối viết mạnh bạo, bản
lĩnh, bộc lộ thẳng thắn quan điểm của mình. Tác giả Đỗ Đức trong lời tựa Đọc
truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh viết cho tập truyện Bài xường ru từ núi đã
nhận xét về phong cách viết của nhà văn: “Chị viết dữ dội, không mập mờ và

luôn rạch ròi giữa thiện và ác. Thái độ của chị là thẳng băng rõ ràng. Trong
truyện ngắn của chị, cái ác không ít lần thắng thế, nhưng chỉ là thắng thế nhất
thời. Cái thiện nhỏ nhoi nhiều khi bị lép vế, bị bóp nghẹt nhưng cái thiện luôn là
mầm sống bất diệt” [3]. Cũng như sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số thì
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh rất đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể nói,
một trong những phương diện nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc
Mường đó là kết thúc truyện có hậu. Tác giả Phạm Duy Nghĩa trong Văn xuôi
Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi cho rằng: “Hà Thị Cẩm Anh còn tỏ
ra duy ý chí hơn khi để cho một số kết truyện của mình nhuốm đậm màu hồng
cổ tích, cô gái tật nguyền có khuôn mặt biến dạng được anh cán bộ tử tế
thương yêu, nâng đỡ, lấy làm vợ (Gốc gội xù xì)” [ 26, tr.122 ].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Trong bài viết Nhìn ra được mất nhận xét về tập truyện Một nửa của
người đàn bà, Trọng Miễn có những đánh giá xác đáng về văn phong của Hà Thị
Cẩm Anh “Văn của Hà Thị Cẩm Anh thấm đẫm hồn cốt của người Mường…Phải
là người hiểu văn hoá Mường, yêu quý văn hoá Mường mới viết được như thế”
[23, tr.18]. Có thể nói rằng, bản sắc văn hoá Mường còn in đậm trong ngôn ngữ của
nhân vật: “Cách ăn nói của nhân vật đều tạo ra một không gian truyện ngắn, đều
chắp nối dòng lịch sử với âm hưởng của núi non sông nước, cỏ cây đất Si Dồ” [43].
Nhìn chung các ý kiến nghiên cứu đều khẳng định rằng bản sắc văn hoá
dân tộc rất đậm nét trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh. Tuy nhiên, đó mới
chỉ là những nhận xét trong các bài báo, bài nghiên cứu lẻ tẻ mà chưa có một
chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Do đó, việc tìm hiểu Bản sắc
văn hoá dân tộc Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh một cách toàn
diện, hệ thống dựa trên những luận giải, minh chứng cụ thể là một điều cần thiết.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề Bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác Hà

Thị Cẩm Anh.
- Phạm vi tài liệu nghiên cứu của đề tài là các tập truyện của Hà Thị Cẩm Anh:
+ Người con gái Mường Biện (Tập truyện và ký 2002)
+ Những đứa trẻ mồ côi (Truyện dài 2003)
+ Bài xường ru từ núi (Tập truyện ngắn, 2004)
+ Nước mắt của đá (Tập truỵên ngắn 2005)
+ Lão thần rừng nhỏ bé (Truyện dài 2007)
+ Mưa bụi (Tập truyện ngắn 2008)
+ Một nửa của người đàn bà (Tập truyện ngắn 2013)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị
Cẩm Anh, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những nét đặc sắc của văn hoá Mường trong sáng tác của Hà
Thị Cẩm Anh ở các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Góp phần làm rõ nét hơn những đóng góp của nhà văn Hà Thị Cẩm
Anh trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, khẳng định được
vị trí của nhà văn trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thống kê, hệ thống
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
- Phương pháp liên ngành
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính chất hệ thống toàn
diện và khái quát sâu sắc về vấn đề bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của
Hà Thị Cẩm Anh. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định những nét riêng
trong cách khám phá và thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc của nhà văn so với

nhiều nhà văn dân tộc thiểu số khác.
- Kết quả của luận văn ít nhiều góp phần gợi mở một hướng tiếp cận mới
cho các sáng tác văn học nói chung và cho văn học các dân tộc thiểu số nói
riêng. Luận văn có những đóng góp nhất định vào vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc của nước ta.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội
dung gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà văn
Hà Thị Cẩm Anh trong dòng chảy của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
– đương đại.
Chương 2: Những mạch nguồn cảm hứng mang đậm bản sắc văn hoá
Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh.
Chương 3: Đặc trưng nghệ thuật thể hiện bản sắc văn hoá Mường trong
sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC.
NHÀ VĂN HÀ THỊ CẨM ANH TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN HỌC
DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN – ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hoá dân tộc
1.1.1. Khái niệm “bản sắc văn hoá dân tộc”
*Khái niệm văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng và được đề cập đến rất nhiều trong đời
sống hiện tại. Văn hoá không chỉ thể hiện qua truyền thống dân tộc mà còn thể
hiện trực tiếp trong đời sống hàng ngày của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Văn hoá
giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống, quyết định sự tồn tại và phát

triển của mỗi quốc gia nói riêng hay cả nhân loại nói chung.
Đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu luận bàn về khái niệm văn
hoá, nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra được một khái niệm chung
nhất. Có ý kiến cho rằng văn hoá là tất cả những gì con người sáng tạo từ thuở
sơ khai của loài người: “Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ
thuở bình minh cuả xã hội loài người” [60, tr.17]. Ở phương Đông, từ văn hoá
đã xuất hiện rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã giải thích văn và hoá nghĩa là
xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ. “Người sử dụng từ văn
hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77- 6 trước công nguyên), thời Tây
Hán với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người - văn trị giáo hoá”
[60, tr.18]. Còn ở phương Tây, để chỉ văn hoá, người Pháp, người Anh có từ
culture. Từ này xuất phát từ chữ gốc Latinh là cultus animi với nghĩa là trồng
trọt tinh thần. Đến thế kỉ XIX thì E.B.Taylor quan niệm rằng văn hoá là toàn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong
tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một
thành viên của xã hội. Ở thế kỉ XX, khái niệm văn hoá thay đổi theo F.Boa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Ông cho rằng xem xét sự khác nhau về văn hoá của từng dân tộc không căn cứ
vào tiêu chuẩn trí lực. Vì vậy, vấn đề văn hoá không nên xem xét ở trình độ cao
hay thấp mà chủ yếu ở góc độ khác biệt.
Các tác giả của cuốn Từ điển Tiếng Việt đã đưa ra năm cách hiểu khác
nhau về văn hoá:
1.Văn hoá là “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
2. Văn hoá là “những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu
đời sống tinh thần (nói tổng quát)”.
3. Văn hoá là “tri thức, kiến thức khoa học ( nói khái quát )”.
4. Văn hoá là“trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của

văn minh”.
5. Văn hoá là “nền văn hoá của một thời kì lịch sử, được xác định trên
cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những điểm giống nhau”
[59, tr.1110].
Văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt mà nó là tổng thể những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Vì vậy, Unesco đã khẳng
định vị trí và vai trò quan trọng của văn hoá đối với sự hình thành nhân cách
của mỗi con người và sự phát triển của xã hội: “Văn hoá hôm nay có thể coi là
tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết
định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của
con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hoá đem
lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng
ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức
được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem
xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [43, tr.24]. Văn hoá
của mỗi dân tộc đều chứng tỏ nét riêng trong đời sống tinh thần và vật chất của
từng dân tộc. Vì vậy, nhà nghiên cứu văn hoá Phan Ngọc đã đưa ra một định
nghĩa về văn hoá mang tính tổng quát: “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới
biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít
nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn
tại trong biểu tượng. Điều thể hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn
hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của
cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc
người khác” [28, tr.20]. Nhà văn Ma Trường Nguyên đã khẳng định vai trò

quan trọng của nền văn hoá mỗi dân tộc khi ông cho rằng: “Nói đến văn hóa là
nói đến sự độc đáo, đặc thù, sắc thái riêng của từng dân tộc” [30, tr.74]. Mỗi
một quốc gia, một dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có nền văn hoá đặc trưng với bản
sắc riêng và độc đáo.
*Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc
Trong quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra rộng rãi giữa các nước
hiện nay thì vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc lại càng được
chú trọng, quan tâm hơn nữa. Giống như mỗi loài hoa đều mang đến cho đời
hương thơm riêng thì mỗi dân tộc lại có bản sắc văn hoá riêng của mình. Nói
đến vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc là chúng ta khẳng định nét đặc trưng khu
biệt văn hoá của từng dân tộc, từng quốc gia khác nhau. Các nhà nghiên cứu
trong cuốn Từ điển tiếng Việt định nghĩa bản sắc là “màu sắc, tính chất riêng
tạo thành đặc điểm chính” [59, tr.27]. Theo nghĩa Hán Việt, bản là cái gốc, là
yếu tố căn bản làm nên đặc tính của một sự vật, sắc là thể hiện ra ngoài. Nói
đến bản sắc văn hoá là nói đến những giá trị gốc, nền tảng, cốt lõi của một nền
văn hoá riêng biệt. Đó là những giá trị hạt nhân, tiêu biểu nhất, bản chất nhất
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của nền văn hoá: văn học nghệ thuật, sân
khấu điện ảnh, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, trong các phong tục tập quán,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
trong nếp sống, ứng xử hàng ngày của con người Việt Nam. Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Bản sắc là những nét riêng biệt, độc đáo của một
dân tộc thể hiện trong nền văn hoá, nghệ thuật, trong phong tục tập quán,
trong đời sống muôn màu của dân tộc” [12]. Khi tìm hiểu về bản sắc văn hoá
dân tộc, PSG.TS Trần Thị Việt Trung đã khẳng định: “Bản sắc dân tộc là
những nét riêng biệt, độc đáo của một nền văn hoá, văn học bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa văn hoá văn minh của dân tộc được vun đắp
nên qua lịch sử, tạo thành phong cách dân tộc” [53, tr.56]. Có nhiều ý kiến,
nhiều cách hiểu khác nhau về bản sắc văn hoá dân tộc, song tựu chung lại, nói

đến bản sắc văn hoá dân tộc là ta nói đến “hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo, là tiếng nói dân tộc, là tâm lí, nếp tư duy, là phong tục tập quán,
là hình thức nghệ thuật truyền thống” [31]. Bởi vậy, việc nghiên cứu bản sắc
văn hoá dân tộc có một vai trò rất quan trọng đối với sự trường tồn của một dân
tộc đó. Đánh mất giá trị vật chất, ta có thể tái tạo và sáng tạo được nhưng đánh
mất bản sắc văn hoá thì có nghĩa ta ta đánh mất chính dân tộc, tổ tiên của mình
đồng thời đánh mất chính mình. Bởi vậy, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII đã khẳng định vai trò của việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc: “Mọi hoạt động văn hoá văn nghệ phải nhằm xây
dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng
môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển của xã hội. Kế thừa và phát
huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của
dân tộc”.
Nhìn chung, việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa vô cùng lớn
lao đối với việc hình thành tâm hồn, tính cách của mỗi dân tộc. Vì thế, nó có
vai trò quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nhà văn Ma Trường
Nguyên cho rằng bản sắc văn hoá các dân tộc có vai trò làm “nền tảng, làm
điểm xuất phát, để xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
sắc dân tộc, cũng chính là tạo ra một đời sống tinh thần lành mạnh, một môi
trường văn hoá dân tộc phong phú để phục vụ, nuôi dưỡng con người có cốt
cách tâm hồn, bản lĩnh Việt Nam đủ sức đề kháng chống lại các loại văn hoá
lai căng, độc hại nhằm xây dựng con người Việt Nam mới ngang tầm với thời
đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước” [ 30, tr.76 ].
1.1.2. Bản sắc văn hoá dân tộc trong sáng tác văn học
Văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Vì vậy, văn học nghệ

thuật cũng là một trong những bộ phận cấu thành và có vị trí quan trọng trong
nền văn hoá của một dân tộc. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học là mối quan
hệ giữa cái tổng thể và bộ phận. Bởi vậy, khi nghiên cứu văn học, ta không thể
tách rời với yếu tố văn hoá. Hiện thực cuộc sống và nền văn hoá dân tộc là
mảnh đất ươm mầm cho văn học nảy nở, mang lại cho văn học một sức sống
riêng. Ngược lại, văn học sẽ tôn tạo, bổ sung các giá trị văn hoá, bồi đắp cho
nền văn hoá ấy phong phú, sâu sắc hơn và ngày càng đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì thế, để hiểu sâu giá trị tư tưởng của một tác phẩm văn học, chúng ta không
thể không quan tâm đến yếu tố văn hoá giao thoa trong tác phẩm đó: “Nghiên
cứu văn hoá không thể không quan tâm đến văn học, “văn học là sự tự ý thức
của văn hoá”, văn học có vai trò to lớn trong việc phản ánh các vấn đề đời sống
từ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức, pháp luật, triết học…đến tư
tưởng, tình cảm tâm hồn, ý chí, khát vọng…của con người. Ngược lại, muốn hiểu
sâu và hiểu đúng một tác phẩm văn học cũng không thể bỏ qua yếu tố văn hoá
như một cơ sở quan trọng làm nên hồn cốt của tác phẩm.” [29, tr.11]. Như vậy,
nghiên cứu văn học ở phương diện văn hoá góp phần giải mã giá trị của tác phẩm
văn học, làm phong phú hơn cho tình cảm thẩm mỹ của người đọc.
Chúng ta biết rằng tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của người
nghệ sĩ - một chủ thể sáng tạo cụ thể và là người con của một cộng đồng dân
tộc nhất định. Vì vậy, người nghệ sĩ ấy được nuôi dưỡng, tắm mình trong suối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
nguồn trong mát của nền văn hoá dân tộc mình. Sáng tác văn học của bất kì nhà
văn nào cũng ít nhiều phảng phất hơi thở của phong tục, tập quán, sinh hoạt,
tâm lí, tính cách của một dân tộc nhất định. “Đọc sáng tác của một dân tộc, ta
như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của một thế giới riêng”
[17, tr.102]. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ, có sự thống nhất của
hai yếu tố nội dung và hình thức. Vì vậy, bản sắc văn hoá dân tộc cũng thể hiện
ở các phương diện cụ thể của nội dung và hình thức với các mức độ khác nhau.

Trước hết, bản sắc dân tộc biểu hiện ở nội dung của tác phẩm văn học.
Qua đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học, nhà văn muốn thể hiện cách nhìn,
cách cảm của con người đồng bào mình trước hiện thực cuộc sống. Đề tài là
phạm vi hiện thực cuộc sống được miêu tả, phản ánh trong tác phẩm. Vì thế có
ý kiến cho rằng: “Tính dân tộc chân chính không ở chỗ miêu tả cái áo xarafan
( áo dài không có tay của phụ nữ nông thôn Nga – T.Đ.S ) mà ở ngay trong tinh
thần của dân tộc mình, nhân dân mình, cảm thấy và phát biểu theo lối mà đồng
bào ông đang cảm thấy và phát biểu” [16, tr.103]. Viết về thiên nhiên Việt
Nam, Nguyễn Khuyến yêu tha thiết mùa thu đồng bằng Bắc Bộ với hình ảnh ao
thu tĩnh lặng, bầu trời xanh ngắt, ngõ trúc quanh co:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
(Câu cá mùa thu )
Còn nhà thơ Nguyễn Duy lại ấn tượng với vẻ đẹp của một loài cây rất
mộc mạc, bình dị - một loài cây được coi là biểu tượng cho tâm hồn, ý chí của
dân tộc. Đó là cây tre Việt Nam:
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Tự ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu…”
(Tre Việt Nam )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Không chỉ viết về thiên nhiên mới mang màu sắc dân tộc mà ngay cả vẻ
đẹp tâm hồn con người cũng tiêu biểu cho tính cách của một dân tộc nhất định.
Nói đến người phụ nữ Việt Nam là ta nhớ ngay đến đức hy sinh, lòng thuỷ

chung, nhân hậu và vị tha. Hồ Xuân Hương đã ngợi ca lòng thuỷ chung son sắt
trong mọi hoàn cảnh của người phụ nữ Việt Nam:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
(Bánh trôi nước)
Bản sắc dân tộc không chỉ thể hiện ở đề tài mà còn bộc lộ qua chủ đề và
tư tưởng của tác phẩm văn học. Chủ đề thể hiện bản sắc tư duy, chiều sâu tư
tưởng và khả năng thâm nhập của nhà văn trong quá trình khám phá hiện thực
đời sống. Qua những tác phẩm văn học ở từng thời kì, ta hiểu được những giá
trị văn hoá, tư tưởng của mỗi thời đại khác nhau. Nhà văn của bất kì nền văn
học nào cũng luôn quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình. Nói
đến truyền thống của dân tộc Việt Nam, ta không thể không nói đến chủ đề yêu
nước chống ngoại xâm. Đây cũng nguồn mạch cảm hứng vô tận song hành
cùng bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ngay từ những
sáng tác văn học dân gian, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta đã thấm
đẫm trong từng câu chuyện truyền thuyết, từng lời ca dao. Ta quên sao được
hình ảnh cậu bé Thánh Gióng lên ba mà vẫn chưa biết nói nhưng rồi tiếng nói
đầu tiên lại là tiếng nói giết giặc cứu nước đầy xúc động. Đến thời kì Văn học
trung đại, tinh thần yêu nước lại cháy bỏng thiết tha trong những áng văn
chương bất hủ như Nam quốc sơn hà thời Lí, Hịch tướng sĩ (Trần Quốc
Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ
Lão) thời Trần, Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) …
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Bên cạnh chủ nghĩa yêu nước thì chủ nghĩa nhân đạo cũng là nội dung có
tính truyền thống của nền văn học nước ta. Con người Việt Nam vốn giàu tình
yêu thương và luôn trọng nghĩa tình. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định,

văn học đã lên tiếng bênh vực, xót xa, thông cảm cho nỗi khổ của con người.
Đọc những sáng tác của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, ta cảm nhận được nỗi
khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bản sắc dân tộc không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn thể hiện ở các yếu
tố hình thức của tác phẩm. Một trong những phương tiện giúp nhà văn chuyển
tải tốt nhất điệu hồn của dân tộc chính là ngôn ngữ. Bản thân ngôn ngữ mang
trong nó đặc điểm truyền thống văn hoá của một dân tộc vì nó vừa là sản phẩm
vật chất vừa là sản phẩm tinh thần của dân tộc ấy. Mỗi nhà văn đều gắn bó với
miền quê yêu dấu và họ am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của dân tộc. Vì vậy, qua việc
nhà văn sử dụng tiếng mẹ đẻ, cách diễn đạt, thành ngữ, tục ngữ… của dân tộc
mình, ta cũng hiểu được cách cảm, cách nghĩ của dân tộc đó. Với chiếc chìa
khoá ngôn ngữ của một dân tộc, ta có thể hiểu được thế giới tâm linh, bản chất
tinh thần của dân tộc ấy. Nhưng không phải cứ sử dụng ngôn ngữ dân tộc là đã
có bản sắc dân tộc. Điều quan trọng là nhà văn hiểu sâu về tâm hồn, tính cách
của dân tộc mình để thổi hồn vào trang văn: “Tuy nhiên, việc nâng cao tính
chất dân tộc miền núi cho ngôn ngữ văn học không đơn giản chỉ là chêm cài
tục ngữ, thành ngữ dân tộc hay cách diễn đạt của người dân tộc thiểu số vào
lời văn, càng không phải là hành động trang sức lộ liễu bằng nguyên bản tiếng
địa phương do một số người viết đã làm và đã bị phê phán. Điều quan trọng là
thấu tỏ được nếp tư duy và điệu hồn của mỗi tộc nguời” [26, tr.133].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Bên cạnh đó, tính dân tộc còn thể hiện ở sự vận dụng hệ thống kết cấu và
thể loại truyền thống. Nước ta vốn có truyền thống thơ ca lâu đời, văn xuôi ra
đời muộn hơn nhưng sớm đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Tuy nhiên, văn xuôi

dân tộc thiểu số còn trẻ hơn nữa. Trong văn xuôi dân tộc thiểu số, truyện ngắn
và tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ hơn cả. Hình thức thể loại này nảy nở trên
nền tảng của truyện cổ dân gian. Vì thế kết cấu của văn xuôi dân tộc thiểu số
thường là kết thúc có hậu. Người xưa luôn tin rằng “ở hiền gặp lành”, cái thiện
chiến thắng cái ác và đó là chỗ dựa tinh thần để nhân dân vượt qua những khó
khăn, bão táp của cuộc sống. Như vậy, kết cấu cũng thể hiện đuợc tư duy và
quan niệm nhân sinh truyền thống của một dân tộc.
Mặt khác, nhân vật cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
thể hiện bản sắc văn hoá của một dân tộc. Nhân vật là phương tiện nghệ thuật
trong văn học nhằm khái quát hiện thực cuộc sống, khái quát tính cách con
người và gửi gắm quan niệm về con người của nhà văn. Vì vậy, nhân vật văn
học là linh hồn của tác phẩm văn học, là nơi quy tụ những ý đồ tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn. Qua nhân vật, ta hiểu được tâm lí, tính cách và vẻ đẹp con
người của một dân tộc nhất định. Bản sắc dân tộc trong văn học thường bộc lộ
trực tiếp qua nhân vật chính diện bởi đó là kiểu nhân vật đại diện cho lí tưởng
thẩm mĩ của nhà văn, của thời đại, của một dân tộc nhất định.
Tóm lại, bản sắc dân tộc là một phương diện quan trọng của tác phẩm
văn học. Nó không phải là thuộc tính mà là phẩm chất của tác phẩm văn học.
Bản sắc dân tộc trong văn học được thể hiện cụ thể ở hai phương diện nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm văn học. Nếu nhà văn không sống hết mình với
cuộc sống của đồng bào mình, đất nước mình thì khó mà bắt rễ sâu vào những
mạch ngầm của dòng chảy văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Quá trình
sáng tạo nghệ thuật luôn đòi hỏi sự khám phá tìm tòi độc đáo, mới mẻ. Phải
đắm mình trong cội nguồn văn hoá của mỗi dân tộc, nhà văn mới có thể sáng
tạo nên những áng văn chương đậm đà cốt cách của dân tộc mình. Đó vừa là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
trách nhiệm, vừa là vinh dự của mỗi nhà văn. Họ phải luôn ý thức được mình là
người giữ lửa và trao truyền ngọn lửa văn hoá tinh thần cho hôm nay và hậu

thế. Bởi đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc cũng là đánh mất mình trong nhân
loại. Vì vậy các nhà văn dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng quan trọng đối với
việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc: “Việc thể hiện bản sắc dân tộc trong văn
học là sự phấn đấu tự giác của nhà văn. Nó đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao và
sự tìm tòi sáng tạo không mệt mỏi của mỗi nhà văn dân tộc. Nó không chỉ đòi
hỏi người viết có tâm huyết, có tình cảm sâu nặng với dân tộc mình, có vốn
sống phong phú, có một chiều sâu tư tưởng cần thiết mà còn phải thực sự có tài
năng” [33, tr.20].
1.1.3. Bản sắc văn hoá dân tộc Mường
Như bao dân tộc khác trên dải đất hình chữ S của nước Việt Nam đều có
một gương mặt văn hoá riêng thì dân tộc Mường cũng có một nền văn hoá độc
đáo. Dân tộc Mường là một trong 53 dân tộc ít người ở Việt Nam. Người
Mường sinh sống ở nhiều tỉnh thành trên đất nước ta và cư trú đông nhất ở các
tỉnh: Hoà Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La, Ninh Bình, Thanh Hoá. Dân tộc
Mường có một nền văn hoá riêng và tương đối đặc sắc. Bản sắc văn hoá
Mường thể hiện rõ trong các lễ hội, trang phục, tín ngưỡng dân gian, cấu trúc
nhà ở, văn nghệ dân gian (các bài xường, các nghi lễ mo, âm thanh tiếng cồng
chiêng trong lễ hội mùa xuân…).
Tác giả Vương Anh trong công trình nghiên cứu Tiếp cận với văn hoá
bản Mường đã khái quát những phạm vi thể hiện cụ thể của văn hoá Mường
thành bốn phương diện: Văn hoá sản xuất bao gồm các hoạt động kinh tế
truyền thống; Văn hoá bảo đảm đời sống bao gồm các nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi
lại; Văn hoá chuẩn mực xã hội - hệ thống phong tục tập quán, quan hệ ứng xử
trong gia đình và ngoài xã hội; Văn hoá nhận thức – nhìn vào kho tàng tri thức
dân gian xung quanh tự nhiên và xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Trước hết, tín ngưỡng dân gian Mường có những nét độc đáo riêng.

Người Mường đã xác lập một tín ngưỡng bản địa đa thần, nặng về thần tự
nhiên. Họ có các tục thờ: thờ Mó nước, thờ chủ đất, thờ động vật, tục thờ cây,
tục thờ tổ tiên. Đặc biệt, trong tục thờ cây thì cây si được người Mường sùng
bái nhất, đó là loại cây thần - loại cây sinh ra trời đất và muôn loài. Ngoài ra,
khi nói đến tín ngưỡng của người Mường, chúng ta không thể không nói đến
nghi lễ Mo trong đời sống tinh thần của họ: “Đối với người Mường thì “mo”
theo nghĩa của động từ có nghĩa là xướng lên theo những làn điệu nhất định
những bài cúng, những khúc mo nhòm, những cát mo kể trong các nghi lễ phục
vụ đời sống của từng gia đình và cộng đồng” [34, tr.31]. Mo Mường được chia
thành ba loại: thể loại mo nghi thức, thể loại mo kể, thể loại mo nhòm. Ông Mo
có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của người Mường.
Mỗi bản Mường đều có ít nhất một gia đình làm mo từ đời này qua đời khác để
đảm bảo công việc nghi lễ tín ngưỡng, tâm linh cho mường bản. Ông Mo là yếu
nhân có vai trò thông quan với những lực lượng siêu nhiên mà con người tin
rằng có liên quan đến cuộc sống của họ. Vì thế ông Mo là người thực hiện lễ
cúng các thần linh cũng như những lực lượng siêu nhiên khác. Nhìn chung, Mo
Mường cũng là một nét đặc sắc trong văn hoá dân tộc Mường: “Ông Mo là nội
dung trong cái gọi là “bản sắc văn hoá truyền thống” của người Mường. Ông
Mo vẫn đang có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người Mường
và sẽ còn tồn tại cùng với niềm tin và tín ngưỡng Mo là một phần quan trọng
trong đời sống dân Mường” [34, tr.99].
Nói đến bản sắc văn hoá Mường, chúng ta không thể chỉ nói đến Mo
Mường mà không nói đến điệu hát xường ru. Theo nghĩa rộng, “Xường là làn
điệu tiêu biểu chủ yếu của dân ca Mường, bao gồm cả xường chúc, xường kể,
xường sắc bùa, xường giao duyên v.v…thường được hát trong những dịp vui
như mừng nhà mới, chúc mừng đầu xuân, trong các cuộc hát đối đáp giao
duyên” [14, tr.12]. Còn theo nghĩa hẹp, “xường là lối hát giao duyên của người

×