Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

nghiên cứu đặc điểm tái sinh dưới tán rừng trồng tại xã thanh tương, huyện na hang, tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 93 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






MA A SIM



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH DƢỚI TÁN RỪNG
TRỒNG TẠI XÃ THANH TƢƠNG, HUYỆN NA HANG,
TỈNH TUYÊN QUANG





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC









THÁI NGUYÊN - 2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






MA A SIM



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH DƢỚI TÁN RỪNG
TRỒNG TẠI XÃ THANH TƢƠNG, HUYỆN NA HANG,
TỈNH TUYÊN QUANG


Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Đồng Tấn





THÁI NGUYÊN - 2013



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này do tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Lê Đồng Tấn. Các tài liệu tham khảo
dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời
gian, địa điểm công bố. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực. Nếu sai tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm.


XÁC NHẬN
CỦA KHOA CHUYÊN MÔN

Thái Nguyên, ngày 19 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn




Ma A Sim









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn
tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tác giả đã nhận được sự
quan tâm, động viên của nhiều cá nhân và tập thể. Qua đây, tác giả xin bày tỏ
lòng cảm ơn sâu sắc đến:
- Quý thầy, cô giáo trong Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Sinh,
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên; quý thầy, cô giáo của Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Công nghệ Sinh học đã tạo cho tác giả
có môi trường học tập, nghiên cứu khoa học tốt nhất.
- TS. Lê Đồng Tấn - người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp
đỡ, đem lại những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
- Các cơ quan, ban ngành của tỉnh Tuyên Quang và một số hộ dân trồng
rừng trên địa bàn nghiên cứu đã giúp đỡ cho tác giả trong việc thu thập số liệu
phục vụ quá trình nghiên cứu.
- Ban giám hiệu, Khoa Khoa học Tự nhiên - Kỹ thuật và Công nghệ,
trường Cao đẳng Tuyên Quang đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong
công tác cũng như trong học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
- Gia đình, bạn bè luôn động viện, khích lệ tác giả trong quá trình thực

hiện luận văn.
Do còn hạn chế về thời gian và kinh nghiệm, chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô giáo, các nhà khoa học cùng bạn bè, đồng nghiệp để luận văn này được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 19 tháng 8 năm 2013
Tác giả





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
Ma A Sim

MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình vi
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3

3. Đóng góp mới của luận văn 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Một số khái niệm về tái sinh rừng 4
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới 6
1.2.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng 6
1.2.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng 10
1.2.3. Những nghiên cứu về phục hồi rừng 14
1.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam 17
1.3.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng 17
1.3.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng 20
1.3.3. Những nghiên cứu về phục hồi rừng 23
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI Ở XÃ
THANH TƢƠNG, HUYỆN NA HANG, TỈNH TUYÊN QUANG 28
2.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 28
2.1.1. Vị trí địa lý, địa hình 28



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.1.2. Chế độ khí hậu, thủy văn 29
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên 29
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 31
2.2.1. Đặc điểm về dân số và lao động 31
2.2.2. Tình hình phát triển kinh tế 31
2.2.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội 33
2.2.4. Tình hình hoạt động lâm nghiệp trong những năm qua 34
Chƣơng 3 .MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 36

3.1. Mục tiêu nghiên cứu 36
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 36
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu 36
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu 36
3.3. Nội dung nghiên cứu 36
3.3.1. Nghiên cứu hiện trạng và một số đặc điểm rừng trồng tại xã Thanh Tương 36
3.3.2. Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến tái sinh tự nhiên dưới tán
rừng trồng tại xã Thanh Tương 36
3.3.3. Nghiên cứu năng lực tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng tại xã Thanh Tương 36
3.3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự nhiên
dưới tán rừng trồng xã Thanh Tương 37
3.4. Phương pháp nghiên cứu 37
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 37
3.4.2. Phương pháp điều tra trong nhân dân 38
3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 38
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41
4.1. Hiện trạng và một số đặc điểm rừng trồng tại xã Thanh Tương,
huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang 41
4.1.1. Điều tra thống kê các trạng thái rừng trồng tại xã Thanh Tương 41



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
4.1.2. Đặc trưng về cấu trúc các loại rừng trồng tại xã Thanh Tương 42
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng tại
xã Thanh Tương 43
4.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa hình 43
4.2.2. Ảnh hưởng của cấu trúc rừng 46

4.2.3. Ảnh hưởng của mức độ thoái hoá đất 47
4.2.4. Tác động của con người 50
4.3. Năng lực tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng tại xã Thanh Tương 52
4.3.1. Đặc điểm tổ thành loài cây tái sinh 52
4.3.2. Chất lượng cây tái sinh 54
4.3.3. Nguồn gốc cây tái sinh 56
4.3.4. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao 57
4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự nhiên
dưới tán rừng trồng tại xã Thanh Tương 60
4.4.1. Giải pháp lâm sinh 60
4.4.2. Giải pháp về chính sách 63
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 65
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
PHỤ LỤC




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1.
D

1.3

Đường kính ngang ngực
2.
H
VN

Chiều cao vút ngọn
3.
H
DC

Chiều cao dưới cành
4.
OTC
Ô tiêu chuẩn
5.
ODB
Ô dạng bản



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Một số đặc điểm của tầng cây gỗ tại khu vực nghiên cứu 42
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của vị trí địa hình đến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng

trồng tại khu vực nghiên cứu 44
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của độ tàn che đến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng
trồng tại khu vực nghiên cứu 47
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của sự thoái hóa đất đến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng
trồng tại khu vực nghiên cứu 48
Bảng 4.5. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo lá tràm 52
Bảng 4.6. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng Mỡ 53
Bảng 4.7. Tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng trồng hỗn giao (Keo lá
tràm + Mỡ) 54
Bảng 4.8. Chất lượng cây tái sinh dưới tán rừng trồng tại khu vực nghiên cứu . 55
Bảng 4.9. Nguồn gốc cây tái sinh tại khu vực nghiên cứu 57
Bảng 4.10. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao tại khu vực nghiên cứu 57



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 4.1. Chất lượng cây tái sinh dưới tán rừng trồng Mỡ tại khu vực
nghiên cứu 55
Hình 4.2. Chất lượng cây tái sinh dưới tán rừng trồng Keo lá tràm tại khu
vực nghiên cứu 56
Hình 4.3. Chất lượng cây tái sinh dưới tán rừng trồng hỗn giao (Keo lá tràm + Mỡ)
tại khu vực nghiên cứu 56
Hình 4.4. Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao dưới tán rừng Mỡ tại
khu vực nghiên cứu 58
Hình 4.5. Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao dưới tán rừng Keo lá

tràm tại khu vực nghiên cứu 59
Hình 4.6. Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao dưới tán rừng hỗn
giao (Keo lá tràm + Mỡ) tại vùng nghiên cứu 59




1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Rừng là một trong những nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo quý giá
nhất của đất nước ta. Rừng tham gia vào quá trình điều hòa khí hậu, duy trì tính
ổn định và độ màu mỡ của đất, ngăn chặn xói mòn đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán
làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, góp phần bảo tồn nguồn
nước mặn và nước ngầm.
Nếu trên thế giới trong vòng 300 năm qua đã khai thác mất 2/3 diện tích
rừng thì ở Việt Nam tài nguyên rừng bị giảm đi 1/2 chỉ trong vòng 50 năm.
Diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam bị suy giảm một cách nhanh chóng từ
14,3 triệu ha năm 1945 tương ứng độ che phủ 43% đến năm 1995 chỉ còn 8,25
triệu ha rừng tự nhiên và 1,05 triệu ha rừng trồng tương ứng độ che phủ 28%.
Cùng với diện tích rừng bị mất, chất lượng rừng còn lại cũng giảm sút; trữ
lượng rừng thấp, nhiều loài cây gỗ quý trở nên hiếm, nhiều động thực vật có
nguy cơ tuyệt chủng; khả năng cung cấp của rừng không đáp ứng được yêu cầu
ngày càng tăng của xã hội; năng lực phòng hộ của rừng cũng bị hạn chế, thiên
tai bão lụt ngày càng nghiêm trọng.
Sớm nhận thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên rừng với hy
vọng phục hồi lại cân bằng sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần vào
việc làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều

hành động nhằm quản lý bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng, nhiều
chương trình trồng rừng bằng nguồn vốn Nhà nước và hỗ trợ của các tổ chức
Quốc tế được thực hiện như: Các dự án trồng rừng mới, bảo vệ rừng, xúc tiến
tái sinh rừng, khoanh nuôi rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, v.v nhờ đó mà diện
tích rừng đã tăng lên đáng kể (năm 2011 độ che phủ là 40,2%), đặc biệt là diện
tích rừng trồng trong đó có cả rừng sản xuất, rừng trồng đặc dụng, rừng trồng
phòng hộ. Tuy nhiên, trồng rừng còn chú ý nhiều đến việc trồng thuần một loài
cây hoặc trồng các loài cây bản địa có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện
và khí hậu của địa phương.


2
Na Hang là huyện vùng cao nằm ở phía bắc của tỉnh Tuyên Quang, có
75.027 ha rừng, trong đó có 31.084 ha rừng nguyên sinh, thảm thực vật tương
đối dày đặc, độ che phủ 83,6% diện tích tự nhiên. Đặc biệt, Na Hang có khu
bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung (nay được gọi là rừng đặc dụng Na
Hang) bao gồm 4 xã là Thanh Tương, Sơn Phú, Khau Tinh và Côn Lôn, với
khoảng 68% diện tích là rừng ẩm nhiệt đới vẫn còn tình trạng nguyên sinh hoặc
chỉ thay đổi chút ít bởi sự tác động của con người. Trong đó, có khoảng 70% là
rừng trên núi đá vôi nằm trong hệ sinh thái rừng cận nhiệt đới Bắc Đông
Dương. Tại đây xác định được trên 2.000 loài thực vật, trong đó có nhiều loài
được ghi vào sách đỏ Việt Nam như: Trai (Garcinia fragraeoides), Mun (Diospyrus
mollis), Lát hoa (Chukrasiatabularis A. juss), Nghiến (Burretiodendron hsienmu),
Đinh (Markhamia stipulata), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Hoàng đàn,
Trầm gió, v.v Bên cạnh đó còn có 263 loài chim, 61 loài bò sát, 35 loài ếch
nhái và 90 loài thú, đặc biệt có 13 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam như:
Voọc mũi hếch, Voọc đen má trắng, Gấu ngựa, v.v
Thanh Tương là một trong bốn xã thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ -
Bản Bung của huyện Na Hang, phía Đông giáp xã Yên Thịnh, huyện Chợ Đồn,
tỉnh Bắc Kạn; phía Bắc giáp thị trấn Na Hang; phía Nam giáp xã Yên Lập,

huyện Chiêm Hoá; phía Tây giáp xã Năng Khả của huyện Na Hang, có tổng
diện tích đất tự nhiên là 10.653,65 ha, diện tích đất lâm nghiệp là 9.536,59 ha,
chiếm 89,51% diện tích đất tự nhiên của toàn xã, trong đó diện tích đất có rừng
9.536,59 ha: đất rừng đặc dụng: 3.977,6 ha; đất rừng phòng hộ: 3.380,83 ha;
đất rừng sản xuất: 2.178,16 ha, trong đó đất có khả năng trồng rừng sản xuất
298,47 ha, độ che phủ của rừng đạt 87,1 %. Điều kiện tự nhiên thích hợp với
nhiều loại cây trồng và thuận lợi cho phát triển nghề rừng. Tuy nhiên, rừng
trồng ở khu vực xã Thanh Tương chủ yếu là cây Mỡ, Keo lá tràm, Lát hoa nên
cấu trúc rừng còn đơn điệu, chất lượng rừng và tính đa dạng sinh học không
cao. Thực tế, để cải tạo rừng trồng đặc dụng bằng cách trồng mới một số loài
cây bản địa tạo ra hệ sinh thái đa dạng về thành phần loài thì rất khó khăn, tốn


3
kém do nguồn kinh phí phục vụ cho công tác bảo vệ và phát triển trồng rừng
còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu, đánh giá thành phần
loài, tính đa dạng thực vật tại Na Hang diễn ra tương đối mạnh mẽ nhưng các
công trình đó mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa nghiên cứu sâu về đặc
điểm tái sinh, sự phân bố và giá trị của từng loài, từng họ. Nhằm cung cấp thêm
những cơ sở khoa học về chuyển hóa rừng trồng thành rừng gần giống với rừng
tự nhiên có tính bền vững của hệ sinh thái đáp ứng được mục tiêu của rừng đặc
dụng và gắn liền với mục tiêu du lịch sinh thái, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh dƣới tán rừng trồng tại xã Thanh
Tƣơng, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang”
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đánh giá năng lực tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng làm cơ sở khoa
học cho việc chuyển đổi rừng trồng thuần loài thành rừng hỗn loài đa tầng nhằm
tăng cường tính đa dạng thực vật và nâng cao tính bền vững của hệ sinh thái

rừng. Góp phần làm cơ sở khoa học cho việc khoanh nuôi, phục hồi và phát
triển rừng tự nhiên.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc xác định được hiện trạng và một số đặc điểm cấu trúc rừng trồng
ở khu vực nghiên cứu là cơ sở cho việc xác định, lựa chọn các giải pháp kỹ
thuật lâm sinh xúc tiến tái sinh tự nhiên nhằm chuyển hóa rừng trồng thành
rừng gần giống với rừng tự nhiên.
3. Đóng góp mới của luận văn
Xác định được đặc điểm cấu trúc về tổ thành loài cây tái sinh, mật độ cây
tái sinh và phân tích được một số nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tái sinh tự
nhiên ở một số trạng thái rừng trồng tại vùng nghiên cứu.



4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số khái niệm về tái sinh rừng
Tái sinh rừng (Foresty regeneration) là một thuật ngữ được nhiều nhà
khoa học sử dụng để mô tả sự tái tạo (phục hồi) của lớp cây con dưới tán rừng.
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây
con của những loài cây gỗ ở các nơi có hoàn cảnh rừng (hoặc mất rừng chưa
lâu): Dưới tán rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau
đốt nương làm rẫy, v.v Vai trò lịch sử của thế hệ cây con là thay thế thế hệ
cây gỗ già cỗi. Theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi lại thành
phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Sự xuất hiện lớp cây con là nhân
tố mới làm phong phú thêm số lượng và thành phần loài trong quần lạc sinh vật
(thực vật, động vật, vi sinh vật), đóng góp vào việc hình thành tiểu hoàn cảnh

rừng và làm thay đổi cả quá trình trao đổi vật chất và năng lượng diễn ra trong
hệ sinh thái. Do đó, tái sinh rừng có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của
một hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng thúc đẩy việc hình thành cân bằng sinh học
trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại liên tục và do đó bảo đảm cho việc sử
dụng rừng thường xuyên.
Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài cây tái sinh, điều kiện địa
lý và tiểu hoàn cảnh rừng là cơ sở tự nhiên quan trọng có tác dụng quyết định,
chi phối sự hình thành lên những quy luật tái sinh rừng. Ở các vùng tự nhiên
khác nhau, tái sinh rừng diễn ra theo các quy luật khác nhau. Những kiến thức
về sinh thái, tái sinh rừng bao gồm mối quan hệ giữa loài cây tái sinh với hoàn
cảnh sinh thái, đặc biệt là tiểu hoàn cảnh rừng, mối quan hệ sinh vật trong hệ
sinh thái rừng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu quy luật tái sinh, trong
từng loại rừng cụ thể và là cơ sở khoa học quan trọng cho việc đề xuất các biện
pháp tái sinh rừng có hiệu quả. Xét về bản chất sinh học, tái sinh rừng diễn ra


5
dưới ba hình thức: Tái sinh hạt, tái sinh chồi, tái sinh thân ngầm (các loài tre
nứa). Trong đó, tái sinh hạt là quá trình mà thế hệ các cây rừng mới được hình
thành từ các hạt giống. Quá trình tái sinh hạt phải trải qua 3 giai đoạn: Ra hoa
kết quả; phân tán hạt giống; hạt giống nảy mầm và sinh trưởng của cây tái sinh.
Tái sinh chồi là quá trình vô tính cây con được phát triển từ một phần của cây
mẹ. Tái sinh thân ngầm là trường hợp các cây con được phát triển từ thân ngầm.
Đứng trên quan điểm triết học, tái sinh rừng là một quá trình phủ định
biện chứng: Rừng non hay thay thế rừng già trên cơ sở được thừa hưởng hoàn
cảnh thuận lợi do thế hệ rừng ban đầu tạo nên.
Đứng trên quan điểm chính trị kinh tế học, tái sinh rừng là quá trình tái
sản xuất mở rộng tài nguyên rừng. Đương nhiên, điều kiện này chỉ có thể trở
thành hiện thực khi ta nắm chắc được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính
xác, nhằm điều hoà và định hướng các quá trình tái sinh phục vụ mục tiêu kinh

doanh đã đề ra. Như vậy, tái sinh rừng không còn chỉ là tự nhiên, kỹ thuật mà
còn là vấn đề kinh tế - xã hội. (Sinh thái rừng - Hoàng Kim Ngũ - Phùng Ngọc
Lan, 1998) [31].
Trên thực tế tùy theo điều kiện tự nhiên, kinh tế và kỹ thuật có thể tiến
hành tái sinh rừng theo các phương thức thích hợp. Có 3 phương thức cơ bản để
tái sinh rừng là tái sinh tự nhiên, tái sinh nhân tạo và xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Tái sinh tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ cây rừng bằng con
đường tự nhiên, về cơ bản không có sự tác động của con người. Kết quả rừng
tái sinh phụ thuộc hoàn toàn vào các quy luật và điều kiện tự nhiên. Ưu điểm
của tái sinh tự nhiên là lợi dụng được nguồn giống tại chỗ và hoàn cảnh rừng
hiện có. Trong điều kiện rừng nhiệt đới, quá trình tái sinh tự nhiên ít đạt
được kết quả mong muốn. Tái sinh rừng tự nhiên sẽ không điều tiết được thành
phần loài cũng như mật độ cây phù hợp với yêu cầu kinh doanh và sử
dụng rừng.
Tái sinh nhân tạo là phương thức tái sinh có tác động trực tiếp của con
người từ gieo trồng chăma sóc để tạo rừng mới trên đất có rừng ưu điểm của


6
phương thức này là chủ động chọn loại cây trồng, điều khiển được tổ thành,
mật độ cây thích hợp cho mục đích của con người. Nhược điểm chính của nó là
đòi hỏi có điều kiện kinh tế kỹ thuật và nhân lực nên khó triển khai trên diện
tích lớn.
Xúc tiến tái sinh tự nhiên là phương thức trung gian giữa tái sinh nhân
tạo và tái sinh tự nhiên. Trong đó, tận dụng triệt để những ưu điểm của tái sinh
tự nhiên với sự tham gia tích cực của con người để tái sinh rừng đạt hiệu quả
cao hơn. Con người có thể can thiệp ở mức hướng dẫn tái sinh tự nhiên theo
mục đích mong muốn.
Theo Nguyễn Xuân Lâm (2000) Tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ
cây con của những loài cây gỗ ở dưới tán rừng hoặc trên đất rừng (sau khi làm

nương rẫy), thế hệ cây tái sinh này sẽ lớn dần lên thay thế thế hệ cây già [23].
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trong hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có
thể chung sống hài hoà và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai đoạn phát
triển nhất định của tự nhiên. Cấu trúc rừng vừa là kết quả vừa là sự thể hiện
quan hệ đấu tranh và thích ứng lẫn nhau giữa các sinh vật rừng với môi trường
sinh thái và giữa các sinh vật rừng với nhau.
1.2.1.1. Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái
học, hệ sinh thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho
hiệu quả sản xuất cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng người ta chia thành ba
dạng cấu trúc là cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian.
Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản
phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực
vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là


7
hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng. Thực
tế, cấu trức rừng nó có tính trật tự và theo quy luật của quần xã.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được
Richards P.W (1933-1934), Baur G.N (1962), Odum E.P (1971), v.v tiến
hành. Các nghiên cứu này thường nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định
tính về tổ thành, dạng sống và tầng phiến của rừng.
Theo Baur G.N (1962) [3] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái
học nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng,
trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt
lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó, tác giả này đã đưa ra những

tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh nhằm đem
lại rừng cơ bản là đều tuổi, rừng không đều tuổi và các phương thức xử lý cải
thiện rừng mưa.
Công trình nghiên cứu của Catinot R (1965) [6], Plaudy J đã biểu diễn
cấu trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc
sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng
phiến, v.v
Odum E.P (1971) [59] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ
sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P (1935). Khái niệm hệ
sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên
quan điểm sinh thái học.
1.2.1.2. Về mô tả hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành
phần sinh vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều đứng. Phương pháp vẽ biểu
đồ mặt cắt đứng của rừng do David và Richards P.W(1933 - 1934) đề xướng và
sử dụng lần đầu tiên ở Guyan, đến nay vẫn là phương pháp có hiệu quả để
nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm
là chỉ minh hoạ được cách sắp xếp theo hướng thẳng đứng của các loài cây gỗ


8
trong một diện tích có hạn. Cusen (1951) đã khắc phục bằng cách vẽ một số
giải kề bên nhau và đưa lại một hình tượng về không gian ba chiều.
Phương pháp biểu đồ trắc diện do David và Richards P.W (1933 - 1934)
đề xuất trong khi phân loại và mô tả rừng nhiệt đới phức tạp về thành phần loài,
cấu trúc thảm thực vật theo chiều nằm ngang và chiều thẳng đứng.
Richards P.W (1952) [61] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa
thành hai loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa
đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt thì rừng mưa
đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây. Cũng theo tác giả này thì rừng mưa

thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ).
Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân cỏ còn có
nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh
trên thân hoặc cành cây.
Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các
đặc trưng như: Cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng
suất thảm thực vật.
Ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX, Humboldt và Grisebach đã sử dụng dạng
sinh trưởng (toàn bộ hình thái hoặc cấu trúc và trạng thái của thực vật) của các
loài cây ưu thế và kiểu môi trường sống của chúng để biểu thị cho các nhóm
thực vật. Phương pháp hình thái của Humboldt và Grisebach được các nhà sinh
thái học Đan Mạch (Warming, 1904; Raunkiaer, 1934) tiếp tục phát triển.
Raunkiaer đã phân chia các loài cây hình thành thảm thực vật thành các dạng
sống và các phổ sinh học (phổ sinh học là tỉ lệ phần trăm các loài cây trong một
quần xã có các dạng sống khác nhau). Tuy nhiên, nhiều nhà sinh thái học cho
rằng phân loại hình thái, các phổ dạng sống của Raunkiaer kém ý nghĩa hơn các
dạng sinh trưởng của Humboldt và Grisebach. Trong các phương pháp phân
loại rừng dựa theo cấu trúc và dạng sống của thảm thực vật, phương pháp dựa
vào hình thái bên ngoài của thảm thực vật được sử dụng nhiều nhất.


9
Kraft (1884), lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng, ông chia
cây rừng trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng, kích
thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được tình hình
phân hoá cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng nhưng
chỉ phù hợp với rừng thuần loài đều tuổi.
Việc phân cấp cây rừng cho rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là một vấn
đề phức tạp, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra được phương án phân
cấp cây rừng cho rừng nhiệt đới tự nhiên mà được chấp nhận rộng rãi. Sampion

Gripfit (1948), khi nghiên cứu rừng tự nhiên Ấn Độ và rừng ẩm nhiệt đới Tây
Phi có kiến nghị phân cấp cây rừng thành 5 cấp cũng dựa vào kích thước và
chất lượng cây rừng. Richards P.W (1952) [61] phân rừng ở Nigeria thành 6
tầng dựa vào chiều cao cây rừng.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra
những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao
mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự
nhiên nhiệt đới.
1.2.1.3. Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã có từ lâu và được chuyển dần từ mô tả
định tính sang định lượng với sự hỗ trợ của thống kê toán học và tin học, trong
đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu
trúc rừng đã được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc
không gian và thời gian của rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều
nhất. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Rollet. B (1971), Brung
(1970), Loeth et al (1967), v.v rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cấu trúc
không gian và thời gian của rừng theo hướng định lượng và dùng các mô hình
toán để mô phỏng các quy luật cấu trúc. (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [13].
Rollet. B (1971) đã mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng các
hàm hồi qui, phân bố đường kính bằng các dạng phân bố xác suất. Nhiều tác


10
giả còn sử dụng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đường kính loài thông
theo mô hình của Schumarcher và Coil (Belly, 1973). Bên cạnh đó các dạng
hàm Meyer, Hyperbol, hàm mũ, Pearson, Poisson, v.v cũng được nhiều tác
giả sử dụng để mô hình hoá cấu trúc rừng.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc
phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái. Cơ sở phân

loại rừng theo xu hướng này là đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc
tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật rừng. Đại diện
cho hệ thống phân loại rừng theo hướng này có Humbold (1809), Schimper
(1903), Aubreville (1949), UNESCO (1973), v.v Trong nhiều hệ thống phân
loại rừng theo xu hướng này khi nghiên cứu ngoại mạo của quần xã thực vật đã
không tách rời khỏi hoàn cảnh của nó và do vậy hình thành một hướng phân
loại theo ngoại mạo sinh thái.
Khác với xu hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu
mô tả rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động,
Melekhov đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự biến
đổi của tổ thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau trong quá
trình phát sinh và phát triển của rừng.
Tóm lại, trên thế giới các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng
nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình
nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng.
1.2.2. Những nghiên cứu về tái sinh rừng
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi tổ thành loài cây, mật độ, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre.ad, 1930;
Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954;
Jones, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969). Do tính chất


11
phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong
thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng
mưa thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện

rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van Steenis J (1956) [62] đã nghiên cứu hai đặc
điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của
các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các
kiểu rừng. Từ đó, các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương
thức chặt tái sinh. Công trình của Bernard (1954, 1959); P.G Smith (1961,
1963) [60] với phương thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc
Borneo; Donis và Maudoux (1951, 1954) với công thức đồng nhất hoá tầng
trên ở Zaia; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới
tán ở Nigiêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao
vòm lá ở Andaman. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương
thức đối với tái sinh đã được Baur G.N (1964) [3] tổng kết trong tác phẩm: “Cơ
sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa”.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Aubreville (1938) nhận
thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Aubreville đã
khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết nên
lý luận bức khảm tái sinh nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị hạn chế.
Vì vậy, lý luận của ông ít sức thuyết phục chưa giúp ích cho các biện pháp kỹ
thuật điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
Tuy nhiên, những kết quả quan sát của David và Richards P.W (1933),
Bot (1946), Sun (1960), Role (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ lại khác hẳn với
nhận định của Aubreville. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các


12
loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong một thời
gian dài.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách
lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ô đo đếm

thông thường từ 1 - 4m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi trong điều tra
nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng.
Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950) đã đề nghị
một phương pháp "điều tra chuẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể
thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác
nhau. V.Gnexterov (1954,1960) đề nghị dùng 15 - 26 ô kích thước từ 1 - 2m
2
cho cây con tuổi nhỏ hơn 5 năm, 10 - 15 ô kích thước từ 4 - 5m
2
thống kê cây
con tuổi từ 5 - 10 năm. A.V.Pobedinxki (1961) đề nghị 25 ô dạng bản 1x1m
cho một khu tiêu chuẩn 0,5 - 1,0 ha. X.V.Belov (1983) nhấn mạnh phải áp dụng
thống kê toán học trong điều tra và đánh giá tái sinh rừng. Các phương pháp
thống kê đã được trình bày rõ trong các công trình của P.G.Smith (1967) và
V.I.Vasilevich. (dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2002) [46].
H. Lamprecht (1989) [57] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây
trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa
sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm
phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. Yurkevich I.D (1960) đã chứng minh độ
tàn che tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
Sự phân bố cây theo đường kính là cấu trúc cơ bản của lâm phần và cũng
được nhiều nhà lâm học quan tâm nghiên cứu. Đầu tiên, phải kể đến công trình
của Meyer (1952). Ông mô tả phân bố số cây theo đường kính bằng phương
trình toán học mà dạng của nó là một đường cong giảm liên tục. Phương trình
này được gọi là phương trình Meyer (hay hàm Meyer). Tiếp đó, nhiều tác giả đã
dùng phương pháp giải tích để tìm phương trình đường cong phân bố N/D của
lâm phần thuần loài đều tuổi như: M.Prodan và A.Ipalatscase (1964), Bill và



13
K.Aremken (1964) đã tiếp cận phân bố này bằng phương trình Logarit. Loetsch
(1973) dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm. J.L.F Batista và H.T.Z
Docouto (1992) trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt
đới ở Maranhoo - Brazil đã dùng hàm Weibull mô phỏng sự phân bố N/D (dẫn
theo Nguyễn Thanh Bình, (2003) [5].
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards P.W (1952), Bernard Rollet
(1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã
nhận xét: Trong các ô có kích thước nhỏ (1x1m; 1x1,5m) cây tái sinh tự nhiên
có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở Châu Phi trên cơ sở các
số liệu thu thập Taylor (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh
trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo.
Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu Á
như: Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định dưới tán rừng
nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các
biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn
dưới tán rừng. (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995) [8].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm
tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Baur G.N.
(1962) [3] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây
con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm ảnh hưởng này thường
không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái
sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng
vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và
mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế



14
thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp
thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng
phục hồi sau nương rẫy.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của
cây con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần
thụ, V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về
dinh dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không thuần nhất của
quan hệ qua lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện
sinh thái của quần thể thực vật. (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 2002) [41].
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những
quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây
bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng
kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều
kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất
lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973). (dẫn theo Nguyễn Văn
Thêm, 2002) [41].
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm
sáng tỏ đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây dựng
các phương thức lâm sinh hợp lý.
1.2.3. Những nghiên cứu về phục hồi rừng
Theo Trần Đình Lý (1995) [27] Phục hồi rừng là một quá trình tái tạo
một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu. Đó là một quá
trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một
thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán. Nói cách khác, phục hồi rừng được hiểu
là việc tái tạo lại rừng trên những diện tích đã bị mất rừng.



15
Để tái tạo lại rừng người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ
theo mức độ tác động của con người

là: Phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục
hồi tự nhiên và phục hồi tự nhiên có tác động của con người

(xúc tiến tái sinh).
Trên thế giới việc trồng rừng đã xuất hiện từ khá sớm và phát triển mạnh
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ngay sau chiến tranh thế giới thứ II kết
thúc, những nghiên cứu về trồng rừng đã phổ biến rộng rãi ở các nước XHCN
cũ như: Liên Xô, Tiệp Khắc, CHDC Đức. Một số nước Tây Âu như: Italia,
Pháp đã tiến hành trồng các loại Bạch dương sản lượng cao trong phạm vi lớn
và đã đạt 1/3 nhu cầu của công nghiệp giấy sợi. Các nước nhiệt đới và á nhiệt
đới rừng trồng đã hình thành ngay cả trên đất trước kia là đồi trọc do nhu cầu
của công nghiệp giấy và tính cấp bách phải bảo vệ môi trường [56],[58].
Mặc dù việc trồng rừng đang được các nước quan tâm và phát triển mạnh
mẽ đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Nhưng hiện nay vẫn còn có những ý kiến
khác nhau về trồng rừng.
Wadsworth (1960) khi nói về vai trò của rừng trong kinh doanh, ông đã
khẳng định trồng rừng thâm canh sẽ là nguồn cung cấp gỗ duy nhất có kinh tế ở
các miền nhiệt đới (Baur G.N, 1976 [3]).
Catinot R (1965) [6], cho rằng vùng nhiệt đới ẩm Châu Phi sau khi khai
thác có thể thay thế một quần thể rừng tự nhiên bằng rừng trồng mà vẫn mang
lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, tác giả lưu ý rằng cần phải nắm chắc kỹ thuật
lâm sinh thì quá trình thực hiện mới có hiệu quả. Collet J (1980) [11] cũng đưa
ra ý kiến tương tự.
Baur G.N (1976) [3], khẳng định việc trồng rừng là cần thiết để mang lại
hiệu quả cao trong kinh doanh rừng, nhưng nếu trồng rừng như của Wadsworth

(1960) thì chỉ là giải pháp trước mắt, còn về lâu dài thì phải dựa vào kiến thức
đúng đắn về sinh thái học của quần lạc đó.
Hội nghị Lâm nghiệp thế giới lần thứ 7 (10/1972) tại Buenos - Aires đã
khẳng định cần phải đẩy mạnh việc trồng rừng. Nhưng hội nghị cũng lưu ý là

×