Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.09 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
ARIXTOT – GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
Người thực hiện: ĐINH THẾ HƯNG
STT: 068
Lớp: K21 – Đêm 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HỒ CHÍ MINH, 02/2012
Mục lục
Phần mở đầu
Từ những ngày đầu, con người luôn tìm tòi và thắc mắc, luôn đặt ra những câu
hỏi nhằm làm rõ nguyên lý của các sự vật hiện tượng và cố gắng giải thích chúng.
Nhưng khi tri thức còn chưa phát triển, con người đã tự thỏa mãn mình bằng các câu
chuyện thần thoại mang nặng tính mê tín và ngây ngô buổi sơ khai. Thế nhưng với
những vấn đề lớn (vũ trụ, thiên hà) thì cần một trí tuệ lớn với sự tư duy sâu sắc. Và thế
là Triết học được hình thành, với việc đi nghiên cứu về mọi sự vật và con người với tư
cách là một chỉnh thể, tìm những quy luật chung chi phối sự vận động của chỉnh thể đó
và của xã hội loài người.
Theo các nhà nghiên cứu, Triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI-V
(BC), ở Hy Lạp cổ đại. Nhiều tư tưởng triết học đã hình thành và hoàn thiện với các
triết gia vĩ đại như Socrate, Platon… và đến Arixtot, bằng các nghiên cứu khoa học
sáng tạo và thực tiễn, ông đã làm một cuộc cách mạng thực sự cho triết học. Ông là
cha đẻ của nhiều học thuyết và nhiều ngành học có ảnh hưởng lớn cả đến nền triết học
suốt nhiều thế kỷ sau ông.
Cuộc đời của ông là một câu chuyện thú vị, bởi ngoài tư cách là một nhà khoa
học vĩ đại thời cổ, ông còn là một người học trò lớn của nhà triết học Platon và là một
người thầy, một người bạn tâm giao của nhà quân sự, chính trị lừng lẫy nhất thời bấy


giờ Alexander đại đế. Ông cũng để lại cho nhân loại nhiều câu nói mang tính triết lý
sâu sắc như: “Phải vui chơi mới trở thành nghiêm chỉnh”, “Một con én duy nhất không
làm nên mùa xuân; một hành động đạo đức duy nhất không làm nên đức hạnh”,
“Chính nhờ kinh nghiệm mà khoa học và nghệ thuật tiến bộ nơi con người”…
Bởi thế, bài tiểu luận với đề tài: “Những tư tưởng triết học của Aristotle – Giá
trị và hạn chế” cũng không ngoài mục đích muốn tìm hiểu, học hỏi và thể hiện lòng
yêu mến của người viết đối với các triết gia và sự minh triết của nhân loại.
Tuy nhiên với kiến thức ít ỏi về một môn học vô cùng mới mẽ và rộng lớn,
người viết cũng đã cố gắng trình bày những sự hiểu biết nhỏ nhoi của mình về triết gia
Arixtot và nền học thuật của ông trong các khía cạnh: vật lý học, nhận thức thuận,
logic học, nhân bản học, đạo đức học, chính trị - xã hội, thẩm mỹ học – kinh tế học và
Thuyết Nguyên Nhân.
Trang 1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTOT TRONG CÁC LĨNH
VỰC
1.1. Thuyết nguyên nhân – Cơ sở siêu hình học
Arixtot coi trọng vai trò của các khái niệm trong nhận thức, khẳng định đó là
phương tiện để nhận thức bản chất của tồn tại. Arixtot có nhiều điểm bất đồng với
Platon. Với phương châm “Platon là người thầy nhưng chân lí quý hơn” Arixtot phê
phán học thuyết duy tâm về các ý niệm:
- Thứ nhất, ông phản đối việc coi các ý niệm như một dạng tồn tại độc lập, tối
cao, còn mọi sự vật cảm tình của thế giới đều tồn tại ở cấp độ thấp hơn.
- Thứ hai, Arixtot phê phán việc chia rời thế giới ý niệm với thế giới hiện thực,
vì như vậy tức là biến các phạm trù, khái niệm thành những cái vô dụng đối với nhận
thức các sự vật. Theo Arixtot thì thế giới ý niệm phải thuộc về thế giới các sự vật.
- Thứ ba, Arixtot nhận thấy học thuyết của Platon có nhiều mâu thuẫn về mặt
logic. Một mặt, Platon phân biệt giữa các ý niệm, cho rằng các ý niệm chung nhất là
thực thể, bản chất của các ý niệm mang tính đặc thù hơn. Như vậy, sẽ dẫn đến nghịch
lí là: các ý niệm vừa là thực thể vừa không là thực thể. Mặt khác, Platon vừa khẳng
định các ý niệm hoàn toàn tách biệt với các sự vật cảm tính, đồng thời lại cho rằng các

sự vật đó là cái bóng của ý niệm là bản sao của chúng. Như vây là thừa nhận sự vật và
khái niệm dù sao cũng có điểm tương đồng nhất định. Từ mâu thuẫn logic trên đây,
Platon buộc phải thừa nhận sự tồn tại của một “thế giới thứ ba”giống với hai thế giới
kia và đứng lên trên chúng. Như vậy, mỗi người cụ thể chẳng hạn, để có thể biểu hiện
đúng bản chất với khái niệm con người của mình lại cần đến “con người thứ ba” làm
môi giới. Điều đó theo Arixtot là không thể chấp nhận được.
- Thứ tư, các ý niệm của Platon không thể là công cụ nhận thức thế giới vì
chúng tách rời với quá trình vận động, phát triển không ngừng của các sự vật.
Đối với Arixtot giới tự nhiên là đối tượng nghiên cứu của vật lý học. Đây cũng
là triết học nhưng là “triết học thứ hai” - nghiên cứu các dạng tồn tại cụ thể. Bởi vậy,
để khám phá bản chất tồn tại đích thức nói chung, lí giải cụ thể các vấn đề về nguồn
gốc, bản chất của thế giới thì cần phải có “triết học thứ nhất” tức là “siêu hình học”.
Theo Arixtot “siêu hình học” là một khoa học ít nhiều mang tính thần thánh vì đối
tượng nghiên cứu của nó là “những cái thần thánh” trong đó có Thượng đế. Vì lí do
đó, đôi khi ông gọi triết học là thần học. [4;194-195]
Trang 2
Nếu như các khoa học khác nghiên cứu các sự vật của giới tự nhiên các dạng
tồn tại cụ thể đang vận động và biến đổi không ngừng, thì triết học thứ nhất nghiên
cứu những gì có tình chất vĩnh hằng trong thế giới hiện thực, vì thế nó là nền tảng của
mọi lĩnh vực thế giới quan khác của con người.
Theo Arixtot tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản là: hình dạng,
vật chất, vận động và mục đích. Chẳng hạn, cái nhà đã có được là nhờ hình dạng của
nó – tức ý tưởng, đồ án về cái nhà mà con người cần có trước khi xây dựng; vận động
– hoạt đồng của người thợ làm nhà; và mục đích của việc con người làm nhà. Như vậy,
bất kỳ sự vật nào cũng có 4 nguyên nhân trên thì mới có thể tồn tại được.
Trong đó nguyên nhân hình dạng là cơ bản nhất. Nó là thực chất của tồn tại, là
bản chất của sự vật. Bản thân nó đã bao hàm cả nguyên nhân vận động và mục đích.
Theo Arixtot, mọi vật trong thế giới chúng ta đều có thể vận động nhờ hình dạng vốn
rất tích cực của chúng. Ông khẳng định tính mục đích trong sự phát triển của mọi sự
vật, ông đã hiểu mục đích theo nghĩa khách quan hơn Platon. Trong suy nghĩ của ông,

mọi vật đều phát triển theo những trình tự, quy luật và xu hướng của chúng, tức là có
mục đích nhất định theo sự xếp đặt của thượng đế. Với việc thừa nhận nguyên nhân
mục đích trong sự phát triển của mọi vật, Arixtot đã làm cho quan niệm của ông về tồn
tại trở nên thần bí.
Trong hai nguyên nhân cơ bản của tồn tại – vật chất và hình dạng, thì Arixtot
coi hình dạng là nguyên nhân quan trọng hơn, bởi nó là bản chất của sự vật. Để xác
định bản chất của sự vật ông đưa ra hai tiêu chuẩn:
- Thứ nhất, vì mỗi vật bao giờ cũng thuộc về một loài. Do đó, bản chất phải là
cái được nhận thức trong khái niệm, tức là cái chung. Góc độ này ông hiểu bản chất
của sự vật thuộc về lĩnh vực tinh thần.
- Thứ hai, mỗi sự vật đều có đặc tính riêng của mình, do vậy bản chất phải là
cái riêng. Mà theo Arixtot cái riêng không thể biểu hiện được bằng khái niệm, không
đem lại cho chúng ta một tri thức đích thực nào cả vì khoa học là một tổng thể các tri
thức, khái niệm mang tính chung và khái quát.
Như vậy, hai tiêu chuẩn trên mâu thuẫn với nhau. Arixtot đã ý thức được vấn đề
này và tìm cách khắc phục, nhưng ông không làm được điều đó, mà chỉ dừng lại ở việc
khẳng định cả hai chúng đều cần thiết.
Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và
Trang 3
hình dạng. Một mặt, ông khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất
giữa vật chất và hình dạng. Ví dụ: quả cầu đồng là sự thống nhất giữa vật chất – chất
đồng và hình dạng – hình cầu, hai yếu tố cùng kết hợp và chuyển hóa tạo nên quả cầu
đồng. Hơn nữa chúng có sự chuyển hóa lẫn nhau. Trong mối quan hệ với hình cầu
trong sự vật trên thì đồng là vật chất. Nhưng cũng chính đồng là hình dạng của những
yếu tố tạo thành chất đồng. Tuy vậy, Arixtot luôn coi trọng hình dạng hơn vật chất. Nó
là cái tích cực, còn vật chất là cái thụ động và chỉ là cơ chất của chúng. Hình dạng là
hiện thực, còn vật chất chỉ là khả năng. Mọi vận động đều là vận động từ khả năng tới
hiện thực do tác động của hình dạng.
Mặt khác, ông thừa nhận tồn tại “hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn toàn
thuộc về lĩnh vực tư tưởng, khẳng định có “vật chất đầu tiên” – vật chất phi hình dạng.

Từ việc tách rời vật chất và hình dạng, Arixtot đã đi đến khẳng định “hiện thực có
trước mọi khởi nguyên cả về phạm trù, cả về bản chất, còn về thời gian thì theo một
nghĩa nhất định, là tồn tại trước, theo một nghĩa khác thì không do vậy việc xác định
và nhận thức (những cái trong hiện thức) cần phải có trước nhận thức (những cái trong
khả năng)”. Hơn nữa ông còn coi “hình dạng thuần túy” là động cơ đầu tiên của thế
giới làm cho mọi vật đều có thể vận động được. Đó chính là thượng đế, hay trí tuệ
thuần túy. Đây là điểm triết học của Arixtot hòa nhập với thần học của ông. [4;198]
Như vật, từ chỗ chưa hiểu đúng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng,
Arixtot đã có sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan
niệm về vật chất và hình dạng. Điều này làm cho sự phê phán của ông đối với lập
trường duy tâm trong học thuyết về ý niệm không triệt để.
1.2. Thuyết vận động – Cơ sở vật lý học
Vật lý học được coi là “triết học thứ hai” (hay khoa học về giới tự nhiên) được
xây dựng trên nền tảng của “triết học thứ nhất”. Mọi sự vật trong thế giới chúng ta,
theo Arixtot đều vận động và phát triển không ngừng. Vì thế, nghiên cứu vận động là
điều kiện cần thiết để hiểu giới tự nhiên. Chính “sự thiếu hiểu biết về vận dụng tất yếu
sẽ kéo theo sự không hiểu biết về giới tự nhiên”. Coi vận động là mọi sự biến đổi
chung, Arixtot nhấn mạng rằng “không thể có vận động bên ngoài sự vật”, bởi vì vận
động là phương tiện tất yếu biến những cái khả năng thành hiện thực. Do đó vận động
cũng vĩnh viễn tựa như thời gian vậy. [4;205]
Coi giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có liên hệ với
Trang 4
nhau và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu diệt và
cũng không thể tách ra khỏi sự vật, quá trình tự nhiên. Có sáu hình thức vận động là
phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí. Arixtot đã dừng lại
trước quan niệm vận động tự thân của vật chất mà thừa nhận cái hích đầu tiên của
Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên là nguồn gốc thần thánh của mọi vận động xảy
ra trong giới tự nhiên. Dưới con mắt của ông, mọi quá trình vận động trong thế giới
chúng ta đều có mục đích nhất định, theo sự xếp đặt tiền định. Chẳng hạn, trời mưa
làm cho lúa mì được tươi tốt, mèo sinh ra để bắt chuột…. Tóm lại, mọi cái đều có

nguyên nhân của nó. Ngẫu nhiên là sự không chủ tâm, không dự định trước, nhưng là
thứ yếu, còn mọi cái diễn ra đều là tất yếu.
Từ những quan niệm vật lý trên, Arixtot xây dựng vũ trụ luận của mình. Ông là
người khởi xướng ra thuyết địa tâm coi trái đất là hình cầu, là trung tâm của vũ trụ.
Quan niệm này về sau được Ptoleme phát triển trở thành thuyết địa tâm Arixtot –
Ptoleme. Thuyết này được các thế lực tôn giáo ủng hộ, thống trị hàng mấy thế kỉ. Chỉ
mãi đến thời phục hưng và cận đại, với việc xuất hiện thuyết Nhật tâm của Copecnich
được các nhà khoa học ủng hộ, thì nó mới bị lãng quên.
Theo Arixtot, vũ trụ là hữu hạn và khép kín về không gian và vĩnh viễn về thời
gian. Thế giới từ mặt trăng trở xuống chúng ta được cấu tạo bởi bốn yếu tố là đất, lửa,
không khí và nước. Chúng cố kết với nhau tạo thành mọi vật, kể cả mặt trăng. Còn
mọi thiên thể và khoảng không ở xa hơn mặt trăng thì được cấu từ một dạng ete bao
phủ toàn bộ vũ trụ.
Như vậy, bên cạnh nhiều quan điểm duy vật, nhìn chung vật lý học và vũ trụ
học của Arixtot có nhiều tư tưởng duy tâm, những yếu tố duy tâm đó được các thế lực
tôn giáo sau này lợi dụng phát triển và tồn tại mãi về sau.
1.3. Nhận thức luận
Học thuyết của Arixtot về tri thức được xây dựng trên nền tảng quan niệm về
thế giới của ông. Nhấn mạnh điểm tương đồng giữa khoa học và nghệ thuật như những
lĩnh vực hoạt đồng của con người mang tính chất khái quát trí tuệ, và có thiên hướng
hơn so với kinh nghiệm, kiến giải thông thường, Arixtot đồng thời phân biệt khoa học
với nghệ thuật. Tác phẩm “Siêu hình học” của ông được mở đầu bằng luận điểm “tất
cả mọi người, về bản tính đều khát vọng tới trí thức”.
Lý luận nhận thức của Arixtot là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng nhận
Trang 5
thức luận thời cổ đại. Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người, ông coi
quá trình nhận thức là quá trình khám phá ra chân lí đích thực về bản chất sự vật. Ông
phê phán mọi quan niệm hoài nghi luận trong nhận thức, ông coi “ngụy biện chỉ là một
sự thông thái giả hiệu”. Ông là một trong những đại biểu chính của quan niệm cổ điển
về chân lý, coi chân lý là sự phù hợp giữa quan niệm của con người về sự vật với

chính bản thân sự vật tồn tại trên thực tế.
Nhà bách khoa toàn thư thời cổ đặc biệt đề cao vai trò của tri thức cảm tính. Nó
đem lại cho ta những hiểu biết xác thực và sinh động về các sự vật đơn nhất. Ông là
người khởi xướng nguyên lý tabula rasa (nguyên lý coi linh hồn con người khi mới
sinh ra hoàn toàn không có tri thức, tựa như một tấm bảng sạch) đối lập với tư tưởng
của Platon coi nhận thức là quá trình hồi tưởng lại. Theo Arixtot nhận thức cảm tính là
giai đoạn đầu tiên, là điểm xuất phát của mọi quá trình nhận thức.
Tiếp sau là nhận thức kinh nghiệm, theo Arixtot đó là hàng chuỗi những liên
tưởng về cùng một sự vật hay nhóm các sự vật nhất định. Đây cũng là dạng nhận thức
quan trọng, bởi vì “cả khoa học và nghệ thuật đều xuất phát ở mọi người thông qua
kinh nghiệm”.
Cao hơn kinh nghiệm là nhận thức nghệ thuật mà nền tảng của nó là thực tiễn
của con người. Nó đem lại nhưng tri thức mang tính khái quát hơn so với các dạng
nhận thức trên.
Dạng nhận thức cao nhất đó là nhận thức khoa học, trong đó triết học là tối cao.
Nó là hoạt động trí tuệ đem lại cho chúng ta những tri thức lý luận có tính khái quát
cao. Dưới con mắt của Arixtot, khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp. Ông là
người đầu tiên tìm cách phân loại các khoa học. Xuất phát từ luận điểm “mọi sự duy
diễn đều hướng tới hoặc là hoạt động, hoặc là sáng tạo, hoặc là tư biện”, ông phân chia
các khoa học ra làm ba dạng:
- Thứ nhất, đó là các khoa học mang tính thực tiễn như đạo đức, chính trị…. Ở
đây thực tiễn bị hiểu theo nghĩa hẹp, đó chỉ là các hoạt động luân lý, chính trị của con
người.
- Thứ hai, đó là các khoa học sáng tạo. Ở đây, danh từ “sáng tạo” cũng bị hiểu
theo nghĩa hẹp lại, đó chỉ là các hoạt động nghệ thuật, kĩ thuật. Tuy nhiên, không nên
đồng nhất các khoa học này với nghệ thuật.
- Thứ ba, đó là các khoa học tự biện, bao gồm triết học thứ nhất, toán học, vật
Trang 6
lý…trong đó triết học thứ nhất là tối cao, là chẩn mực cơ bản để đánh giá trình độ
thông thái của con người. Còn giữa toán học và vật lý thì Arixtot do dự trong việc

phân bậc chúng. Xét về mức độ tư biện và trừu tượng thì toán học cao hơn vật lý.
Nhưng mặt khác, đối tượng nghiên cứu của vật lý – tức “triết học thứ hai” lại sinh
động hơn, xác thực và phức tạp hơn.[4;200]
1.4. Logic học
Một trong các phát minh của Arixtot trong lĩnh vực luận lý là Tam đoạn luận.
Đó là lối suy luận theo ba phần, phần thứ ba hay là phần kết luận theo sau phần thứ
nhất và phần thứ hai.
Vd:
Phần thứ nhất: Người là sinh vật có lý trí.
Phần thứ hai: Socrate là người.
Phần thứ ba: Socrate là một sinh vật có lý trí.
Tam đoạn luận có thể được áp dụng trong toán học theo các công thức sau: A =
B, B = C vậy C=A. Điều khó khăn cần phải giải quyết của một tam đoạn luận là nếu
phần thứ nhất không được chính xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên,
người ta thường chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn
luận không đem đến kết quả tốt.
Tuy vậy, thật là sai lầm nếu chỉ giới hạn logic của Arixtot ở những quan niệm
trên, tức là ở việc phát minh ra những quan niệm sơ đẳng của logic hình thức cổ điển.
Theo nghĩa rộng, lôgic học của Arixtot còn bao hàm cả học thuyết của ông về các
phạm trù, thể hiện như là phương pháp luận xuyên suốt mọi lĩnh vực thế giới quan của
ông. Bản thân thượng đế, dưới con mắt của Arixtot là một nhà lôgic lý tưởng.
Arixtốt đã xây dựng nên hệ thống các phạm trù như những hình thức của tư
tưởng: 1) bản chất; 2) số lượng; 3) chất lượng; 4) quan hệ; 5) vị trí; 6) thời gian; 7)
tình trạng; 8) chiếm hữu; 9) hành động; 10) chịu đựng. Bản thân ông không định nghĩa
phạm trù là một cái gì cụ thể cả, nhưng trong cách hiểu của ông, xét về phương diện
nhận thức luân, chúng là các dạng biểu hiện của tồn tại. Tóm lại, chúng bao hàm cả
khía cạnh tồn tại lẫn khía cạnh nhận thức. Đôi khi chúng còn thể hiện như các phạm
trù ngôn ngữ. Trong số các phạm trù trên thì bản chất là phạm trù trung tâm và cơ bản
nhất, vì nhận thức các sự vật tức là nhận thức bản chất của chúng. Từ việc không dung
hợp được mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xác định tiêu chuẩn của

Trang 7
bản chất như ở phần đã nêu trên, Arixtot đi đến thừa nhận hai dạng bản chất. Bản chất
thứ nhất là những sự vật khách quan tồn tại dưới dạng đơn nhất. Từ góc độ này, phạm
trù bản chất cho phép chúng ta thể hiện được sự vật một cách cụ thể, sinh động và xác
thực. Arixtot gọi đây là bản chất cho phép chúng ta thể hiện được sự vật một cách cụ
thể, sinh động và xác thực. Arixtot gọi đây là bản chất có trước. Bản chất thứ hai (hay
bản chất có sau) là những khái niệm chung về sự vật, chẳng hạn như các khái niệm con
người, động vật, thực vật. Chúng cho phép ta nhận thức một cách bao quát một nhóm
các sự vật có chung những đặc tính nhất định, Arixtot trên thực tế đã thừa nhận rằng
các sự vật tồn tại khách quan và có trước các khái niệm chung và tri thức về chúng.
Học thuyết của Arixtot về các phạm trù còn mang tính trực quan và cảm tính.
Số lượng các phạm trù được ông xem xét còn rất hạn chế. Tuy nhiên, học thuyết đó có
vai trò to lớn trong việc nghiên cứu các phạm trù như những hình thái của tư duy và
công cụ của nhận thức sau này. Khác với Platon, Arixtot đã hiểu được các phạm trù
như những công cụ để nhận thức thế giới chứ không phải “những lực lượng tinh thần
siêu nhiên”. Ông đã hiểu được dự thống nhất giữa các khía cạnh bản thể luận, nhận
thức luận và ngôn ngữ trong các quan niệm về phạm trù. Ông còn tìm cách chỉ ra các
mối quan hệ phạm trù với nhau, coi tất cả các phạm trù đều là sự thể hiện các khía
cạnh khác nhau của phạm trù bản chất. Arixtot đã đưa ra một tư tưởng biện chứng sâu
sắc, coi “các sự vật đang tồn tại và bản chất được cấu từ các mặt đối lập”. Vì vậy, đánh
giá cao logic học của Arixtot, Lenin đã coi “ logic của Arixtot là nhu cầu, là sự cố gắng
tìm tòi, là sự đến gần với logic của Heghen – nhưng từ logic này của Arixtot (người
mà bất cứ nơi nào, cứ mỗi bước, đều đặt ra chính vấn đề phép biện chứng), người ta đã
làm thành một triết học kinh viện chết, bằng cách vứt bỏ tất cả cái gì là tìm tòi, là doa
động, là cách đặt vấn đề”.
1.5. Nhân bản học
Nhân bản học là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong thế giới quan của Arixtot.
Ông thấy rằng: “nhận thức linh hồn con người thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức mọi chân
lý, nhất là nhận thức giới tự nhiên”.
Arixtot cho rằng con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác tựa như mỗi

sự vật được tạo thành từ hình dạng và vật chất. Ông phê phán quan niệm của Platon
coi thể xác chỉ là chỗ trú tạm thời của linh hồn bất diệt. Arixtot khẳng định sự gắn bó
hữu cơ giữa chúng, mặc dù ở con người thì linh hồn đóng vai trò chủ đạo. Ông khẳng
Trang 8
định: “các trạng thái của linh hồn đều có cơ sở trong vật chất”, và linh hồn là căn
nguyên của sự sống.
Arixtot cho rằng tồn tại ba dạng linh hồn:
1. Linh hồn thực vật với khả năng tự nuôi dưỡng và sinh sản.
2. Linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh. Cả
hai linh hồn này đều xếp là: “linh hồn vật lý”, chúng gắn bó hữu cơ và bị hủy cùng thể
xác.
3. Linh hồn lý tính là dạng cao nhất của linh hồn và chỉ tồn tại ở người, đó là
khả năng tư duy, trí tuệ của con người.
Như vậy, Arixtot hiểu linh hồn theo nghĩa khá rộng. Nó không chỉ dừng lại ở
các khả năng suy nghĩ hay cảm nhận của con người. Ông quan niệm ở thực vật cũng
có “linh hồn”, đó là “linh hồn thực vật”. Ở động vật có hai dạng “linh hồn động vật”
và “linh hồn thực vật”. Còn con người có cả ba dạng linh hồn trên. Khi con người chết
thì riêng phần “linh hồn lý tính” vẫn tồn tại bất diệt.
1.6. Học thuyết chính trị - xã hội
Theo Arixtot, con ngươi là một sinh vật xã hội. Bản tính của nó là sống cộng
đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng đó trong một thể chế nhất định được gọi
là nhà nước. Nhà nước đem lại sinh khí cho mỗi gia đình, mỗi quần cư và từng con
người trong xã hội. Arixtot coi hình thức tổ chức gia đình kiểu chiếm hữu nô lệ (trong
đó mối quan hệ giữa chồng và vợ, bố và con tựa như quan hệ giữa ông chủ với nô lệ)
là hình thức sống cộng đồng tự nhiên và vĩnh viễn. Nhà nước ra đời trên cơ sở gia
đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính quyền trong gia đình. Thể chế chính trị
là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành và
quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành chính và phân xử.
Theo ông, chính quyền không nên thuộc về người giàu mà cũng chẳng nên rơi
vào tay người nghèo, chính quyền nên thuộc về tần lớp chủ nô trung lưu. Chế độ chính

trị tốt nhất không phải là chế độ dân chủ hay chế độ quân chủ mà là chế độ công hòa
quý tộc. Trật tự xã hội bấy giờ (chiếm hữu nô lệ), đối với Arixtot là một trật tự xấu,
nhưng đó lại là mật trật tự xấu cần thiết, vì vậy cần phải bảo vệ nó… Arixtot xem xét
cả mối liên hệ giữa đạo đức và kinh tế trên bình diện xã hội. Theo ông, công bằng
trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội và bình đẳng giữa các cá
nhân trong cộng đồng. Arixtot đòi hỏi phải quan tấm đến lao động và phân công lao
Trang 9
động. [1;115]
Sứ mệnh của nhà nước không chỉ bảo đảm cho mọi người sống bình thường,
mà còn phải làm sai để con người sống hạnh phúc. Tiêu chuẩn đánh giá nhà nước đó là
mức độ phúc lợi mà nó đem lại cho các công dân trong xã hội (trừ nô lệ - không được
Arixtot coi là con người, mà chỉ là công cụ biết nói). “Mục đích của nhà nước là cuộc
sống phúc lợi bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt
được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập”, tức là đạt được cuộc sống ưu việt nhất,
mà theo ông, không chỉ về phương diện của cải vật chất mà còn bảo đảm công lý (theo
cách hiểu của nhà tư tưởng xuất thân từ tầng lớp chủ nô).
1.7. Đạo đức học
Học thuyết đạo đức của Arixtot xoay quanh niềm tin của ông rằng: con người
giống như mọi sự vật khác trong thiên nhiên, có một “mục đích” đặc trưng phải đạt tới
hay một chức năng phải hoàn thành. Ông coi đạo đức học là sự mở rộng nhận thức vào
lĩnh vực hành vi của con người. Khi phủ nhận quan điểm của Platon coi hạnh phúc của
con người gắn liền với thế giới ý niệm, Arixtot cho rằng: ngu dốt, sai lầm là nguồn gốc
của cái ác; lý trí và lẽ phải đời thường là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm
hạnh (làm một cách tự nhiên, không gò bó) của con người. Phẩm hạnh của con người
nếu có được nhờ vào việc thấu hiểu và làm theo chân lý (hành động dữa theo cái tất
yếu – phổ biến, do thông qua giáo dục và đào tạo) thì đó là phẩm hạnh lý tính; còn
phẩm hạnh của con người có được nhờ thói quen làm theo lẽ phải đời thường (hành
động dựa theo cái trung dung, tức là không thái quá, thông qua tập quán lâu đời của
công đồng) thì đó là phẩm hạnh luân lý. Con người cảm thấy khoái lạc khi bản thân
sống có đức hạnh, khi mình làm điều thiện một cách tự nhiên. Khoái lạc chỉ là một cơ

sở của cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc thực sự của con người phải gắn liền với cuộc
sống trần gian, gắn liền với bản tính tự nhiên của mình. Hạnh phúc của con người
không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý trí, đức hạnh
trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái… mà còn bị chi phối bởi các điều kiện
khách quan như tiền bạc, sức khỏa, tình bạn, xã hội công bằng… Vậy theo Arixtot, đời
sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong thế giới ý niệm trên trời mà
nằm trong thế giới hiện thực dưới đất, nơi trần gian; đồng thời chúng phụ thuộc vào
điều kiện hoàn cảnh, nhu cầu của từng người trong cộng đồng xã hội.[1,114]
Trang 10
1.8.Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Arixtot
Thẩm mỹ học
Arixtot vượt xa Platon về thiện cảm đối với nghệ thuật. Với Platon cũng như
Arixtot nghệ thuật chủ yếu là vấn đề mô phỏng, sự mô phỏng thiên nhiên. Điều khiến
Platon khinh miệt một số hình thức nghệ thuật là vì ông quan niệm một tác phẩm nghệ
thuật thì rời xa chân lý ít ra là ba bước. Ví dụ, thực tại đích thực của nhân loại là hình
thức vĩnh cửu của nhân loại. Do đó, bất cứ con người cụ thể nào – Socrates chẳng hạn,
chỉ là một bản sao nghèo nào của hình thức ấy. Như thế một bức tượng hay bức họa
của Scorates chỉ là bản sao của bản sao. Platon thực sự quan tâm tới khía cạnh nhận
thức của nghệ thuật, ông cảm nhận nó có tác dụng xuyên tạc tri thức vì nó rời xa thực
tại nhiều bước. Arixtot, ngược lại, tin rằng hình thức phổ quát chỉ tồn tại ở những sự
vật cụ thể, vì thế ông cảm thấy rằng các nghệ sĩ trực tiếp đối diện với cái phổ quát khi
họ nghiên cứu sự vật và chuyển chúng thành những hình thức nghệ thuật. Vì vậy,
Arixtot khẳng định giá trị nhận thức của nghệ thuật, và nói rằng, vì nghệ thuật thực sự
mô phỏng thiên nhiên, nên nó truyền đạt thông tin về thiên nhiên.
Ngoài giá trị nhận thức của nó, nghệ thuật còn có một ý nghĩa tâm lý quan
trọng. Một đằng, nghệ thuật phản ánh một khía cạnh thâm sâu của bản chất con người
là cái phân biệt con người với con vật, và đó chính là bản năng bắt chước. Ngoài bản
năng này, còn có sự kiện là con người cảm thấy vui thú khi đứng trước nghệ thuật
Tuy Arixtot có những phân tích chi tiết về các thể loại anh hùng ca, bi kịch và
hài kịch, nhưng đặc biệt các nhận xét của ông về bi kịch đã làm ông nổi tiếng nhất

trong tư tưởng thời sau. Ông đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh cảm xúc của bị kịch, tập
trung vào khái niệm thanh lọc và tẩy rửa.
Kinh tế học
Arixtot có những quan điểm kinh tế học rất sâu sắc. C.Mác đã gọi ông là nhà
nghiên cứu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử đã hiểu được hình thức giá trị của trao đổi.
Arixtot cũng đã nghiên cứu những hiện tượng của đời sống xã hội như: phân công lao
động, hàng hóa, trao đổi, phân phối ông cũng đã tìm ra mối liên hệ giữa trao đổi với
phân công lao động, sự phân ra gia đình nguyên thủy thành những gia đình nhỏ. Khi
nghiên cứu trao đổi, Arixtot đã tiếp cận đến hai hình thức sở hữu: tự nhiên và không tự
nhiên; đồng thời cũng đoán ra một cách tài tình tính hai mặt của giá trị tư tưởng độc
quyền và giá cả độc quyền cũng đã xuất hiện trong học thuyết về kinh tế của ông.
Trang 11
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
ARIXTOT
2.1. Giá trị:
Nhận thức luận của Arixtot chứa đựng các yếu tố cảm giác luận và kinh nghiệm
luận có khuynh hướng duy vật. Ông tìm ra phương pháp thống nhất lôgích lịch sử
trong nghiên cứu lịch sử triết học. Arixtot không chỉ nghiên cứu những quy luật lôgích
của tư duy con người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết
học. Ông là người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh đó giá trị của Arixtot là ở chỗ ông đã phát minh một
môn học mới, hoàn toàn không dựa vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của
người Hy Lạp trước thời Arixtot không được minh bạch, chính ông đã chấn chỉnh tình
trạng này bằng cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận.
Trong lĩnh vực sinh vật học, ông là người đầu tiên nhận thấy rằng những loại
sinh vật có thể được xếp hạng và giữa những hạng ấy có mối liên hệ mật thiết trong
nhiều phương diện khác nhau, chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống,
sự thụ thai, sự cảm xúc…Với các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lĩnh vực
này còn hạn chế, nhưng ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết của Von Baer về
các đặc tính của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan giữa các giống vật

và sự phát triển của chúng. Sau hết, Arixtot tạo nên một khoa học về sự phát triển của
bào thai.
Ông phát hiện và phê phán những quan những sai lầm trong học thuyết “Con
số” của Pitago, chống lại sự đồng nhất giữa cái tồn tại và cái không tồn tại của
Pacmenit, học thuyết “Ý niệm” của Platon. Sự phê phán của Arixtot đối với lập trường
duy tâm của Platon có nhiều điểm tích cực. “Khi một nhà duy tâm phê phán những cơ
sở của chủ nghĩa duy tâm của một nhà duy tâm khác thì điều đó bao giờ cũng có lợi
cho chủ nghĩa duy vật”. Cũng cần nhận thấy rằng, quan niệm của Arixtot về thượng đế
không phải được lấy ra từ các giáo lý tôn giáo, mà từ việc phân tích triết học khái niệm
và động cơ đầu tiên nhằm lý giải nguồn gốc vận động của sự vật. Hơn nữa, công lao
của Arixtot không dừng lại ở việc phê phán lập trường duy tâm của Platon, mà có
nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối quan hệ giữa vật chất và hình dạng, giữa khả
năng và hiện thực, hiện thực và cơ chất.
Nếu cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, thì Arixtot đem khoa học đến
Trang 12
cho nhân loại. Trước Arixtot cũng đã có khoa học, nhưng còn ở dạng thô sơ. Con
người Hy Lạp trước Arixtot đã có nhiều nghiên cứu để phát triển khoa học, nhưng đó
chỉ được xem như là một loại thần học vì họ có khuynh hướng giải thích tất cả các
hiện tượng thiên nhiên như hành vi của thần thánh. Có thể liệt kê một vài đóng góp
của ông cho nền khoa học như: những nhận xét giá trị về sức nóng của mặt trời làm
bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành mây và rơi xuống thành
mưa. Hay việc ông giải thích thỏa đáng sự thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho
rằng các lục địa được nảy sinh và dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả
những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay đổi tuần hoàn.
Và ông cũng là người đầu tiên đã đưa ra một hệ thống các phạm trù. Đây là
điểm khởi đầu cho tất cả các học thuyết tiếp theo về phạm trù. Hệ thống phạm trù của
ông khái quát và kế tục những thành quả của toàn bộ nền triết học Hy Lạp cổ đại giai
đoạn trước ông. Nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong lịch sử triết học và ngày nay
nhiều phạm trù của nó vẫn còn giữ nguyên giá trị bởi vì đó là những phạm trù cơ bản
nhất trong tư duy của nhân loại.

2.2. Hạn chế:
Các quan niệm của ông không nhất quán, dao động giữa lập trường duy vật và
duy tâm như sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan
niệm về vật chất và hình dạng…
Arixtot thần thánh hóa nhận thức lý tính, coi nó như là chức năng của linh hồn,
của thượng đế.
Vật lý học và vũ trụ học của Aritot có nhiều tư tưởng duy tâm và cũng mắc
nhiều sai lầm như việc ông công kích thuyết của Pitago cho rằng Mặt Trời là trung tâm
điểm của Thái Dương hệ, vì ông muốn dành vinh dự ấy cho Trái Đất
Những nhận xét của Arixtot về thiên nhiên và xã hội chứa rất nhiều sai lầm
quan trọng. Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến nhận xét khoa
học. Và đây cũng là một đặc điểm của nền ăn hóa Hy lạp: các học giả thời ấy thường
đi đến một kết luận quá hấp tấp.
Công trình nghiên cứu của Arixtot về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của
luận lý học. Kết quả là một công trình quá khô khan, không đủ sức thúc đẩy con người
tự cải thiện. Lý tưởng của Arixtot thiên về một đời sống quá bình thản, quá ôn hòa.
Trang 13
Do hạn chế lịch sử, sự phân loại các khoa học của ông tuy còn mang nặng tính
thơ ngây và cảm tính. Các phạm trù “thực tiễn”. “sáng tạo”, “lý luận” đều chỉ được
ông hiểu theo nghĩa hẹp và tách rời nhau. Vì thế nhà triết học không nhìn thấy mối liên
hệ giữa các dạng khoa học, hơn nữa ông còn quá đề cao các khoa học tự biện, coi
thường các khoa học thực tiễn.
Vì các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lĩnh vực này còn thiếu sót nên
Aristot có nhiều lầm lẫn, ta có thể liệt kê một vài điều: ông không biết gì về sự hiện
hữu của các bắp thịt trong cơ thể, ông không phân biệt được động mạch và tĩnh mạch,
ông tưởng rằng khối óc dùng để làm cho máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có
nhiều mảnh xương sọ hơn đàn bà, và đàn bà có ít răng hơn đàn ông.
Đối với lĩnh vực tâm lý học, Arixtot có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Như về
vấn đề tự do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Arixtot không được đồng
nhất, khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm gì

khác hơn cái gì định mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định
đoạt số phận của mình bằng cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống.
Triết học Arixtot thể hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống
trị. Nói cách khác ông thiên về chế độ quý tộc, với quan niệm: túi tiền của chúng ta
nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm ở đó.
Ông có những suy nghĩ chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của xã hội bấy giờ như:
cho rằng phụ nữ là con người chưa trưởng thành, nam giới phải là người chỉ huy, phụ
nữ chỉ có thể tuân lệnh do không có ý chí. Hay việc ông tỏ thái độ khinh nghề lao động
chân tay, ông xem người lao động chân tay như những người hoàn toàn không biết suy
nghĩ, những công việc ấy chỉ thích hợp với giai cấp nô lệ, và cũng dễ nô lệ hóa con
người
Trang 14
Kết luận
Đối với Arixtot, chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng
nhiệt. Chúng ta có thể nhận thấy nhiều nhận xét của ông về thiên nhiên và xã hội chứa
rất nhiều sai lầm, hay chúng ta có thể bất đồng ý kiến với ông về một số điểm của Tam
đoạn luận… Tuy nhiên, những nhận xét đó thật ra không hoàn toàn cần thiết đối với
một hệ thống tư tưởng đã ra đời cách đây 2500 năm. Chính Arixtot đã nêu cao ngọn
đuốc văn minh cho nhân loại soi chung, ông đã đặt nền móng cho một hệ thống tư
tưởng vững chắc và giúp cho thế hệ tương lai dựa vào đó để phát triển sự nghiên cứu
sưu tầm, hầu mạnh tiến trên con đường tìm chân lý. Arixtot được C.Mác đánh giá là
“nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại”. Điểm nổi bậc của ông là dám mạnh dạn thể hiện
sự bất đồng của mình đối với những tư tưởng của người thầy, ông đứng trên lập trường
của tri thức có luận cứ khoa học và hoàn toàn dựa vào lôgic học để giải thích. Với sự
yêu mến sự minh triết và tôn trọng chân lý Aristotle đã nói: “Thầy và chân lý đều quý,
nhưng chân lý còn quý hơn”. Với phong cách làm việc như vậy, Aristotle đã cho ra đời
một hệ thống triết học của riêng mình vô cùng phong phú, với tính quảng bác và đa
dạng về đề tài.
Cách sống và làm việc của Aristotle thực sự là tấm gương cho cả nhân loại.
Arixtot luôn kiên trì miệt mài với các công trình nghiên cứu, không vì nghịch cảnh mà

lùi bước, xao lãng khát vọng hiểu biết về thế giới. Ngoài ra, sự mạnh dạn phủ nhận
những thiếu sót và làm sáng tỏ chân lý của ông cũng là một hành động đáng để chúng
ta quan tâm.
Qua tấm gương của Arixtot một điều được rút ra là “không có thành công nào
mà không phải trả giá bằng sự lao động, học tập thực sự. Bên cạnh đó, sự kiên trì và
nỗ lực cho cái mình yêu thích cũng là điều đáng quý”; và “chân lý cần được tôn trọng
và bảo vệ.” Chính những phẩm chất cao quý như thế đã hình thành nên một Arixtot,
một vĩ nhân, một triết gia lớn của mọi thời đại.
Trang 15
Tài liệu tham khảo
[1] TS Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học phần I Đại cương về lịch sử triết học
[2] TS Bùi Văn Mưa, Triết học và Bức tranh Vật lý học về thế giới, Nxb Đại
học quốc gia TP HCM 2011
[3] Will Durant, Trí Hải và Bửu Đích dịch, Câu chuyện triết học
[4] GS, PTS Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử Triết học, NXB chính trị quốc gia, Hà
Nội 1998
[5] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử Triết học và các luận đề, Đỗ Văn Thuấn và
Lưu Văn Hy biên dịch, NXB Lao Động hà Nội 2004
[6] Forrest E.Baird, Tuyển tập danh tác triết học từ Platon đến Derrida, Đỗ Văn
Thuấn và Lưu Văn Hy biên dịch, NXB Văn Hóa Thông Tin 2006
[7] Samuel Enoch Stumpf & Donald C.Abel, Nhập môn triết học Phương Tây,
Lưu Văn Hy biên dịch, NXB Tổng Hợp TPHCM 2004

×