Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

15 bài văn Nghị luận Xã hội hay chương trình Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.34 KB, 32 trang )

1 CÓ CÔNG MÀI SẮT CÓ NGÀY NÊN KIM
Bài làm
Con người ta ai cũng muốn thành đạt .Nhưng con đường dẫn đến thành công thường quanh co
khúc khuỷu và lắm chông gai .Để động viên con người vững chí , bền gan phấn đấu và tin
tưởng ở thắng lợi ,cha ông ta dặn dò con cháu qua câu tục ngữ :
" Có công mài sắt có ngày nên kim "
Ai cũng biết cây kim bé nhỏ tới mức nào nhưng cũng hoàn hảo tới mức nào . Thân kim bằng
sắt tròn ,mảnh ,nhỏ xíu .Đầu kim nhọn sắt .Trôn kim cũng có một lỗ nhỏ xíu để luồn chỉ
qua .Có thể kim mới trở thành một vật có ích cho cuộc đời .Còn sắt là vật liệu làm nên kim .
Chỉ có điều ,làm từ sắt nên kim là cả một quá trình tôi luyện , mài dũa công phu bền bỉ .
Nhưng có đi có lại .Ai có công mài sắt bền bỉ ,kiên trì sẽ có ngày nên kim .Đức kiên trì ,chí
bền bỉ chính là một yếu tố quan trọng dẫn đến thành công .
Thực tế cuộc sống đã cho thấy điều đó là hoàn toàn có cơ sở .Trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc ta , chúng ta phải thực hiện chiến lược trường kì kháng chiến ,nhất định thắng
lợi .Từ cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà Lê đén cuộc kháng chiến chông
Pháp ,chống Mĩ của nhân dân ta trong những năm vừa qua ,tát cả đều thử thách ý chí kiên
trì ,bền gan vững chí của cả dân tộc .Và cuối cùng chúng ta đã giành được thắng lợi ,đã giành
được độc lập
cho dân tộc ,tự do cho nhân dân .Nhờ kiên trì kháng chiến ,nhân dân ta thành công .
Trong đời sống lao động sản xuất ,nhân dân ta cũng nhiều lần thể hiện đức kiên nhẫn dáng
khâm phục .Nhìn những con đê sừng sững đôi bờ sông Cầu , sông Hồng ,sông Đáy ,sông
Thương ,chúng ta hiểu được cha ông ta đã kiên trì ,bền bỉ tới mức nào để ngăn dòng nước
lũ ,bảo vệ mùa màng trên đồng bằng Bắc Bộ .Chỉ với đôi bàn tay cầm mai , đôi vai vác đất
,hoàn toàn là sức lao động thủ công ,không có máy xúc ,máy ủi ,máy gạt ,máy đầm như ngày
nay ,cha ông ta đã kiên trì ,quyết tâm lao động và thành công .
Trong học tập ,đức kiên trì lại càng cần thiết dể có được thành công .Từ một em bé mẫu giáo
vào lớp một ,bắt đầu cầm phấn viết chữ O đầu tiên đến khi biết đọc ,biết viết ,biết làm toán rồi
lần lượt mỗi năm một lớp ,phải mất 12 năm mới hoàn thành những kiến thức phổ thông
.Trong quá trình lâu dài ấy ,nếu không có lòng kiên trì luyện tập ,cố gắng học hành ,làm sao
có ngày cầm được bằng tốt nghiệp .Người bình thường đã vậy ,với những người như Nguyẽn
Ngọc Kí ,lòng kiên trì bền bỉ lại càng cần thiết để vượt qua khó khăn .Vốn bị liệt hai tay từ


nhỏ ,anh đã kiên trì luyện viết bằng chân để có thể đến lớp cùng bạn bè .Đức kiên trì đã giúp
anh chiến thắng số phận .anh đã học xong phổ thông ,học xong đại học và trở thành thầy
giáo ,một nhà giáo ưu tú .
Thế mới biết ý chí ,nghị lực ,lòng kiên nhẫn ,sự bền bỉ đóng vai trò quan trọng tới mức nào
trong việc quyết định thành bại của mỗi công việc nói riêng và cả sự nghiệp của mỗi con
người nói chung .Có mục đích ban đầu dung đắn - chưa đủ ; phải có lòng kiên trì ,nhẫn nại
cọng với một phương pháp làm việc năng động và sáng tạo thì chúng ta mới có thể biến ước
mơ thành hiện thực .
Bàn luận về một vấn đề có tầm cỡ lớn lao là sự nghiệp mà lại lấy hình ảnh của một sự vật thật
bé nhỏ là một cây kim để nói ,ông cha ta phải có chủ ý rõ ràng và sâu sắc ,gửi gắm trong lời
khuyên giản dị như một triết lí : có công mài sắt có ngày nên kim .caau tục ngữ không chỉ là
một bài học về ý chí mà còn là lời động viên chân tình : hãy lạc quan ,tin tưởng .
Kế thừa và phát huy quan niệm của ông cha ,với những kinh nghiện trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình ,Bác Hồ đã khuyên thanh niên:
" Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyet chí ắt làm nên"
Việc tu dưỡng ,rèn luyện của mỗi con người phải được tiến hành thường xuyên ,liên tuc .Kinh
nghiện của thế hệ trước là lời khuyên quí báu ,lời cổ vũ thanh thiếu niên trên con đường phấn
đấu xây dựng cuộc sống tốt đẹp
……………………………………………………
2.THẤT BẠI LÀ MẸ THÀNH CÔNG
Bài làm
Trước hết chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa câu tục ngữ.Thất bại là không đạt được kết quả, mục
đích như dự định, trái với thành công. Vậy mà câu tục ngữ lại khẳng định thất bại là mẹ thành
công-một điều hết sức mâu thuẫn.Hẳn ai cũng biết mẹ là người sinh ra, tạo ra.Tổng kết lại, ta
hiểu rằng có thất bại thì ta mới có kinh nghiệm, từ đó dẫn tới thành công. Vậy đúng là thất bại
đã sinh ra thành công, có bại mới có thắng. Câu tục ngữ tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng
thật ra nó lại là 1 kinh nghiệm sống mang ý nghĩa thực tế: Thất bại dạy cho ta những bài học

để ta vượt lên và tiến tới thành công.
Tại sao vậy? Ta nên đi từ nguyên nhân của thành công. Nguyên nhân của thành công có nhiều
yếu tố nhưng chủ yếu nó bao gồm:- Có năng lực- Chớp được thời cơ.
Vậy thử xem Thất bại có sinh ra việc có năng lực và chớp thời cơ hay không? Khi người ta
thất bại người ta thường ngồi suy ngẫm vì sao người ta thất bại hơn là khi người ta thành công
thì người ta thường nghĩ vì sao người ta thành công. Thay vào đó, người ta ăn mừng và tự
mãn, điều này giết chết thành công.
- Khi người ta nghĩ vì sao người ta thất bại thì điều đầu tiên nghĩ tới là năng lực của mình đã
đủ chưa (khả năng chuyên môn của bản thân, khả năng liên kết và dùng người, nhân lực, vật
lực và thời gian). Sau đó người ta nghĩ tới liệu mình thực hiện như vậy đã đúng thời điểm
chưa, đã đủ chín để thực hiện chưa (chớp thời cơ). Khi người ta tìm được ra nguyên nhân như
vậy, đa phần họ sẽ chuẩn bị tốt hơn cho những lần sau để không bị thất bại. Do đó thất bại
sinh ra thành công là vậy.
- Con người thường có tính kiêu hãnh, họ thường không chịu thất bại, họ luôn muốn chinh
phục và luôn muốn thành công. Trong khi đó thất bại làm có tính kiêu hãnh của họ nổi dậy và
mạnh lên, đó là vì sao mà thất bại sinh ra thành công vậy.Ý NGHĨA của nó như thế nào?
- Nó khuyên người ta khi thất bại thì đừng nản, phải biết nhìn lại để nhận ra vì sao lại như vậy
và điều quan trọng hơn cả là làm sao để lần sau không bị như vậy nữa và lần sau làm như thế
nào để đạt được Nó còn một ý nghĩa nữa, một ý nghĩa hết sức con người, đó là an ủi người
ta, đa phần sự an ủi đều tốt, nó làm cho người ta lấy lại được tự tin. Nhưng đôi khi nó làm
nhụt chí người ta vì sự bằng lòng của họ lớn hơn ý chí của họ.Câu nói trên chỉ có tác dụng đối
với người có ý chí và lòng đam mê mà thôi.
………………………
3 Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó". Em hãy bình luận lời dạy đó.
Bài làm:
Bác Hồ, vị cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc ta luôn quan tam đến việc rèn luyện nhân
cách cho thế hệ trẻ, đặc biệt là lừa tuổi học sinh. Trong một lần nói chuyện với học sinh. Bác
đã dạy: "Có tài mà không cóđức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó".

Lời dạy của Bác đã khắc sâu trong tâm hồn, trí tuệ thế hệ trẻ, trụ lại mãi với thời gian. Cho
đến bây giờ lời dạy của Bác vẫn vang vọng trong tâm hồn mọi người. Muốn hiểu rõ ý nghĩa
của lời dạy của Bác. Trước hết ta phải hiểu khái niệm "đức" và "tài". Theo em, nói về tài là
nói về trí tuệ, kiến thức, kinh nghiệm và năng lực. "Tài" là khả năng hoàn thành nhiệm vụ với
kết quả cao, giải quyết tốt mọi khó khăn xảy ra và luôn sáng tạo trong việc làm. "Đức" là đạo
đức, là tinh thần hết lòng phục vụ nhân nhân, là cần, kiệm, liêm, chính, dũng cảm khắc phục
khó khăn, chịu đựng mọi gian khổ và luôn luôn sống với phương châm: "Mỗi người vì mọi
người".
Từ khái niệm "tài" và "đức", từ yêu cầu của cuộc sống, Bác đã đưa ra kết luận: "Có tài mà
không có đức là người vô dụng". Một con người có tài mà không có đức thì con người đó
không có ích cho cuộc sống. Trong thực tế cuộc sống và trong văn học, em đều thấy lời dạy
của Bác hoàn toàn đúng, nó thể hiện cách đánh giá giá trị của con người. Có tài, có hiểu biết,
có kinh nghiệm nhưng lại không mang sự hiểu biết đó phục vụ nhân dân, làm đẹp giàu cho
đất nước thì cái tài đó hoàn toàn vô ích. Một người có tài mà chỉ thu vén cho lợi ích cá nhân
thì người đó cũng trở thành người vô vụng mà thôi. Mặt khác, con người có tài mà làm việc
xấu, trái với đạo đức, trái với lương tâm thì không những chỉ là vô ích mà còn có hại, cái tài ở
đây không đáng được trân trọng nữa. Trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước ta
còn gặp khó khăn rất nhiều. Nó đòi hỏi phải có nhiều người có tài, có đức. Song, người có tài
chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, không mang sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình để tạo ra của
cải cho đất nước, thì những con người đó đều là vô ích, cái tài của họ đáng bị bỏ đi Thực
tiễn cho thấy con người có tài năng càng cao mà không có đạo đức thì tác hại của nó thật to
lớn. Một người có tài, trong khi đật nước đang gặp khó khăn, đang cần họ mà họ lại chỉ lo thu
vén cá nhân thì họ không những đã không góp phần làm đẹp cho đất nước mà có khi còn
mang lại những thiệt hại to lớn cho đất nước Bác nói "Có tài mà không có đức là người vô
dụng" thật không sai chút nào!
Trong thực tế, từ xưa tới nay đạo đức là phẩm chất không thể thiếu được đối với mỗi con
người. Đạo đức, tính cách con người là cái quý nhất. Mất đạo đức, con người khác nào loài
vật. Song, không có tài năng thì con người làm việc cũng rất khó khăn, chật vật. Tài năng
giúp cho chúng ta hoàn thành tốt mọi công việc. Có đức, muốn phục vụ tốt cho đất nước
nhưng tài năng không có thì họ không đạt được những ý muốn của mình. Nhiều khi vì không

có tài năng, họ đã làm hỏng việc mà làm hại đến cả sự nghiệp chung. Một người cán bộ quản
lí hợp tác xã có tinh thần, ý chí và trách nhiệm cao nhưng tài năng kém sẽ làm cho công việc
lúng túng, sai sót và vất vả Trong một nhà máy, người lãnh đạo sống mẫu mực nhưng không
có tài thì nhà máy sẽ làm ăn thua lỗ và dẫn đến bờ vực phá sản. Quả thật, ngoài đạo đức, tài
năng cũng là một vấn đề rất cần thiết, nó phục vụ chính cuộc sống của chúng ta. Vì vậy "tài"
luôn luôn đi đôi với "đức", một người có đức chưa đủ à còn có cả tài năng và khi chúng ta rèn
luyện thì phải rèn luyện cả "đức" lẫn "tài".
Rõ ràng "đức" và "tài" là hai mặt không thể thiếu nhau được trong phẩm chất của con người
lao động kiểu mới. Hai nhân vật này không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau, tạo nên phẩm
chất của con người phát triển toàn diện. Từ xưa, các cụ giá thường nói: "Tiên học lễ", điều
trước tiên đối với con người phải là vấn đề đạo đức. Vấn đề đó là gốc, là yếu tố quyết định,
"tài" là biểu hiện cụ thể cu ả "đức", không có khái niệm đạo đức chung chung, tách rời hiệu
quả việc làm
Vì vậy "tài" và "đức" phải hài hoà trong phẩm chất của con người lao động kiểu mới, giúp họ
làm đẹp cho quê hương và đất nước. Anh Hồ Giáo là một hình ảnh điển hình. Anh tận tuỵ say
mê với công việc, đem hết tài năng, sức lực của mình vào công việc lai tạo giống bò cho đất
nước. Đó là hình ảnh anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
Anh đã chọn cho mình cuộc sống cống hiến thầm lặng cho đất nước mặc dù phải xa cuộc
sống của con người đô thị, chịu giá rét, cô đơn trên ngọn núi cao hai nghìn sáu trăm mét. Với
lòng say mê nghề nghiệp áp dụng với việc làm, anh đem từng hiểu biết, những kinh nghiệp áp
dụng vào việc làm, góp phần không nhỏ vào công cuộc chiến đấu bảo vệ đồng quê xanh tươi
của Tổ quốc Đó cũng chính là hình ảnh cô kĩ sư trẻ đã dám rời bỏ cuộc sống thành thị, dấm
vứt bỏ mối tình đầu mà cô cho là nhạt nhẽo để đến với vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, đem
hết tài năng và sức lực để phục vụ nhân dân và đất nước Họ là những hình ảnh con người
lao động kiểu mới có tài và có đức. Những hình ảnh trên một lần nữa khẳng định được tính
đúng đắn trong lời dạy của Bác. Những con người có tài, có đức đều là những con người có
ích cho đất nước và cho xã hội. Hình ảnh những con người đó đáng kính trọng và đáng mến
biết bao.
Bác hồ là một tấm gương sáng về tài và đức. Với lời dạy trên, Bác muốn nói với thế hệ trẻ
rằng: Con người có ý nghĩa nhất đối với cuộc sống là con người được tu dưỡng, rèn luyện

toàn diện về cả đức lẫn tài. Một nhân cách toàn diện, cao đẹp là sự kết hợp hài hoà giữa tài
năng và phẩm chất đạo đức Lời dạy của Bác là kim chỉ nam cho mọi hoạt động rèn luyện
của thế hệ trẻ, tạo nên những chuyển biến về chất, trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của
chúng ta Lời dạy đó vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có giá trị thực tiễn nên đã vạch ra được
phương hướng tu dưỡng cho mỗi con người là phải rèn luyện cả tài lẫn đức để trở thành một
người toàn diện.
Tuy giờ đây Bác Hồ đã đi xa nhưng lời dạy của bác về tài và đức vẫn vang vọng cho đến
tận bây giờ và ngàn đời sau: tài, đức phải được kết hợp hài hoà để tạo nên nhân cách con
người mới. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, em thấy mình phải ra sức trau dồi, rèn luyện cả đức
lẫn tài để trở thành người lao động toàn diện, có ích cho đất nước, cho cuộc sống.
………………………………
4 Đề bài
Bác hồ dã từng nói đoàn kết đoàn kết đại đoàn kêt thành công thành công đai thành công em
hãy nêu nhận xét
BÀI LÀM
Cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trước hết là đoàn kết vì đại nghĩa, đoàn kết
trong Đảng để đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Trên cơ sở đó Người kêu gọi mọi người
càng đoàn kết nhau lại thành một khối để chống lại kẻ thù chung. Hồ Chí Minh từng nhấn
mạnh: '' đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm, hiệp lực
đánh đuổi tụi áp bức mình đi''.
Đấu tranh nhằm xóa bỏ nỗi nhục mất nước cũng như nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu ở một
nước như Việt Nam, Hồ Chí Minh hiểu cần phải thức tỉnh lương tri của tất cả mọi người, tất
cả các tôn giáo trên cơ sở đại đoàn kết, tập hợp họ thành một khối thống nhất để dựng nước
và giữ nước. Người mong muốn nhân dân của Người dù có tín ngưỡng hay không có tín
ngưỡng, dù thuộc các tôn giáo khác nhau, đều trước hết thấy mình là con Rồng, cháu Lạc,
phải có trách nhiệm với cộng đồng, với những người đã khuất, với tổ tiên.
Vì thế, ngay từ năm 1924, Người đã nói: ''Chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất
nước''. Trong tư tưởng Người, dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân,
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đó là ''Chủ nghĩa
dân tộc hướng tới chủ nghĩa Cộng sản”. Ngoài ra, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết còn có

nguồn gốc sâu xa từ truyền thống, từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là truyền thống
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương; người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vì thế, năm
1942, ngay sau khi về nước lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã
viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy ta phải
biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để
đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập tự do”.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đó là cái
bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi. Người cho rằng: “Trong bầu trời không có
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lục lượng đoàn kết của nhân
dân”. Và “Đại đoàn kết là một lực luợng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng
lọi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của
chúng ta nhất đánh thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”. Chính vì thế, ngay sau khi Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) ra đời, dù bận “trăm công, nghìn việc”, vừa
phải lo chống giặc đói, giặc dốt, lại phải lo thắng giặc ngoại xâm, Người rất quan tâm tới các
tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức tôn giáo. Ngày 3/9/1945, tức chỉ một ngày sau khi tuyên
bố độc lập, Người đã có chương trình kế hoạch tiếp các tổ chức đoàn thể (như các báo Việt,
Trưng, văn hóa giơi, công giới, thương giới, Công giáo, Phật giáo, nông hội, nhi đồng, thanh
niên ). Cũng trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lân thời (bàn về những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước VNDCCH), Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách phải làm, trong đó
Người nhấn mạnh vấn đề thứ 6 là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng
bào Giáo (Thiên chúa giáo) và đồng bào Lương (Phật giáo), để dễ thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.
Suốt cuộc đời mình, không lúc nào Hồ Chí Minh không chú ý đến những hành vi tín ngưỡng
tôn giáo của đồng bào. Người đã chú ý đến phong tục tập,quán của người dân khi trở về Pắc
Bó, thậm chí tự tay vẽ hình ảnh Đức Phật và dựng ngôi chùa để đồng bào không phải đi xa
làm lễ. Người cũng gửi nhiều thư và điện đến các vị giám mục, linh mục để vận động tinh
thần yêu nước của đồng bào Công giáo. Người cũng còn gửi thư đến các ông lang, ông đại,
biểu dương công trạng và tinh thần tham gia kháng chiến của đồng bào miền núi Hòa Bình.
Không chỉ với các đồng bào có đạo và không có đạo, với các đoàn thể, các Đảng dân chủ và

xã hội, cũng được Người quan tâm để phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong việc động
viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến và thực hiện đại đoàn kết toàn dân.
Có thể nói rằng, “Hồ Chí Minh đã nhận rõ cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết dân tộc và
tin tưởng vào đồng bào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo. Người kêu gọi phải đoàn kết,
không phân biệt tôn giáo, Đảng phái, già ,trẻ, gái trai “Đoàn kết là chiến lược lâu dài chứ
không phải là sách lược tạm thời”. Người là hiện thân, là ngọn cờ của khối đại đoàn kết dân
tộc. Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự củng cố khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh công-nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp, mọi
Đảng phái, mọi tôn giáo, dân tộc để bao vây, cô lập kẻ thù, phá tan chính sách của chúng, để
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Người luôn nhắc nhở: “ đối với các đoàn thể
khác cùng dân chúng, chỉ có một chính sách là đại đoàn kết”. Thậm chí, trước lúc đi xa, trong
di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục
vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”.
Rõ ràng là, tư tưởng về đoàn kết của Hồ Chí Minh một khi trở thành chiến lược của cách
mạng Việt Nam đã tạo nên một sức mạnh vô địch để dân tộc ta “nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vuợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đó là sức mạnh của đoàn
kết toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa dân tộc tiến tới “độc lập, tự do, hạnh phúc”.
Vì thế, có thể khẳng định rằng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi là một thành công lớn của Hồ Chí Minh. Người đã tập hợp được những tổ
chức cách mạng chân chính về một mối, quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ
được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng được tình đoàn kết quốc tế. Đó là kết
quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu nổi tiếng “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần,
trí tuệ, thành sức mạnh vật chất cực kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch hung bạo,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết mãi là một lực lượng to lớn của dân tộc Việt Nam.
Đoàn kết là một lực lượng vô địch.

…………
5. KHIẾM TỐN LÀ CÁCH TỐT NHẤT ĐỂ TIẾN BỘ
Bài làm
Có lẽ đã từ lâu rồi các bạn không thấy Trí Thức Cộng Sản [nick của Trung trên FB] viết
bài nữa. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì tôi quá bận. Nay vì vài lý do cá nhân, tôi xin viết một
bài nhỏ. Một là để không mất đi khả năng viết lách của mình. Hai là sau một thời gian dài học
Phật và học Marx, tôi hiểu ra được rất nhiều điều mà bản thân cảm thấy có ích. Vậy nên, bài
viết bài này ra đời nhằm mục đích chia sẻ những suy nghĩ và chiêm nghiệm của cá nhân. Bài
hôm nay tôi xin lấy tiêu đề là: “Khiêm tốn là cách tốt nhất để tiến bộ”. Có lẽ nhiều bạn
cũng nghĩ điều này là đương nhiên, tuy vậy khi phân tích một cách biện chứng và sâu sắc thì
ở đây tôi không chỉ nói đến tiến bộ cá nhân, mà còn là nói đến tiến bộ của tập thể, rộng hơn ra
là tiến bộ của địa phương, của đoàn thể, cơ quan, thậm chí là của quốc gia. Vì sao lại như
vậy?
Thế nào là khiêm tốn?
Cần phải phân biệt giữa khiêm tốn thực chất hay khiêm tốn hình thức. Hãy nhớ đến 5 điều bác
Hồ dạy thì điều thứ 5 là gì: Khiêm Tốn – Thật Thà – Dũng Cảm, trong triết học chúng ta có
tam diện nhất thể. Tức ba mặt nhưng chung một bản thể. Ở đây câu nói của cụ Hồ, theo thiển
ý của tôi, thực sự sâu sắc vì Khiêm Tốn là phải đi liền với Thật Thà, với Dũng Cảm. Một,
nếu Khiêm Tốn mà không có Thật Thà thì đó là Khiêm Tốn hình thức, là thế hiện Khiêm Tốn.
Hai là Khiêm Tốn phải đi với Dũng Cảm. Bạn dám nhận rằng bạn không biết, bạn không hiểu
cái đó đó mới là Khiêm Tốn. Bạn không dám nhận thì là bạn chưa thực sự khiêm tốn rồi. Điều
này chúng ta phải phân biệt rõ. Vậy nên Khiêm Tốn thực sự nói thì rất dễ mà làm thì rất khó:
- Muốn Khiêm Tốn được thì trước hết bạn phải biết mình là ai, mình ở đâu và mình đến đâu.
Nếu bạn không biết mình là ai, mình thực sự ở đâu thì bạn sẽ không khiêm tốn được. Hãy
nhìn nước Nhật qua hai lần cải cách kinh tế, dưới thời Minh Trị và sau thế chiến thứ 2, họ đều
thành công. Họ biết họ là ai, họ đang ở đâu, họ có những gì và họ cần phải làm gì.
- Muốn Khiêm Tốn thì phải Thật Thà, bạn không Thật Thà thì làm sao mà bạn Khiêm Tốn
được. Không Thật Thà thì sự Khiêm Tốn chỉ là hình thức. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, điều đó
có đúng không. Khiêm Tốn thật tức là chúng ta thật thà mà nói là ta kém thật. Bạn còn nói dối
tức là còn che dấu cái kém của mình. Nếu đã che dấu thì làm sao Khiêm Tốn được vì chẳng

qua bạn không muốn mất thể diện trước mặt người khác. Có những người nghĩ rằng: Khiêm
Tốn là người khác khen ta giỏi thì ta nói rằng ta không giỏi; hoặc ta tự cho mình kém. Đó
cũng không phải là đúng. Thật thà là khi bạn có gì nói đó, không thêm cũng không bớt. Còn
nếu bạn nói thiếu và nghĩ rằng đó là Khiêm Tốn thì thực ra không phải Khiêm Tốn mà là bạn
đang cầu cái danh “người Khiêm Tốn” mà thôi. Cái danh này rất vi tế, không phải ai cũng biết
được. Bậc vĩ nhân Khiêm Tốn cũng khác người bình thường, khi họ nhận họ kém về khoản
nào đó thì cũng tức là họ kém thật, họ không nói thêm, cũng chẳng nói bớt, cứ thật thà mà
nhận thôi. Đối người tiếp vật đều là Thật thà cả.
- Khiêm Tốn mà không Dũng Cảm thì Khiêm Tốn chỉ là một nửa. Bạn không Dũng Cảm nhận
mình không biết trước mặt mọi người thì làm sao người ta biết mà chỉ cho bạn để bạn tiến bộ.
Bạn không Dũng Cảm nhận tức bạn vẫn còn thích cái danh, bạn vẫn còn thích được khen và
bạn sợ lời chê bai nhắc nhở. Thế thì làm sao có thể là Khiêm Tốn được.
Tại sao Khiêm Tốn giúp tiến bộ?
- Khi bạn Khiêm Tốn thì tự khắc sẽ biết bạn đang kém ở đâu. Từ đó, bản thân tự trau dồi ở
những mặt yếu kém. Như vậy là bạn sẽ tiến bộ.
- Khi bạn Khiêm Tốn người thầy sẽ chân thành mà dạy hết cho bạn. Ngược lại, không thật thà
thì tức là bạn có tà tâm. Vậy thì làm sao người thầy không thể yên tâm mà truyền đạt hết cho
bạn được.
- Càng kiêu căng, ngã mạn thì người giỏi càng xa lánh bạn. Trong khi đó, những kẻ bợ đỡ, xu
nịnh sẽ đến gần bạn, không thì cũng là người kém hơn bạn. Bạn thử nghĩ xem, nếu xung
quanh mình toàn những người kém hơn mình thì bạn liệu có học được không, có tiến bộ được
không. Một ví dụ khá điển hình của việc kiêu căng là mặc dù đến thế kỷ 18-19, văn minh -
khoa học Á Đông đã thua xa châu Âu. Tuy nhiên, người Á Đông vẫn cho chúng ta là mạnh
nhất, chúng ta không cần ai dạy nên chúng ta bế quan tỏa cảng. Chính tư tưởng này khiến cho
các nước Á Đông ngày càng tụt lùi, cuối cùng làm thuộc địa cho châu Âu bao nhiêu năm
ngoại trừ Nhật Bản. Qua đó phải thấy kiêu căng ngã mạn là mầm mống của tai họa. Một
người kiêu căng thì người đó tụt hậu, một nước kiêu căng thì nước đó diệt vong. Khiêm tốn
trong từng lời nói, cử chỉ của người Nhật chính là điều mà chúng ta cần học tập. Họ cúi đầu
chào chúng ta và chúng ta ngẩn đầu nhìn họ.
Hiện tại, tôi thấy ngay trên mạng, nhiều bạn rất thích nói chuyện chính trị, rất thích tỏ ra hiểu

biết chính trị. Họ nói rất nhiều, bàn rất nhiều và cho ý kiến của mình là đúng. Cái tư tưởng đó
là mầm mống của tụt hậu của diệt vong, nhưng họ vẫn bám lấy, nó ăn vào nhiều thế hệ trong
người Việt Nam ta. Cứ thử nghĩ mà xem có đúng không.
Thứ nhất đó là hiện tượng vĩ cuồng: một số người không muốn thông qua con đường học
tập nghiên cứu để trở thành bác học. Ngược lại, họ muốn thành bác học bằng việc phê phán
các nhà bác học. Có một vị từng khá nổi danh, từng là viện trưởng viện Marx-Lenin, nhưng
đã công khai phê phán Marx [Hoàng Minh Chính]. Đến khi bị chỉ ra ông không hiểu gì về
Marx thì ông tức giận và nói rằng: “Marx chỉ là một thằng Do Thái”. Ông ta chỉ là một trong
vô số những người thích chế Marx mà không hiểu gì về Marx. Họ gán cho Marx những cái
không phải do Marx nghĩ ra. Nếu bạn xem ngay cả có những người, từng tự nhận làm cố vấn
cho Thủ Tướng, viết bài lên New York Times về bàn chân giận dữ cũng từng nói: “Marx rất
vĩ đại nhưng thế giới không có ông ta thì tốt hơn”. Các “luận điểm của Marx” mà vị “giáo
sư” này đưa ra khiến tôi nghĩ, Marx sống dậy chắc cũng phải nói: “Tôi có viết những này
đâu!”. Giới trí thức già đã thế, giới trẻ cũng nhiều cái đáng nói. Có người muốn làm công tác
giáo dục cho cả xã hội, nhưng anh ta nghĩ cái anh ta biết là chân lý, anh ta phủ nhận tất cả
những gì anh ta cho là sai, dù anh ta chẳng biết gì về nó. Phê phán đạo Phật dù không biết gì
về Phật giáo, ai nói trái ý thì anh ta bảo là mê tín, cuồng tín. Sự không khiêm tốn khiến cho
cái nhìn của anh ta nằm gọn ở trong cái mép của bờ giếng và nghĩ bầu trờ chỉ là như thế.
Những ví dụ trên đều là thật, tôi không nhắc tên nhưng đưa ra để các bạn thấy nhìn vào họ
không phải là chê họ, mà là nhắc nhở mình. Giống như Đường Thái Tông năm xưa từng nói:
trông vào lịch sử, thấy người xưa sai cái gì để biết mà sửa mình.
Thứ hai là sự giấu dốt. Có người từng làm cải cách kinh tế Giá – Lương – Tiền. Vì làm sai
nên kinh tế đình đốn, chính ra phải nhìn vào đó mà biết mà sửa đổi. Nhưng vị này lại không
tự mình nhận sai, mà quay ra nói Marx dạy thế. Cái khổ là Marx không có dạy thế. Cãi nhau
với người chết bao giờ cũng dễ nhất vì họ không thể tranh luận ngược lại với mình. Và giờ
ông ta thành người đi bêu xấu học thuyết Marx. Ông ta đang làm tấm gương xấu cho người
học về hai điều: Một là về sự không Dũng Cảm, không dám nhận sai, giấu dốt. Hai là về tạo
ấn tượng sai về Marx và học thuyết của ông khiến con đường tiếp cận với cách hiểu đúng bị
hẹp dần. Thầy không khiêm tốn thì trò hỏng, trò hỏng thì đất nước tụt lùi. Vậy nên những ai
định làm thầy thì hãy suy nghĩ thật kỹ, hãy kiểm điểm để còn làm gương cho các thế hệ học

trò. Thêm một hiện tượng diễn ra khá phổ biến hiện nay là trong tranh luận, đặc biệt các vấn
đề chính trị, nhiều bạn không tranh luận hay thảo luận để tìm ra cái đúng, cái chính xác mà
chỉ biết gân cổ lên cãi, cãi cùn cũng được miễn là thắng. Khi người khác không nói nữa họ
nghĩ họ đã thắng. Họ không hiểu rằng dành thời gian cho những người như họ là một sự phí
phạm.
Thứ ba, sự không Khiêm Tốn dẫn đến việc nói thì nhiều mà làm thì ít. Một số người cho
mình cái quyền chê bai, quyền nói mà kể cả nói không đúng. Họ bất mãn với đất nước và rồi
chửi lãnh đạo. Tôi tự hỏi họ đã đóng góp được gì nhiều cho đất nước chưa, hay họ chỉ thích
nói, chỉ cần nói là được. Nếu tự nhận thấy mình còn kém, còn chưa làm được gì thì hãy im
lặng mà làm. Nếu nói mà thay đổi được đất nước thì chắc Việt Nam thành cường quốc số 1
thế giới. Thực tại, hiện nay chúng ta đang là cường quốc chém gió số 1 thế giới mà thôi. Đất
nước tiến lên là do con người có làm hay không chứ không phải có nói hay không. Nói nhiều
không đẻ ra hạt gạo để ăn. Hơn thế, nó chỉ làm tốn thêm gạo. Tôi đặt câu hỏi, tại sao có những
vị muốn thay Hiến Pháp, muốn đòi tự do ngôn luận? Trước tiên là cho họ cái quyền được tự
do nói, nói lung tung, nói sai quấy, noi dối mà không chịu sự quản thúc. Lời nói cần cẩn
trọng. Tự do ngôn luận có nguy cơ mở màn cho một xã hội giả dối. Vậy nên nếu tự mình
không ý thức được trong lời nói thì cần phải có kỷ cương xã hội để chế định. Nếu không thì sẽ
có những việc như có con bé cần tiền mà tuyên truyền bán nước lại được nhóm nhóm các vị
nhân sĩ trí thức tôn lên giống như nhà cách mạng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành hay
anh hung tuổi thiếu niên Trần Quốc Toản. Tự do ngôn luận mà đổi trắng thay đen, nói dối như
thế thì tôt nhất đừng tự do.
Trên đây chỉ là đôi chút một số nhận định của mình, hy vọng sẽ không khiến các bạn khó
chịu. Đến đây cảm thấy đã dài, xin hết ở đây, có gì hẹn gặp ai thích đọc ở các bài viết ra sau
này.
……………………
6. Gần mực thì đen, Gần đèn thì sáng.
Bài làm
Từ xưa,trong cuộc sống lao động và chiến đấu của mình,nhân dân ta đã rút được biết bao bài
học quý giá. Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất,chiến đấu và cách ứng xử trong xã hội.
Đó là cách nhìn nhận mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của

mỗi người. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen,gần đen thì rạng” đã nói lên kinh nghiệm đó.
Để nêu lên một bài học,một kinh nghiệm trong cuộc sống,ông cha ta thường mượn hình
ảnh một sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của mình.Mực màu đen,tượng trưng
cho những cái xấu xa,những cái không tốt đẹp.Đèn là vật phát ra ánh sáng,soi tỏ mọi vật xung
quanh,tượng trưng cho những cái tốt đẹp,sáng sủa.Từ hai hình ảnh tương phản nhau “mực và
đèn”,câu tục ngữ đã đưa ra kết luận : “Gần mực thì đen,gần đèn thì rạng”. Đó là quy luật của
sự vật.
Dựa vào thực tế cuộc sống của con người,ta thấy câu tục ngữ hoàn toàn đúng khi xét trong
mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách mỗi người.Nhưng trong
vài trường hợp đặc biệt,có thể gần mực mà không đen,gần đèn mà không rạng.Vì con người
có khả năng vượt khỏi hoàn cảnh,chế ngự môi trường xung quanh.
Trong thực tế,hai mặt khả năng này không loại trừ nhau mà chúng bổ sung cho nhau,giúp
chúng ta hiểu một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành
nhân cách.
Trong kho tàng văn học dân gian,nhân dân ta có câu tương tự :
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
Và :
Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những câu ca dao,tục ngữ đó đã khẳng định ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội đối
với việc hình thành nhân cách.Trong thực tế cuộc sống,nhà trường làm công tác giáo dục tốt
vì nhà trường đã chú ý đến quang cảnh sư phạm và xây dựng môi trường xã hội tốt.Ở gia đình
cũng vậy, cha mẹ là những tấm gương sáng,anh chị em hòa thuận, thì gia đình sẽ có những
người con ngoan.
Ở lớp học cũng thế,lớp nào biết quan tâm xây dựng tập thể tốt,quan hệ giữa thầy và trò,bạn bè
đúng đắn,thân ái đoàn kết, thì lớp đó có nhiều học sinh giỏi,đạo đức tốt.Gần gũi hơn,trong
quan hệ bạn bè,nếu ta chơi với một người bạn tốt,chăm ngoan,học giỏi,thì chúng ta sẽ học tập
được những đức tính tốt ấy và sẽ trở thành người tốt.Ngược lại,trong một gia đình,nếu cha mẹ
không quan tâm đến con cái,anh em không nhường nhịn nhau,thì con cái trong gia đình cũng
dễ lười biếng,ăn chơi,đua đòi. Ở những môi trường xã hội phức tạp càng dễ sinh ra những

hành vi phạm pháp.
Trong thực tế,khó mà tạo ra một môi trường hoàn toàn lành mạnh và tốt đẹp.Trong xã hội cũ
cũng như trong xã hội chúng ta ngày nay,những yếu tố lành mạnh và chưa lành mạnh, tốt đẹp
và xấu xa thường xen kẽ vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Có lúc, có nơi, cái chưa lành
mạnh, cái chưa tốt đẹp lại lấn át cái đẹp, cái lành mạnh. Đó là lúc môi trường xã hội không
thuận lợi cho việc hình thành nhân cách.
Nhưng chính trong môi trường không thuận lợi ấy,vẫn có những con người có phẩm chất cao
đẹp,có tình cảm đạo đức tốt đẹp,có những hành động cao cả.Chính trong môi trường không
thuận lợi đó vẫn nở rộ những bông sen thơm ngát từ chốn bùn đen hôi tanh.Đó là những con
người biết vượt lên trên mọi cám dỗ thấp hèn,làm được những việc có ích cho đất nước và
cho chính bản thân mình.
Ngày nay, trên đất nước ta còn nhiều hiện tượng tiêu cực,mặc dù chế độ ta về cơ bản là tốt
đẹp. Do đó,bất cứ lúc nào, vẫn có những trường hợp gần mực mà không đen,gần đèn mà vẫn
tối tăm.
Sống trong môi trường tốt đẹp,nhưng chúng ta vẫn phải tiếp xúc với những hiện tượng không
lành mạnh, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Câu tục ngữ là một lời khuyên bảo sâu sắc,đã mang đến cho chúng ta một bài học bổ ích,có
cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách của
bản thân.Câu tục ngữ giúp chúng ta xác lập một thế đứng vững chắc trước những tác động
tiêu cực ngoài xã hội và nếu bị rơi vào một hoàn cảnh không thuận lợi,đầy rẫy những tiêu cực
thì chúng ta nên có quyết tâm vượt qua.Nó giúp chúng ta có tinh thần cảnh giác trước những
tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần mực mã vẫn không đen” và
chúng ta nên có ý chí quyết tâm trở thành một ngọn đèn luôn luôn tỏa sáng.
…………………………………
7.Lí tưởng là ngon đèn soi sáng
Bài làm
Cuộc sống ngày càng vận động và phát triển theo chiều hướng mới. Để tồn tại và có một cuộc
sống bền vững thì mỗi người chúng ta cần phải có một phương hướng sống nhất định, một lí
tưởng mà ta sẽ hướng tới để thực hiện trong suốt cuộc đời. Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi đã nói:
“Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định,

mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Vậy cuộc sống sẽ ra sao nếu mỗi người
không có lí tưởng xác định?Cuộc đời sẽ ra sao nếu mỗi người chỉ sống vì những mục đích
không rõ ràng và chỉ cho bản thân mình?
Thoạt đọc qua, ta sẽ cảm thấy câu nói trên hơi khó hiểu. “Lí tưởng” là gì? Đó chính là cái đích
của cuộc sống mà mỗi con người khát khao đạt được. Còn “ngọn đèn”, đó là một vật dùng để
thắp sáng vào ban đêm, nhờ có nó mà ta thấy được rõ đường đi và những vật xung quanh.
“Phương hướng kiên định” chính là mục tiêu, là đường lối xác định sẽ thực hiện một cách
quyết tâm và không thay đổi. "Cuộc sống" là cuộc đời thực tiễn của mỗi người, nhưng đó sẽ
là cuộc đời có ý nghĩa, cuộc đời tươi đẹp khi mà con người sống chứ không phải tồn tại. Cuộc
sống đó là thành quả rực rỡ của một cuộc sống có lí tưởng. Qua đó, ta thấy câu nói của Lép
Tôn-xtôi mang một nghĩa rất rõ ràng: sống trên đời, mỗi con người cần phải có riêng cho
mình một lí tưởng sống, đó chính là ngọn đèn chỉ phương rõ ràng nhất. “Lí tưởng” rất quan
trọng với chúng ta. Vì nếu sống mà không có lí tưởng thì chúng ta sẽ khó mà xác định những
việc nên làm, còn nếu có xác định được thì cũng không có quyết tâm để thực hiện cho tới nơi
chốn. Như trong học tập, nếu không chắc chắn mục tiêu học để làm gì thì khi gặp khó khăn, ta
dễ buông xuôi và không chịu cố gắng. Bên cạnh đó, khả năng thực hiện sai hướng hay cảm
thấy khó khăn hơn khi không xác định được lí tưởng là rất lớn. Chẳng hạn ta muốn trở thành
bác sĩ nhưng không xác định được là sẽ trở thành bác sĩ gì, thì khi dấn thân vào con đường
học vấn ta sẽ cảm thấy lạc lõng với chính mục tiêu mình đề ra. Và cuộc sống sẽ tẻ nhạt biết
bao khi con người ta sống thiếu “lí tưởng”. Thiếu lí tưởng, ta dễ nản chí, ta dễ cảm thấy buồn
chán với chính cuộc đời của mình. Vậy một người có lí tưởng là người như thế nào? Đó chính
là người luôn xác định rõ mục tiêu sống và tận tuỵ với những việc mà mình cần hoàn thành,
thể hiện rõ thái độ quyết tâm vươn tới sự hoàn thiên bản thân, mong muốn cống hiến cho sự
nghiệp chung. Hơn thế nữa đó là một người sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng của mình, chấp nhận
sự thất bại và khó khăn để đạt đến cái đích cuối cùng của cuộc đời. Đôi khi lí tưởng của một
người chỉ là kiếm được việc làm ổn định và có một gia đình đầm ấm nhưng để thực hiện được
thì người đó cũng phải trải qua nhiều khó khăn. Và dù cho đó chỉ là một lí tưởng tưởng chừng
như rất đơn giản nhưng vẫn xứng đáng nhận được sự tôn trọng từ những người xung quanh.
Vì người đó đã có được lí tưởng riêng để thực hiên chứ không như nhiều người sống hơn nửa
cuộc đời vẫn chưa biết đâu là lí tưởng của đời mình và vẫn còn đang quẩn quanh…Ngày 5-6-

1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi với một lí tưởng suốt đời “tìm ra con
đường giải phóng đất nước, quyết tâm vì Tổ quốc độc lập, vì dân tộc Việt Nam tự do và bền
vững”. Đó cũng chính là lí tưởng của tất cả thanh niên trong thời chiến. Nhưng ngày nay khi
đất nước ta đã hoàn toàn độc lập và đang trên đà phát triển nhanh thì lí tưởng của thanh niên
đã khác đi rất nhiều. Tất nhiên mỗi thanh niên sẽ có cho mình một lí tưởng riêng, tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh sống, địa vị và cách sống của mỗi người nhưng nếu lí tưởng đó chỉ phục vụ
cho lợi ích của bản thân thì đó không hoàn toàn là lí tưởng mà đó chính là lối suy nghĩ ích kỉ
và cá nhân. Vì thế thanh niên ngày nay cần có một lí tưởng chung là: không ngừng phấn đấu
vì một đất nước Việt Nam “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Mà
muốn có được những lí tưởng có nghĩa cho bản thân và cho xã hội như vậy thì mỗi người
nhất là thanh niên học sinh ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã xác định được cho mình
mục đích của việc học tập, phân biệt được mục đích đó là đúng hay sai và xác định xem khả
năng của mình có thực hiện được hay không. Bên cạnh đó cần biết lắng nghe lời khuyên của
những người xung quanh như cha mẹ, thầy cô để có một “phương hướng kiên định” cho chính
mình. Một xã hội sẽ phát triển vững bền khi có những con người có chung một lí tưởng cao
đẹp là sống vì Tổ quốc, vì mọi người.
Câu nói của Lép Tôn-xtôi đã để lại nhiều nghĩa thật sâu sắc và đầy tính nhân văn khi
ông đã nhấn mạnh sự quan trọng của lí tưởng đối với mỗi người qua việc ví lí tưởng với
phương hướng kiên định và cuộc sống. Cuộc sống ngày càng khác đi, mỗi người chúng ta cần
có một lí tưởng để thực hiện trong cuộc đời, em cũng vậy, em sẽ luôn phấn đấu để hoàn thành
lí tưởng của mình: trở thành một công dân có ích cho xã hội, đóng góp sức mình vì sự nghiệp
chung của dân tộc. Để mỗi ngày trôi qua, sẽ có thêm một ngày mới được chiếu sáng bởi lí
tưởng cuộc đời

8. Suy nghĩ về đức tính tự tin
Bài làm
Trong thực tế cuộc sống, ta có thể thấy được rất nhiều những danh nhân, những con người
thành đạt với sự thành công trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta thường hay đặt câu hỏi rằng tại sao
và bằng cách nào mà những người như thế có thể tiếp cận được sự thành công, ngoài những
đức tính, phẩm chất cần thiết như sự chăm chỉ, tài năng, linh hoạt trong giao tiếp, may mắn,…

Để có được những sự thành đạt như thế, con người cần có một phẩm chất không kém phần
quan trọng ở thời đại này, đó chính là sự tự tin. Vậy sự tự tin là gì và nó có tầm quan trọng
như thế nào trong cuộc sống mỗi con người?
Tự tin là tin vào chính bản thân mình, tin vào chính giá trị, những phẩm chất tốt đẹp đang
tồn tại bên trong con người mình, tin vào những thành công, những thành quả mà mình đã đạt
được trong quá khứ để vững bước đón nhận những thử thách mới trong tương lai; tin vào tài
năng của mình, những ước mơ tốt đẹp mà mình theo đuổi và tin rằng dù có phải thất bại đi
chăng nữa, mình vẫn có thể thực hiện được nó ở những lần sau.
Tự tin trái ngược với sự hèn nhát, rụt rè, thiếu niềm tin vào bản thân và lo sợ phải thất
bại, không dám theo đuổi ước mơ. Sự tự tin trong cuộc sống có thể được biểu hiện ở những
việc làm nhỏ nhất như tự tin thuyết trình bài học trước lớp, tự tin đóng góp phát biểu ý kiến
của mình cho tập thể lớp; cho đến những việc làm lớn hơn như công bố phát minh của một
nhà khoa học hay một nhà văn cho ra đời tác phẩm của mình trước công chúng, và còn rất
nhiều biểu hiện của sự tự tin trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết.
Tự tin là một phẩm giá mà mỗi cá nhân cần phải hướng tới và rèn luyện để có thể tồn tại
và phát triển trong cuộc sống và sự nghiệp. Với sự tự tin, chúng ta sẽ tạo được một nền móng
vững chãi trong tâm hồn, một bản lĩnh vững chắc của bản thân, từ đó chúng ta có thể xác định
rõ rang rằng: chúng ta là ai trong cuộc đời này, xác định rõ con đường chúng ta sẽ đi trong
cuộc đời, sự nghiệp. Chỉ có thế chúng ta mới có thể hình thành và theo đuổi ước mơ đúng đắn
của chính bản thân mình, cũng là thể hiện bản thân.
Đồng thời, sự tự tin trong cuộc sống hay công việc thường nhật mang đến cho ta khả năng
quyết đoán trong việc lựa chọn khi mắc phải những vấn đề cần sự giải quyết. Những sự lửa
chọn có thể là rất nhỏ như chọn đề trong một bài kiểm tra Văn hay lớn hơn là sự chọn ban
ngành, công việc mà chúng ta sẽ làm trong tương lai, dù là lớn hay nhỏ thì sự tự tin và quyết
đoán cũng đều ảnh hưởng đến kết quả mà chúng ta đạt được sau này.
Nếu không có sự tự tin thì làm sao chúng ta dám chọn đề văn khó hơn trong khi chúng ta
đủ khả năng làm được, hay là chọn ban ngành mà mình yêu thích để mà theo đuổi. Kế đến,
người tự tin sẽk hông ngần ngại trước bất cứ một công việc nào dù công việc đó có quá sức
với họ đi chăng nữa và họ có thể thất bại. Qua đó, ta có thể thấy được: tự tin như một nguồn
động lực giúp cho ta có thể chấp nhận đương đầu với những thử thách trong cuộc sống, dù

thành công hay thất bại thì đó cũng là cơ hội để chúng ta học thêm những kiến thức mới, phát
hiện, đào sâu những phẩm chất tồn tại bên trong con người chúng ta mà bấy lâu naychúng ta
không biết.
Nếu ta không chịu đứng ra thuyết trình bài học của mình trước lớp thì làm sao chúng ta
có thể biết kĩ năng nói của mình đến đâu để mà sửa chữa, bồi dưỡng? Quan trọng hơn, sự tự
tin sẽ tiếp cho ta thêm sức mạnh và nghị lực để có thể vượt qua thất bại, khó khăn trước mắt
để tiến lên phía trước, đồng thời cũng là chìa khóa dẫn đến thành công trong công việc.
Điển hình cụ thể hơn: những người nói tiếng Anh giỏi chắc chắn phải có nhiều lần đứng
ra nói chuyện với người khác, người nước ngoài bằng tiếng Anh, cũng phải vấp những lỗi về
ngữ pháp, cách dùng từ, nhưng sự tự tin trong giao tiếp đã giúp họ vượt qua và đạt được thành
công trong việc học ngoại ngữ. Cuộc sống luôn đầy rẫy những thử thách, nếu chúng ta không
tự tin, tin vào chính mình để vượt qua thì thành công sẽ khó mà đến với chúng ta.
Hầu như ai cũng biết, tự tin là một kĩ năng, phẩm chất cần thiết cho con người. Thế
nhưng không phải ai cũng có trong người sự tự tin ấy. Trong cuộc sống, chúng ta vẫn quan sát
thấy được những người nhút nhát, thiếu niềm tin vào bản thân, hay thích dựa dẫm vào kẻ
khác, vào cha mẹ, dẫn đến sự thiếu kĩ năng và kiến thức cần thiết. Điển hình là một số bạn trẻ,
dù đã bước sang tuổi trưởng thành rồi mà vẫn không tự tin dấn thân vào đời, tự lập để mà
kiếm sống, vẫn ăn bám vào cha mẹ cung cấp, kĩ năng sống thì không có, sống vật vờ vô ích
như một người thừa của xã hội.
Một số kẻ còn thiếu tự tin đến mức không dám chấp nhận những thử thách trong công
việc, để học những cơ hội thăng tiến bay qua mà không muốn nắm bắt vì sợ thất bại, không
tin vào những khả năng của bản thân mình có thể làm được. Trong việc chọn ngành nghề của
học sinh sau khi tốt nghiệp THPT, đa số các bạn học sinh đều thi vào những trường như Kinh
tế, Bách khoa, Ngoại thương,… với những ngành thật “hot” có thể gặt tiền nhiều mà không
nghĩ đến tài năng của mình không thuộc những phạm trù của những ngành nghề ấy, không tự
tin vào năng lực thực của mình mà chỉ muốn a dua theo kẻ khác.
Tệ hơn nữa là có một số người tự tin quá mức đâm ra chủ quan, tự phụ vào chính bản
thân mình, xem trọng và đề cao cái tôi của mình, xem thường người khác. Ắt hẳn khi còn bé,
chúng ta đã đều được đọc truyện ngụ ngôn “Rùa và Thỏ”, Thỏ đã chủ quan quá mức nên thua
ê chề trong cuộc đua với Rùa. Những người chủ quan như thế sẽ khó tránh khỏi thất bại.

Đồng thời, hcúng ta cũng cần phải hiểu tự tin thôi vẫn chưa đủ để dẫn đến thành công, cần có
sự hỗ trợ của đức tính khác như cần cù, sự khéo léo, linh hoạt trong công việc,… và cả sự
giúp đỡ của người khác để vươn tới thành công mai sau.
Việc rèn luyện một phẩm chất cho mình là một việc không dễ dàng thực hiện. Là một học
sinh, trước tiên em phải ra sức học tập thật là tốt để tạo cho mình một nền móng kiến thức thật
vững chãi, không ngừng ra sức học hỏi để phát huy tài năng bản thân. Từ đó, em có thể thực
hiện việc rèn luyện từ những công việc làm nhỏ nhất như tự tin giơ tay phát biểu ý kiến của
mình trước lớp, khắc phục sự rụt rè sợ sai khi phát biểu xây dựng bài học, kế đến nữa, em sẽ
tham gia các hoạt động của trường, lớp, đoàn thể, tự tin trong giao tiếp và dũng cảm xung
phong nhận lãnh những trách nhiệm phù hợp với sức của mình để thực hiện nó. Đến kì thi Đại
học, sẽ chẳng có lí do gì để em từ chối thi vào trường Xã hội nhân văn khoa Tâm lý học, theo
đuổi ước mơ của chính em.
Về phía gia đình, đặc biệt là các bậc cha mẹ cần đặc biệt chú ý rèn luyện đức tính tự tin
cho con em mình ngay từ khi chúng còn nhỏ, như khen con khi con làm việc tốt, tôn trọng,
khuyến khích những quyết định riêng tư chính đáng của con cái và biết lắng nghe, động viên,
an ủi chúng khi cần thiết. Về phía nhà trường và xã hội, cần có những buổi hội thảo dành cho
giới trẻ về “sự tự tin”, giáo dục một cách rõ ràng mà không sơ sài chung chung, gần gũi mà
không cứng nhắc và lý thuyết suông, gần gũi với thực tế cuộc sống của chúng em, chú trọng
hơn về việc tư vấn tâm lí tuổi vị thành niên, định hướng tương lai cho học sinh.
Tự tin là chiếc chìa khóa dẫn đến sự thành đạt trong cuộc sống, vậy chúng ta hãy rèn
luyện nó ngay từ bây giờ để trở thành một con người năng động , bản lĩnh trong xã hội, tồn tại
một niềm tin mãnh liệt vào bản thân trước chông gai cuộc đời.

9. TỰ TI VÀ TỰ PHỤ
Bài làm
Bản thân mỗi con người ai cũng có lối sống , phẩm chất, năng lực khác nhau. Nhưng
điều đó được thể hiện ra bên ngoài khác nhau. Có người quá tự ti luôn nghĩ năng lực mình
thấp kém, có người thì tự phụ nghĩ năng lực mình hơn nhiều người khác Đó là hai căn bệnh
có ảnh hưởng đến học tập và công tác.
Vậy tự ti là gì và biểu hiện của nó như thế nào . Tự ti là tự đánh giá thấp mình nên thiếu tự

tin trong công việc . tự ti hoàn toàn khác với khiêm tốn . khiêm tốn là nhúng nhường, không
khoe khoang . khiêm tốn là một đức tính tốt , giúp người ta được lòng mọi người , được mọi
người ủng hộ nên rất dẽ thành công trong công việc . Ngược lại kẻ tự ti thương không dám tin
tưởng vào năng lực, sở trường sự hiểu biết, kiến thức của mình. Họ nhút nhắt thường tránh xa
những chỗ đông người. Không dám mạnh dạng đảm nhận trách nhiệm được giao. Vì thế họ
thường lo sợ thất bại nên họ phải chịu nhiều hậu quả đáng tiếc. Vì sợ thất bại nên họ thường
không có sự mạnh dạng trong công việc nên không bao giờ họ thành công . vì tính nhút nhát
tránh xa chỗ đông người nên họ rất ít bạn và không nhận được sự giúp đỡ của mọi người khi
thất bại. Những kẻ ti thường nhút nhát không dám đảm nhận công việc , làm ảnh hưởng đến
tập thể chung và bản thân
Còn tự phụ là gì và biểu hiện của tự phụ như thế nào . tự phụ là thái độ đề cao quá mức
bản thân, tự cao tự đại đến mức xem thường người khác . tự phụ hoàn toàn khác với tự hào.
Tự hào là niêm kiêu hảnh, hảnh diện về bản thân vì đã thành công, niêm vui sướng hạnh phúc
khi giúp ích cho bản thân . ngược lại kẻ tự phụ luôn tự đề cao quá mức bản thân nên rất dễ bị
xa lánh , chủ quan và thường bị thất bại trong công việc kể cả học tập . Người tự phụ luôn tự
cho mình là đúng ở mọi việc thì họ không bao giờ nghe những ý kiến của người khác để khác
phục thường hay bảo thủ. Khi làm được việc gì đó lớn lao thậm chí tỏ ra coi thường , lên mặt
với người khác, tự cho mình là giởi giang. Những tính xáu này thường có ảnh hưỡng rất lớn
đến bản thân làm họ bị mọi người xa lánh tẩy chay, chủ quan nên dẫn đến thất bại, bảo thủ
không nghe ý kiến người khác dể khắc phục bản thân. Chia rẻ mất đoàn kết gây ảnh hưởng
xấu đến học tập và công việc.
Tóm lại chúng ta cần phải đánh giá đúng khả năng bản thân. Tự tin nhưng không tự ti .
tự hào nhưng không tự phụ có như thế mới là con người văn minh tiến bộ và mỗi người mới
phát huy tốt sở trường của mình.

10 SỰ TỰ TIN
Bài làm
Trong thực tế cuộc sống, ta có thể thấy được rất nhiều những danh nhân, những con
người thành đạt với sự thành công trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta thường hay đặt câu hỏi rằng
tại sao và bằng cách nào mà những người như thế có thể tiếp cận được sự thành công, ngoài

những đức tính, phẩm chất cần thiết như sự chăm chỉ, tài năng, linh hoạt trong giao tiếp, may
mắn,… Để có được những sự thành đạt như thế, con người cần có một phẩm chất không kém
phần quan trọng ở thời đại này, đó chính là sự tự tin. Vậy sự tự tin là gì và nó có tầm quan
trọng như thế nào trong cuộc sống mỗi con người?

Tự tin là tin vào chính bản thân mình, tin vào chính giá trị, những phẩm chất tốt đẹp đang
tồn tại bên trong con người mình, tin vào những thành công, những thành quả mà mình đã đạt
được trong quá khứ để vững bước đón nhận những thử thách mới trong tương lai; tin vào tài
năng của mình, những ước mơ tốt đẹp mà mình theo đuổi và tin rằng dù có phải thất bại đi
chăng nữa, mình vẫn có thể thực hiện được nó ở những lần sau. Tự tin trái ngược với sự hèn
nhát, rụt rè, thiếu niềm tin vào bản thân và lo sợ phải thất bại, không dám theo đuổi ước mơ.
Sự tự tin trong cuộc sống có thể được biểu hiện ở những việc làm nhỏ nhất như tự tin thuyết
trình bài học trước lớp, tự tin đóng góp phát biểu ý kiến của mình cho tập thể lớp; cho đến
những việc làm lớn hơn như công bố phát minh của một nhà khoa học hay một nhà văn cho ra
đời tác phẩm của mình trước công chúng, và còn rất nhiều biểu hiện của sự tự tin trong cuộc
sống mà chúng ta không thể kể hết.

Tự tin là một phẩm giá mà mỗi cá nhân cần phải hướng tới và rèn luyện để có thể tồn tại
và phát triển trong cuộc sống và sự nghiệp. Với sự tự tin, chúng ta sẽ tạo được một nền móng
vững chãi trong tâm hồn, một bản lĩnh vững chắc của bản thân, từ đó chúng ta có thể xác định
rõ rang rằng: chúng ta là ai trong cuộc đời này, xác định rõ con đường chúng ta sẽ đi trong
cuộc đời, sự nghiệp. Chỉ có thế chúng ta mới có thể hình thành và theo đuổi ước mơ đúng đắn
của chính bản thân mình, cũng là thể hiện bản thân. Đồng thời, sự tự tin trong cuộc sống hay
công việc thường nhật mang đến cho ta khả năng quyết đoán trong việc lựa chọn khi mắc phải
những vấn đề cần sự giải quyết. Những sự lửa chọn có thể là rất nhỏ như chọn đề trong một
bài kiểm tra Văn hay lớn hơn là sự chọn ban ngành, công việc mà chúng ta sẽ làm trong tương
lai, dù là lớn hay nhỏ thì sự tự tin và quyết đoán cũng đều ảnh hưởng đến kết quả mà chúng ta
đạt được sau này. Nếu không có sự tự tin thì làm sao chúng ta dám chọn đề văn khó hơn trong
khi chúng ta đủ khả năng làm được, hay là chọn ban ngành mà mình yêu thích để mà theo
đuổi. Kế đến, người tự tin sẽk hông ngần ngại trước bất cứ một công việc nào dù công việc đó

có quá sức với họ đi chăng nữa và họ có thể thất bại. Qua đó, ta có thể thấy được: tự tin như
một nguồn động lực giúp cho ta có thể chấp nhận đương đầu với những thử thách trong cuộc
sống, dù thành công hay thất bại thì đó cũng là cơ hội để chúng ta học thêm những kiến thức
mới, phát hiện, đào sâu những phẩm chất tồn tại bên trong con người chúng ta mà bấy lâu
naychúng ta không biết. Nếu ta không chịu đứng ra thuyết trình bài học của mình trước lớp thì
làm sao chúng ta có thể biết kĩ năng nói của mình đến đâu để mà sửa chữa, bồi dưỡng? Quan
trọng hơn, sự tự tin sẽ tiếp cho ta thêm sức mạnh và nghị lực để có thể vượt qua thất bại, khó
khăn trước mắt để tiến lên phía trước, đồng thời cũng là chìa khóa dẫn đến thành công trong
công việc. Điển hình cụ thể hơn: những người nói tiếng Anh giỏi chắc chắn phải có nhiều lần
đứng ra nói chuyện với người khác, người nước ngoài bằng tiếng Anh, cũng phải vấp những
lỗi về ngữ pháp, cách dùng từ, nhưng sự tự tin trong giao tiếp đã giúp họ vượt qua và đạt được
thành công trong việc học ngoại ngữ. Cuộc sống luôn đầy rẫy những thử thách, nếu chúng ta
không tự tin, tin vào chính mình để vượt qua thì thành công sẽ khó mà đến với chúng ta.

Hầu như ai cũng biết, tự tin là một kĩ năng, phẩm chất cần thiết cho con người. Thế
nhưng không phải ai cũng có trong người sự tự tin ấy. Trong cuộc sống, chúng ta vẫn quan sát
thấy được những người nhút nhát, thiếu niềm tin vào bản thân, hay thích dựa dẫm vào kẻ
khác, vào cha mẹ, dẫn đến sự thiếu kĩ năng và kiến thức cần thiết. Điển hình là một số bạn trẻ,
dù đã bước sang tuổi trưởng thành rồi mà vẫn không tự tin dấn thân vào đời, tự lập để mà
kiếm sống, vẫn ăn bám vào cha mẹ cung cấp, kĩ năng sống thì không có, sống vật vờ vô ích
như một người thừa của xã hội. Một số kẻ còn thiếu tự tin đến mức không dám chấp nhận
những thử thách trong công việc, để học những cơ hội thăng tiến bay qua mà không muốn
nắm bắt vì sợ thất bại, không tin vào những khả năng của bản thân mình có thể làm được.
Trong việc chọn ngành nghề của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT, đa số các bạn học sinh
đều thi vào những trường như Kinh tế, Bách khoa, Ngoại thương,… với những ngành thật
“hot” có thể gặt tiền nhiều mà không nghĩ đến tài năng của mình không thuộc những phạm trù
của những ngành nghề ấy, không tự tin vào năng lực thực của mình mà chỉ muốn a dua theo
kẻ khác. Tệ hơn nữa là có một số người tự tin quá mức đâm ra chủ quan, tự phụ vào chính bản
thân mình, xem trọng và đề cao cái tôi của mình, xem thường người khác. Ắt hẳn khi còn bé,
chúng ta đã đều được đọc truyện ngụ ngôn “Rùa và Thỏ”, Thỏ đã chủ quan quá mức nên thua

ê chề trong cuộc đua với Rùa. Những người chủ quan như thế sẽ khó tránh khỏi thất bại.
Đồng thời, hcúng ta cũng cần phải hiểu tự tin thôi vẫn chưa đủ để dẫn đến thành công, cần có
sự hỗ trợ của đức tính khác như cần cù, sự khéo léo, linh hoạt trong công việc,… và cả sự
giúp đỡ của người khác để vươn tới thành công mai sau.

Việc rèn luyện một phẩm chất cho mình là một việc không dễ dàng thực hiện. Là một
học sinh, trước tiên em phải ra sức học tập thật là tốt để tạo cho mình một nền móng kiến thức
thật vững chãi, không ngừng ra sức học hỏi để phát huy tài năng bản thân. Từ đó, em có thể
thực hiện việc rèn luyện từ những công việc làm nhỏ nhất như tự tin giơ tay phát biểu ý kiến
của mình trước lớp, khắc phục sự rụt rè sợ sai khi phát biểu xây dựng bài học, kế đến nữa, em
sẽ tham gia các hoạt động của trường, lớp, đoàn thể, tự tin trong giao tiếp và dũng cảm xung
phong nhận lãnh những trách nhiệm phù hợp với sức của mình để thực hiện nó. Đến kì thi Đại
học, sẽ chẳng có lí do gì để em từ chối thi vào trường Xã hội nhân văn khoa Tâm lý học, theo
đuổi ước mơ của chính em. Về phía gia đình, đặc biệt là các bậc cha mẹ cần đặc biệt chú ý rèn
luyện đức tính tự tin cho con em mình ngay từ khi chúng còn nhỏ, như khen con khi con làm
việc tốt, tôn trọng, khuyến khích những quyết định riêng tư chính đáng của con cái và biết
lắng nghe, động viên, an ủi chúng khi cần thiết. Về phía nhà trường và xã hội, cần có những
buổi hội thảo dành cho giới trẻ về “sự tự tin”, giáo dục một cách rõ ràng mà không sơ sài
chung chung, gần gũi mà không cứng nhắc và lý thuyết suông, gần gũi với thực tế cuộc sống
của chúng em, chú trọng hơn về việc tư vấn tâm lí tuổi vị thành niên, định hướng tương lai
cho học sinh.

Tự tin là chiếc chìa khóa dẫn đến sự thành đạt trong cuộc sống, vậy chúng ta hãy rèn
luyện nó ngay từ bây giờ để trở thành một con người năng động , bản lĩnh trong xã hội, tồn tại
một niềm tin mãnh liệt vào bản thân trước chông gai cuộc đời.

11. HỌC VẸT VÀ HỌC TỦ
Bài làm
"Học" là con đường tiếp thu tri thức để hoàn thiện phẩm chất của mỗi con người. Con
đường học vấn dài vô tận và muốn đạt đến đỉnh cao của học vấn thì có rất nhiều phương

pháp. Mỗi người đã chọn lựa cho mình một phương pháp để đi trên con đường chông gai đầy
thử thách này, nhưng đáng tiếc rằng đa số học sinh ngày nay lại chọn cho mình một phương
pháp học rất dễ thực hiện nhưng lại dễ làm cho họ vấp ngã mà đã vấp ngã thì họ khó tài nào
đứng dậy nổi.Phương pháp nguy hiểm đó chính là "học vẹt" và "học tủ".
"Học vẹt" là thuộc làu làu những khái niệm, những định nghĩa, những kiến thức
nhưng không hề hiểu gì về kiến thức, định nghĩa, khái niệm đó. Biểu hiện của nó là lý thuyết
thì thuộc làu nhưng áp dụng kiến thức đó vào thực hành thì "bó tay". "Học tủ" hơi khác so với
"học vẹt". "Học tủ" là chọn một phần kiến thức trong vô vànkiến thức để học và nghĩ rằng
kiến thức đó sẽ có trong kỳ thi.
Tuy khái niệm về hai phương pháp học trên là khác nhau nhưng nó đều cùng
một nguyên nhân. Nguyên nhân để học sinh ngày nay chọn phương pháp "học vẹt", "học
tủ" là họ không hiểu được tầm quan trọng của học vấn. Họ học chỉ là để đối phó, kiếm
cái bằng để dễ dàng kiếm việc, lo việc mưu sinh cho bản thân mà họ không biết rằng họ
dễ dàng sa vào vũng bùn khó có thể đứng dậy nổi. Một nguyên nhân nữa đó là họ lười
học, lười suy nghĩ. Bộ não của họ không còn chỗ để tiếp thu cái mới, tiếp thu kiến thức
một cách toàn diện và hiệu quả nữa, thay vào đó là những kiểu ăn mặc thời trang, trò
chơi không lành mạnh cứ bám trong đầu óc họ như một kí sinh làm tê liệt thần kinh họ.
"Học vẹt", "học tủ" mang đến tác hại rất nghiêm trọng cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tuy lý thuyết thì thuộc lòng nhưng không hiểu để áp dụng vào đời sống, công việc.
"Học trước quên sau", kiến thức chưa kịp bám vào bộ não thì đã bị những sở thích tầm
thường đẩy ra ngoài mà không thể chống cự. Không những thế, "học tủ"còn gây thêm hại
nữa đó là kiến thức cơ bản, kiến thức toàn diện không nắm được. Mọi công sức, nỗ lực dạy
dỗ của thầy cô, cha mẹ đều bị đổ xuống sông xuống bể và lỡ may đến kỳ thi bị "lệch tủ"
thì "xôi hỏng bỏng không".
Tác hại của nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn gây ra một sự truyền
nhiễm nghiêm trọng. Từ một cá nhân dùng phương pháp này thì ai mà không có "sức
đề kháng" cao sẽ dễ dàng bị truyền nhiễm. Họ dễ học theo, làm theo miễn là những gì mà họ
học theo, làm theo đó có lợi trước mắt cho họ.
Nếu không chữa ngay từ lúc nó còn "trứng nước" thì "học vẹt", "học tủ" sẽ mang lại
hậu quả rất nghiêm trọng. Việc đầu tiên là chúng ta phải xác định được tầm quan trọng

của học vấn. Bởi có thế chúng ta mới chọn lựa, định hướng được cho tương lai của mình,
chọn cho mình con đường đi đúng nhất để hoàn thiện chính mình.Có hiểu và xác định được
sự quan trọng của học vấn thì chúng ta mới có động lực học tập và chọn lựa phương pháp học
đúng đắn. Nhiệm vụ cần thiết thứ hai là gia đình xã hội phải tuyên truyền chỉ bảo, dạy dỗ cho
học sinh ngày nay khi còn nhỏ. Phải cho học sinh hiểu rõ, nắm rõ sự quan trọng của học vấn
để mỗi người biết vượt lên chính mình, bỏ qua thú vui tầm thường để dành thời gian, tâm trí
cho việc học tập.
Nếu ai cũng có ý thức, có định hướng cho riêng mình, biết suy nghĩ về hành vi, việc
làm của mình thì tin chắc rằng sẽ không còn ai nhắc đến căn bệnh "học vẹt", "học tủ"
nữa. Lúc đó mỗi học sinh sẽ có những kiến thức cần thiết để chuẩn bị hành trang bước
vào đời góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh
……………………………………
12. LÒNG YÊU NƯỚC
Bài làm
Văn hào Nga Ylia Erenbua đã từng viết trong một bài luận văn nổi tiếng Lòng yêu nước:
“Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà,
yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo
nguyên có hơi rượu mạnh Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu
Tổ quốc”.
Đó là người Nga yêu nước Nga, nhưng nguồn cội của tình yêu nước thì vẫn vậy, dù cái
cụ thể cho tình yêu này trao gửi có khác với VN ta. Nếu là người VN, thì “Lòng yêu nước ban
đầu ” có thể sẽ là yêu lũy tre xanh bao quanh làng, yêu dòng sông chảy trước nhà, yêu chân
ruộng thơm mùi gốc rạ, yêu con cò đứng khoan thai trên đồng bên dáng mẹ còng lưng làm cỏ
lúa
Cứ nghĩ xem, 4.000 năm qua từ thuở vua Hùng dựng nước, ông cha ta đã để lại những
biểu tượng gì cho cháu con gửi vào đó lòng yêu nước sâu thẳm nhất? Vua Hùng đã đi cày
ruộng, và người dân ở thời đại Hùng Vương đã biết trồng lúa nước. Lang Liêu đã dâng lên
vua cha bánh chưng và bánh dầy, biểu tượng cho trời đất, nhưng cũng là biểu tượng cho làng
quê trồng lúa nước. Và cao hơn, là biểu tượng cho lòng tôn kính, yêu thương và biết ơn với tổ
tiên, với các đấng sinh thành ra mình. Yêu cha mẹ, yêu ông bà, yêu tổ tiên cũng là bắt đầu cho

tình yêu Tổ quốc. Cây lúa, chân ruộng chính là cái mà mười tám đời vua Hùng để lại cho
muôn đời con cháu. Nước ta có thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng không thể, không
bao giờ được để mất những biểu tượng, những hình ảnh của làng quê đã hình thành từ thời
các vua Hùng.
Các dân tộc VN đa tôn giáo, nhưng người Việt có một tập tục thành kính và tuyệt đẹp,
đó là tục thờ cúng ông bà. Mỗi khi chúng ta thắp nén hương trước bàn thờ các vua Hùng,
trước bàn thờ tổ tiên ông bà, tự nhiên có cảm giác trong huyết quản ta đang lưu chuyển dòng
máu Việt tự nghìn năm, và ta lại có một phút thanh thản để tự soi xét mình và để nhận những
lời di huấn thiêng liêng từ tổ tiên ông bà: phải sống làm sao cho có nghĩa có nhân, cho ra một
con người thuộc dòng giống Lạc Việt. Niềm tự hào chỉ đưa ta đi lạc hướng một khi ta không
biết mình tự hào về cái gì. Còn khi đã xác định, thì niềm tự hào là con cháu vua Hùng, là
người Việt mãi mãi là niềm tự hào chính đáng. Không phải để hơn thua với ai, mà để tự tin
vào những gì tốt đẹp mà mình đã được nhận, được trao truyền trong suốt cuộc đời này. Từ các
vua Hùng, từ lũy tre xanh, từ chân ruộng tỏa mùi bùn non:

“Cứ gì mùi thơm mới khiến nhớ lâu
khi bùn non nối đời anh với đất
khi bàn chân dẫm gai cào đá sắc
là để cho bùn ruộng nhuyễn hơn thôi
cho đồng ta lúa chạy ngút chân trời
và gần lại dáng mẹ hiền xuống mạ”
…………………………
13. TIN THẦN TỰ HỌC
Bài làm
Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì việc học tập cũng phát triển theo. Chính vì
vậy giới học sinh chúng ta đã sáng tạo ra rất nhiều cách học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất
cho bản thân. Nhưng theo tôi: trong học tập, tự học là cách học tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn
trong khi học. Và khi nói đến vấn đề này, tôi muốn mọi người có một cách nhìn khách quan
và đầy ý nghĩa của việc học rồi mới đến cách tự học. Vậy học là gì ?
Tự học là gì ? Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng do người

khác truyền lại và tự học là việc con người phát huy những kiến thức,kĩ năng đã được truyền
lại bằng chính sức lực,khả năng của riêng mình. Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của
các bạn chưa mang lại hiệu quả cao. Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng
của thầy cô trên lớp, thầy cô dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình
thụ động, thiếu suy nghĩ và sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến thức còn ẩn sâu
các bài giảng của thầy cô. Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mười
lăm phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm tràn lan. Mà
khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến mọi người không chịu tự học, càng thêm phụ thuộc
vào việc học thêm. Thêm việc ngày nay khi việc học được nâng cao thì có quá nhiều sách
tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn dẫn đến việc học sinh đâm lười suy nghĩ trong khi làm các
bài tập.
Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện tượng "học vẹt":
học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đền được nêu ra trong bài dẫn đến việc học
xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không làm được các bài tập thực hành, chỉ học
lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng rỗng, thành tích học tập sẽ càng sút kém khiến mọi
người đâm nãn chí. Một khi kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao
giờ cao.
Chính những thực tế được nêu trên lại càng khẳng định việc tự học cho bản thân là rất
quan trọng. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp ta
thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học cho bản thân thì chúng ta chắc chắn sẽ
thành công và nâng cao được tri thức của chính mình. Tự học giúp con người có được ý thức
tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được
bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như
sách, báo, từ truyền hình ti vi,từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh,những kinh nghiệm
sống của nhân dân. Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp,tiết kiệm
được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và
qua tự học, từ lí thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành,giúp ta có thể nhanh
chóng hình thành kĩ năng,củng cố và nâng cao kiến thức đã học.Vì vậy,chủ động tự học sẽ
giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân
mình.Ví như các vị danh nhân nổi tiếng trên thế giới thành đạt trong sự nghiệp học tập,có

được kiến thức uyên thâm cũng là nhờ biết chủ động tự học mà dẫn đến thành công như Thần
đồng Lương Thế Vinh khi xưa,nhờ cố gắng chủ động tự học cộng với phẩm chất thông minh
trời ban mà sau đỗ trạng,chế ra bảng cửu chương còn lưu truyền mãi đến ngày nay hayTrạng
nguyên lừng danh Mạc Đỉnh Chi, lúc nhỏ nhờ biết chủ động tự học, sáng tạo cách học bắt
đom đóm bỏ vỏ trứng mà sau đỗ trạng, đi xứ làm rạng danh nước nhà, được phong "Lưỡng
Quốc Trạng Nguyên" vang danh hai nước, ghi vào sử sách nhân loại về những tấm gương tự
học sáng ngời. Tuy phương pháp tự học đã có từ lâu đời những đó là một phương pháp rất có
hiệu quả cho việc học tập.Tôi khẳng định rằng tự học là chìa khóa,là con đường đưa ta đến
thành công Vị lãnh tụ vĩ đại ngày trước của dân tộc Việt Nam ta cũng đã từng nỗ lực tự học,
Bác đã tự say mê tìm tòi học hỏi và đã thành công,thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các
nước trên thế giới và tìm ra được con đường cứu nước,đưa cả dân tộc Việt Nam ra khỏi ách
đô hộ của giặc Tây tàn ác, hướng đến nền độc lập,dân chủ,tự do,hạnh phúc ngày nay.
Chính vì vậy,tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập,mang lại một kết
quả học tập cao nhất có thể.Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học,chúng ta sẽ thành công,sẽ mở
được một tương lai rộng mở cho chính mình.Nếu chúng ta học tập thành công,chúng ta sẽ trở
thành những người có ích cho xã hội,cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát triển
đến một tầm cao mới.
…………………………….
14. HỌC ĐỐI PHÓ
Bài làm
Giáo dục là một vấn đề được xã hội Việt Nam chú ý đến rất nhiều trong những năm đầu
của thế kỉ XXI. Mặc dù đây là một trong những ngành quan trọng bậc nhất của đất nước và
nhận được sự quan tâm rất lớn của chính phủ, nhưng nhưng khuất mắc, tiêu cực trong ngành
vẫn cứ tồn tại và lan rộng ra. Một trong những vấn đề lớn nhất, nổi bật nhất chính là hiện
tượng gian lận trong thi cử, kiểm tra, hay nói một cách khác là tình trạng học đối phó, quay
cóp bài của học sinh trong kiểm tra, thi cử.
“Học đối phó” là hiện tượng học sinh học bài chỉ để vượt qua một kì thi, một giờ kiểm
nào một cách gượng ép và không hề lưu giữ một tí gì về những thứ đã học sau lần kiểm tra,
lần thi đó. Còn “quay cóp bài” là tình trạng học sinh xem bài của nhau hoặc xem tài liệu trong
giờ kiểm tra, thi cử. Nói một cách đơn giản hơn, đó là những hiện tượng tiêu cực trong một

nền giáo dục.
Và đáng tiếc thay, cái tiêu cực đó dường như đã trở thành “một phần tất yếu trong cuộc
sống” của học sinh thời nay và nó đang ăn sâu, lan rộng vào tiềm thức của những người đang
ngồi trên ghế nhà trường.
Xét về một mặt nào đó, những hành động này có thể cho họ lợi ích nhất thời, đó có thể
là những điểm tám, điểm chín, trong các kì thi, kiểm tra chẳng hạn. Nhưng nếu ta xét một
cách toàn diên và sâu rộng hơn, thì cái lợi trước mắt đó sẽ lại là cái hại lâu dài cho chính bản
thân họ và cho cả đất nước, dân tộc. Khi những người học sinh thực hiện những hành động
tiêu cực đó, thì liệu khi họ rời khỏi ghế nhà trường nhà bước vào xã hội, trong bộ óc của họ có
chứa được một tý kiến thức nào để có thể chung sống với xã hội hay không. Và liệu một dân
tộc, một đất nước sẽ ra sao khi nền giáo dục của đất nước đó, dân tộc đó chỉ tạo ra những con
người trẻ tuổi với cái đầu rỗng tuếch và suy nghĩ dối tra, tôi chắc hẳn rằng sẽ trở nên suy yếu
đi, thậm chí là diệt vong.
Mọi thứ đều có nguyên nhân của chính nó và những tiêu cực trên cũng thế. Nguyên
nhân trước hết chính là mỗi bản thân người học sinh đã không tự xác định được học để làm gì
và học như thế nào, từ đó suy nghĩ và hành động của họ trở nên sai trái là đương nhiên.
Nhưng ta cũng ko thể trách họ hoàn toàn được, làm sao họ có thể tốt được khi mà những
người thầy, người cô cứ mãi đếm tỉ lệ lên lớp, tỉ lệ tốt nghiệp,…khi mà những người đứng
đầu ngành cứ mãi loay hoay với những vấn đề “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” như cải cách sách
giáo khoa, học phí,…khi mà….Và tất cả những thứ đó đã góp phần tạo nên một hiện tượng
tiêu cực phổ biến này.
Để có thể giải quyết một cách triệt để dc những hiện tượng trên, thì những vị lãnh đạo
của chúng ta cần phải có những chiến lược, mục đích thật sự đúng đắn và sáng tạo cho ngành
giáo dục, cùng với đó những người giáo viên phải truyền được cho học sinh tinh thần học tập,
phải cho họ thấy mục đích của học tập không phải là để trở thành “ông này bà nọ”, để được
“ăn sung mặc sướng”, để có cái bằng cấp vô nghĩa,…mà là tích lũy tri thức để có thể tồn tại,
chung sống, phát triển và tự khẳng định mình. Và trên hết. bản thân mỗi học sinh cần phải tự
nỗ lực học tập, tự xác định được mục đích học tập và phương pháp học tập hiệu quả, và nhất
là phải để cho lòng tự trọng của mình lên tiếng trước những cám dỗ của tiêu cực.
Hãy hành động ngay bây giờ, và đừng chờ đợi nữa. Nếu không, đến một lúc nào đó, khi

những sản phẩm thất bại này của ngành giáo dục bước ra xã hội và làm chủ đất nước thì dân
tộc ta, đất nước ta sẽ phải đứng bên bờ suy thoái, diệt vong
………………
15. THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN
1. MB :
- Một trong những nét đẹp tạo nên vẻ đẹp tâm hồn con người là lòng nhân ái.
- Ông cha ta đã đúc kết nên câu tục ngữ : " Thương người như thể thương thân " nhằm khuyên
bảo con cháu về lòng thương người.
2. TB :
*Giải thích :
- Thương người là thương xót mọi người xung quanh, quan tâm, chia sẻ và sẵn sàng giúp đỡ
khi mọi người gặp khó khăn. Thương thân là thương chính bản thân mình. Khi bạn đói, bạn
lạnh hay khi ốm đau mà không cơm ăn, áo mặc, không ai chăm sóc bạn mới cảm nhận được
mình rất thương bản thân của mình. Thương người như thể thương thân là ta yêu quý bản thân
như thế nào thì ta cũng đối xử với mọi người như thế. Nếu gặp những người có cảnh ngộ đau
khổ, bệnh tật, túng thiếu , ta hãy cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ, quan tâm tới họ như chính với
bản thân mình.
- Câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta phải biết thương yêu, trân trọng mọi người như chính bản
thân mình. Trong cuộc sống phải biết đoán kết giúp đỡ nhau, thể hiện được tình tương thân
tương ái trong xã hội VN.
+ Vì sao phải có lòng nhân ái ?
- Một cá nhân không thể sống thiếu gia đình, một gia đình không thể tách riêng khỏi cộng
đồng, xã hội, nhất là những lúc cơ nhỡ, khó khăn. Mối quan hệ giữa người với người rất
khăng khít. Mình có thông cảm, yêu thương, giúp đỡ người khác thì mới nhận được cách đối
xử như vậy. Nếu hôm nay bạn giúp đỡ cho nhiều người nghèo có cơm ăn, áo mặc, có việc làm
ổn định thì chắc chắn họ sẽ biết ơn và ít nhất bạn cũng được họ kính trọng vi là ân nhân của
họ.Được yêu thương là một hạnh phúc nhưng yêu thương người khác là một hạnh phúc lớn
hơn.Bởi con người chúng ta ai cũng có khiếm khuyết, ai cũng có khó khăn, ai cũng cần một
bờ vai để tựa khi mệt mỏi, ai cũng cần một lời động viên chân thành. Và ai cũng cần có tình
yêu thương để chia sẻ. Lòng nhân ái giúp con người xích lại gần nhau hơn. Nếu con người

không có lòng yêu thương thì đó sẽ là một thảm họa – có thể là chiến tranh, chết chóc…Yêu
thương người khác sẽ làm cho tâm hồn ta thanh thản và ta sẽ được sự yêu mến quý trọng và
sự giúp đỡ từ người khác.
- Lòng nhân ái chính là một nét phẩm chất đáng trân trọng của mỗi con người. Lòng nhân ái
là món quà quý giá nhất mà ta có thể trao cho mọi người. Nhân ái thể hiện giá trị của một con
người. Nó được đánh giá qua cách con người đối xử với nhau. Chính lòng nhân ái đã làm cho
tâm hồn và trái tim ta được rộng mở. Nhờ đó, ta sẽ thật sự càm thông, đồng cảm trước những
mảnh đời khó khăn, bất hạnh và là nguồn sức mạnh, động lực to lớn giúp ta vững tin vượt qua
những khó khăn, thử thách.Lòng nhân ái giúp cuộc sống ta có ý nghĩa hơn.
* Lòng nhân ái phải được thể hiện trong cuộc sống.Chúng ta đều biết cuộc sống xung quanh
chúng ta còn nhiều vất vả khó găn và có không ít các mảnh đời bất hạnh.Chúng ta hãy cùng
chung tay giúp đỡ các cụ già neo đơn, giúp bạn vượt khó…. Còn gì cao quý hơn khi bạn sẵn
sàng quyên góp số tiền dành dụm mấy tháng trời để giúp đỡ đồng bào miền Trung gặp bão
lụt. Hay một đứa bé qua khỏi cơn nguy kịch của căn bệnh tim bẩm sinh nhờ sự đóng góp nhỏ
bé của bạn. Nếu ví cuộc sống là một bộ ghép hình đầy sắc màu thi mỗi chúng ta là những
mảnh ghép rời rạc. Lòng nhân ái chính là chất keo chắc chắn, đính nhữn mảnh ghép ấy lại với
nhau. Đừng nghĩ đến bản thân vì việc gì cũng nghĩ đến bản thân thì không bao giờ hạnh phúc
được.
3. KB :
Lòng nhân ái rất cần thiết trong cuộc sống, là cầu nối giữa trái tim với trái tim. Vì thế, ta phải
sống với con tim luôn tràn ngập tình nhân ái, biết san sẻ và yêu thương, sống theo cách mà ta
không thấy tủi hổ.
…………………
16. LÒNG KIÊN TRÌ
Bài làm
Trong cuộc sống, chúng ta có những mục tiêu cần thực hiện những công việc cần làm, có thể
thất bại sẽ theo sát bạn đến đâu đi nữa rồi bạn cũng sẽ thành công,và bạn cần xác định được
muc tiêu của mình để làm được điều đó ta cần phải có sự kiên định. Vậy kiên định là gi? Và
nó cần thiết cho chung ta như thế nào?
Sự kiên định là chúng ta phải vững vàng tiến bước luôn theo đuổi mục đích,không từ bỏ hi

vọng của mình và tìm cách để giải quyết, trước sau như một dám đối diện với những thử
thách khó khăn thì cuối cùng khó khăn đó cũng sẽ bị khuất phục bỡi bạn,chính sự kiên định sẽ
giúp bạn giải quyết mọi việc một cách dứt khoác và đạt được mục tiêu,sự kiên định đó là sự
bảo vệ cho bạn khi gặp những điều không may khi bạn gặp phải.
Trên đời này,những người có sự kiên định thì dù có thử thách gì cũng không thê ngăn được
bước tiến của họ vì sự kiên định đã tăng thêm sức mạnh, khả năng chịu đựng của họ. Họ
không dễ đầu hàng trước hoàn cảnh và luôn ngẩng cao đầu đối diện với nó đó là nhờ sự kiên
định. Hãy khẳng định với sự kiên định của bạn ,tôi có thể biết được rằng kiên định có tầm
quan trọng như thế nào đối với mỗi con người, một số người đã nói sự kiên đình như một toà
lâu đài ở trong mỗi người, chính trong toà lâu đài nay họ luôn cố chống chọi lại những thật
bại tìm cách xoay sở để thoát khỏi sư thất bại đó tiến đến chiến thắng, có mốt chân lý rằng
nếu như bạn có sự can đảm long kiên trì và sự kiên định thì những vật cản cũng không thể
quật ngã được bạn, Booker T. Washington là một nhà giáo dục người Mỹ gốc Phi đã nói rằng:
”Không điều gì trên đời có thể xô ngã được mốt người có long trì” vì sự kiên định luôn gắn
liền với lòng kiên trì,và không phải ngẩu nhiên người ta đã nói rằng:”Thất bại là mẹ thành
công” co thể hiểu câu nói ấy rằng bạn hãy kiên định ròi thành công sẽ đến với bạn, ta có thể
nhìn trong cuộc sống rất nhiều con người đã khuỵu gối trước thất bại,chỉ rất ít người có thê
đứng lên được. Vậy tai sạo họ có thể đứng lên được trước những thất bại đó? Không phải do
một phép màu nào cả mà chính nhờ vào sự kiên định. Nhưng khi ta không có sự kiên định thì
dù làm việc gì họ cũng đừng nghĩ đến thành công, họ sẽ gặp rất nhiều thất bại vì họ không có
một ý kiến nhất định không thể xác định được mục tiêu cần thực hiện. Những nhà kinh doanh
lớn có thể thành công được là nhờ sự kiên định họ luôn tự tin vào bản than có sức mạnh ý chí.
Bên cạnh đó một số người không thể hiểu ra được sự kiên định là như thế nào,họ không bao
giờ tự tin vào chính bản thân của mình không dám đối diện với những thử thách khi vấp ngã
không biết tìm cách để đứng lên,hay tìm ra cách giải quyết nó bỏ cuộc trước mọi thử thách,
nếu như ta có sự kiên định không những đạt được những kết qua tốt mà còn được mọi người
quý trọng. Nhưng cần phân biệt được kiên định và cứng đầu,không phải lúc nào chúng ta
cũng khăng khăng rằng quyết định của mình là đúng mặc dù nó đã sai,cần phải biết lúc nào
đúng và lúc nào cần sửa đổi.
Sự kiên định không tự nhien mà có cần phải có sự rèn luyện, trước nhất ta phải có được mục

tiêu thực hiện hoặc là mốt đam mà muốn đạt được kết quả,lập kế hoạch để giúp muc tiêu ấy rõ
ràng hơn, cần có sự độc lập, không chịu sự tác động bên ngoài dù đó là tác động của người
thân nếu như nó có hại, cùng hợp tác với những người ủng hộ tới mục tiêu mà bạn đã lập kế
hoạch, điều cuối cùng bạn phải có hy vọng và tự tin vào chính mình.
Qua đó ta có thể hiểu được sự kiên định quan trọng như thế nào, vài trò của nó cần rèn luyện
và phát huy được sự kiên định nếu như ai cũng có sự kiên định thì trong cuộc sống có thể sẽ
có nhiều thành công hơn, đáng với công sức mà ta bỏ ra.
…………………………
17. TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
Bài làm
Tôn sư trọng đạo không chỉ còn là vấn đề đạo đức mà còn là một truyền thống văn hoá vô
cùng tốt đẹp của nhân dân ta. Đó cũng là yếu tố quan trọng làm nên nền tảng đạo đức của xã
hội văn minh.
Nhân dân ta từng có những câu nói vô cùng giản dị mà chứa đựng những ý nghĩa rất sâu sắc
về vấn đề Đạo và Thầy. Những câu nói ấy vừa tôn vinh người Thầy, vừa nhắc nhở con người
phải biết sống cho phải đạo làm người. Thầy là người vạch đường chỉ lối cho mối người
"Không thầy đố mày làm nên". Vì thế vị trí của người thầy được đặt ngang hàng với vị trí của
cha mẹ, "Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy". Chúng ta vẫn luôn tự nhắc mình: "Muốn con hay chữ
thì yêu lấy thầy".
Người làm thầy trong bất cứ xã hội nào luôn được xã họi tôn trọng "nhất tự vi sư, bán tự vi
sư". Bởi vậy, "tôn sư trọng đạo" không còn là một vấn đề quan niệm sống hay quan niệm về
cách cư xử mà đã trở thành một phạm trù đạo đức. Thời xưa Platôn, Aritxtôt, Khổng Tử… từ
người thầy đã trở thành những bậc thánh trong lòng học trò. Ngày nay, người thầy tuy không
có vị trí tuyệt đối như thế song thầy vẫn là người được xã hội tôn trọng và "nghề dạy học là
nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý". Dù ở phương Đông hay phương Tây, dù mối
quan hệ thầy trò có bình đẳng đến đâu, gần gũi đến đâu thì danh giới thầy trò, vị trí đáng kính
của người thầy vẫn không hề bị mai một.
Trên thực tế, vấn đề "tôn sư trọng đạo" ngày nay đã có nhiều điều đáng phải bàn. Các thầy cô
giáo dù phải đứng trước bao nhiêu khó khăn của cuộc sống vẫn đang ngày đêm lo lắng,
nghiền ngẫm để truyền thụ cho học sinh những tri thức quý giá nhất. Còn học sinh, bên cạnh

những học sinh chăm chỉ ngoan ngoãn, thực hiện đúng đạo làm trò, kính yêu và tôn trọng thầy
cô giáo, đã có không ít bạn chót quên đi đạo nghĩa thầy trò. Những học sinh ấy đã vô tình
hoặc cố ý vi phạm đạo làm trò, làm đau lòng các thầy cô giáo. Đã có những câu chuyện đau
lòng mà chúng ta không muốn nhắc đến như hiện tượng học trò xúc phạm thầy cô giáo, vô lễ
với những người đang ngày đêm dạy bảo mình những điều hay lẽ phải, truyền đạt cho mình
những tinh hoa tri thức nhân loại. Xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục lên án những học sinh đó.
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống văn hoá vô cùng tốt đẹp của loài người. Nếu trẻ em là
tờ giấy trắng thì người cầm cây bút viết lên những tờ giấy trắng ấy những tráng thẳng hàng, rõ
nét, rõ chữ nhất chính là thầy cô giáo. Tôn trọng những người giữ vai trò truyền đạt tri thức
nhân loại cho thế hệ sau là biểu hiện của tình yêu tri thức, của lòng ham học hỏi, của ý chí và
khát vọng vươn lên cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì thế "tôn sư" không chỉ là vấn đề tôn trọng, kính
yêu người làm nghề dạy học mà còn là biểu hiện của tình yêu tri thức, biểu hiện của văn
minh, tiến bộ. "Đạo" cũng không chỉ dừng lại ở đạo làm trò, ở những hình thức, thái độ ứng
xử với người thầy mà còn là cả vấn đề đạo đức xã hội. Đó là đạo làm người, là đạo học ở đời.
Trọng đạo là coi trọng sự hiểu biết, coi trọng tinh thần ham học hỏi, đề cao truyền thống ham
học.
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống đạo đức vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta. Đứng trước
những hiện tượng đáng suy nghĩ hiện nay về vấn đề đạo đức học đường, chúng ta cần phải có
những hoạt động cần thiết để nhắc nhở mỗi người nhìn lại thái độ và cách ứng xử của mình
đối với những người làm thầy trong xã hội này. Tôn sư trọng đạo cần phải được quan tâm hơn
nữa.
Để xã hội ngày càng văn minh con người ngày càng phải chú ý đến chuyện học hành, tiếp thu
tri thức. Vì thế, vai trò của người thầy trong xã hội hiện đại đã thay đổi, từ người truyền đạt tri
thức đã chuyển thành người dẫn dắt học sinh tìm ra con đường đến với tri thức. Vai trò của
người thầy ít nhiều thay đổi nhưng vị trí của người thầy thì không hề suy giảm. Thầy vẫn là
thầy và ngày càng quan trọng hơn. Vì vậy, dù xã hội có đi đến đâu, xã hội ấy vẫn có những
người muốn học và vẫn có những người thực hiện nhiệm vụ dạy bảo người đi sau. Trong cuộc
sống ngày nay, khi mà vấn đề học hành ngày càng phức tạp và sự xuống cấp về đạo đức xã
hội đang khiến nhiều người có lương tâm trách nhiệm phải quan tâm suy nghĩa thì vấn đề "tôn
sư trọng đạo" càng phải tiếp tục được kế thừa và phát huy hơn nữa.

……………………………
18. SÁCH MỞ RA MỘT CHÂN TRỜI MỚI
Bài làm
Từ một cậu bé mồ côi,thất học,Alesei Peshkov đã vươn lên trở thành M.Gorki-nhà văn bậc
thầy của giai cấp vô sản,con người được nhân dân thế giới kính trọng vì một vốn hiểu biết văn
hóa vừa rộng lớn vừa sâu sắc.Nhờ đâu? Nhờ một nghị lực sống phi thường đã tìm gặp được
một thứ tài sản phi thường: sách.
Nói đến M.Gorki,không thể không nói đến tự học,do đó không thể không nói đến sách.Chính
ông đã nói đến tác động ghê gớm của sách đối với mình trong một lời phát biểu giản dị :
“Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”.
Câu nói ấy hàm chứa một ý nghĩa phong phú và một chân lí,một lời khuyên.
Từ lâu con người đã biết đến sự kì diệu của sách.Sách,đó là cái thần kì trong những cái thần
kì mà nhân loại đã sáng tạo nên.Thật không thể hình dung một nền văn minh mà không có
sách.Từ hàng nghìn năm trước,khi chưa có chữ in,chưa có máy in,chưa có cả giấy bút nữa,thì
nhân loại đã nghĩ đến sách rồi,đã có những hình thức đầu tiên của sách rồi.Sách là cái cần có
để con người lưu giữ và truyền lại cho người khác,cho thế hệ khác,những hiểu biết của mình
về thế giới xung quanh,những khám phá về vũ trụ,về con người,cả những ý nghĩ,những quan
niệm,những mong muốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến đời sau.
Sách,đó là kho tàng chứa đựng những hiểu biết của con người đã được khám phá,chọn
lọc,thử thách,tổng hợp.Sách là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của các thời
đại,những hoài bão mạnh mẽ nhất,những tình cảm tha thiết nhất của con người.Chỉ có những
gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói,cần truyền lại,mới đi vào sách.
Tác động của sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian.Con người ngày nay vẫn
không giảm sút hứng thú tìm lại những trang sách đã có hàng mấy nghìn năm nay,từ những
hình vẽ bí hiểm trên những phiến đất sét,những chữ cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm
da cừu,những con chữ tượng hình trên các thẻ tre…cho đến hôm nay,những cuốn sách được
in hàng loạt bằng những máy in điện từ hiên đại.Một người sống ở một làng hẻo lánh Châu Á
cũng có thể đọc được cuốn sách của một người viết từ một đất nước xa xôi ở Châu Mĩ.Thật có
thể không ngoa rằng: có sách,các thể kỉ và các dân tộc xích lại gần nhau.
Sách là thế,sách có sức mạnh như thế,cho nên M.Gorki đã rất có lí khi nói: “Sách mở rộng ra

trước mắt tôi những chân trời mới”.
Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung quanh,về vũ trụ bao
la,về những đất nước và dân tộc xa xôi.Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc
khám phá ra vũ trụ vô tận với những quy luật của nó,hiểu được quả đất tròn mang trên mình
nó bao nhiêu đất nước khác nhau với những hoàn cảnh thiên nhiên khác nhau.Những quyển
sách xã hội học giúp hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với
những đặc điểm về kinh tế,lịch sử,văn hóa,những truyền thống,những khát vọng.
Sách,đặc biệt là những cuốn sách văn học,giúp ta hiểu biết về đời sống bên trong của con
người,qua các thời kì khác nhau,ở các dân tộc khác nhau,những niềm vui và nỗi buồn,hạnh
phúc và đau khổ,những khát vọng và đấu tranh của họ.
Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình,hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la
này,hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác,với tất cả mọi người trong
cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này.Sách giúp người đọc hiểu được đâu là hạnh
phúc,đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và đi tới một cuộc đời
thật sự.Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng.
Đã từng có những cuốn sách không chỉ “mở rộng những chân trời mới” cho một người,trăm
người,triệu người,mà cho cả nhân loại.Những trang sách của Bruno,Galie về quả đất và thái
dương hệ đã mở ra cho loài người một thời kì mới trên con đường chinh phục tự nhiên.Những
trang sách của Dacuyn về các giống loài không chỉ giúp con người hiểu rõ về các giống loài
sinh vật mà còn hiểu rõ hơn về chính con người.Sách của Secspia,của Diderro,Monteskier rồi
của Mac,Angghen…thực sự đã giúp con người làm những cuộc cách mạng.Đọc Bangdac ta
hiểu về thế giới tư bản với sức mạnh lạ lùng của đồng tiền.Đọc thơ Tago,thơ Lý Bạch,Đỗ
Phủ,ta hiểu đời sống và tâm hồn của cả những dân tộc.Đọc Nguyễn Du,Hồ Xuân Hương,Cao
Bá Quát…ta hiểu xưa kia cha ông ta từng đau khổ và ước mơ những gì…Thật không sao kể
hết “những chân trời” mà các trang sách đã mở rộng trước mắt ta.Có thể nói một cách tóm tắt
rằng: lợi ích của sách là vô tận.Ta đồng ý với lời nhận xét của M.Gorki cũng là tiếp nhận lời
khuyên bao hàm chứa trong câu nói ấy : Hãy đọc sách,cố gắng đọc sách càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên,chẳng lẽ đó là một lời khuyên vô điều kiện ? Ngẫm cho kĩ,ta vẫn thấy có một
khoảng trống cần cân nhắc trong lời khuyên ấy.Vì sao ? Vì không phải mọi quyển sách đề
“mở rộng những chân trời mới”.

Từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản,mọi vận dụng của con người,trong đó có sách,đều trở
thành hàng hóa.Sách không chỉ là cái do con người viết ra cho con người đọc,mà còn là một
món hàng cho những ông chủ nhà in,chủ nhà xuất bản kiếm lời.Mục đích của những ông chủ
ấy,nói chung,không phải là phục vụ nhân loại mà để kiếm lợi nhuận,lợi nhuận tối đa.Vì
thế,trên thị trường sách,không phải bao giờ cũng chỉ có những cuốn sách tốt thực sự phục vụ
mục đích cao cả của con người,mà còn có rất nhiều những cuốn sách vì mục đích kiếm lời,đã
gây tác hại không nhỏ cho con người.
Thế nào là sách tốt ? Đó là những cuốn sách phản ánh chính xác quy luật của tự nhiên và của
đời sống xã hội.Chúng giúp con người ta hiểu rõ về số phận của mình để có ý thức đúng về
nghĩa vụ của mình trong đời sống.Một cuốn sách tốt phải giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau
hơn.Nó phải ca ngợi sự công bằng và tình hữu nghị giữa các dân tộc.Nó phải khiến cho con
người thêm tự hào về mình,thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày
một hợp lí và hạnh phúc hơn.Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn,độ
lượng hơn,trong sáng hơn.
Đọc những cuốn sách như thế,đúng là chân trời mở rộng không chỉ trước mắt ta mà còn cả
trong tâm hồn ta.Ta không chỉ tăng thêm hiểu biết mà còn tăng thêm giá trị và sức mạnh.
Còn thế nào là sách xấu ? Đó là những cuốn sách xuyên tạc đời sống,đưa đến cho người đọc
những kiến thức giả trá về thế giới xung quanh.Chúng đề cao dân tộc này mà bôi nhọ dân tộc
kia,chúng gây thù hằn và ngờ vực giữa các dân tộc,đề cao bạo lực và chiến tranh,kích động
những thị hiếu bản năng thấp hèn của con người.
Đọc những cuốn sách như thế,người đọc không những không tăng thêm những hiểu biết mà
còn trở nên dốt nát,mê muội hơn.Đọc những cuốn sách như thế,tâm hồn người đọc không
những không hề mở rộng chân trời mà còn thêm khô cằn vì những thú tính độc ác,những ước
muốn tầm thường ích kỉ,những tình cảm bạc nhược đớn hèn.Sách cỏ thể là một thứ thuốc bồi
dưỡng cực kì công hiệu,cũng có thể là một thứ ma túy,một thứ thuốc độc cực kì nguy hiểm.
Bởi vậy, từ câu nói của nhà văn vô sản Nga,ta có thể tự xác định cho mình một thái độ đối
với sách.Trước hết,phải biết quý trọng sách và coi việc đọc sách là một công việc rất cần
thiết,vừa rất thú vị vừa rất bổ ích.Sống mà không đọc sách,không ham mê sách,là một điều
không thể chấp nhận được.Nhưng phải chọn sách để đọc.Không bị mê hoặc bởi sự hấp dẫn
của hình thức,không để bị lôi cuốn bởi những thị hiếu tầm thường,phải tìm đến những cuốn

sách thực sự tốt,có ích.
Mặt khác,đọc sách không chỉ là một sự hưởng thụ,mà còn là một cách hành động ở đời.Cho
nên,đọc sách là để rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống tốt hơn,hành động có hiệu quả
hơn.Đọc sách mà không tiêu hóa được,không vận dụng được vào hành động,thì dẫu đọc hàng
nghìn cuốn sách cũng không hơn gì cái tủ mọt đựng sách.
Hàng ngàn năm qua,con người đã sáng tạo ra sách và mê đọc sách.Nhưng nếu xưa kia niềm
vui ấy chỉ là đặc quyền của một số người rất nhỏ thì ngày nay là niềm vui, là quyền lợi của cả
những con người bé nhỏ bình thường.Sách vẫn tiếp tục phát huy tác dụng kì diệu của nó.Ta
không thể hình dung một thế giới không có sách.Không còn sách,nền văn minh nhân loại
cũng sẽ không còn.
…………………….
19. LỜI NÓI CHẲNG MẤT TIỀN MUA
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc
để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình… Nói chung, nhờ lời nói mà con người có thể
hiểu nhau và dễ đến gần nhau hơn. Nói thì dễ nhưng nói như thế nào để không mất lòng người
nghe, nói như thế nào để “lọt” đến xương, nói làm sao để “mật ngọt chết ruồi” thì không dễ
chút nào. Vì thế cha ông ta có lời khuyên: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”
Tâm lý chung của con người là thích nghe ngọt. Những lời nói tốt đẹp không làm chúng ta tốn
kém tiền bạc hay hao tổn sức lực, nhưng nó đem lại nhiều ích lợi và làm cho người nghe được
an ủi, khích lệ và làm cho tình thân giữa ta với người khác được thêm thắm thiết đậm đà. Dĩ
nhiên, chúng ta không nên vì “lựa lời” mà nói với nhau những lời giả dối. Trái lại, chúng ta
cần nói thật với nhau bằng tấm lòng yêu thương.
Lại có một câu chuyện kể lại rằng:
Ngày xưa có một ông vua nước Ai-cập gửi cho nhà hiền triết Bias một con vật vừa quý lại
vừa hiếm để tế lễ các thần minh. Thế nhưng, ông vua này muốn chơi khăm nhà hiền triết một
vố, bèn phán:
- Sau khi cúng kiếng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất lại vừa xấu nhất nơi
con vật quý hiếm ấy.
Nhà hiền triết cũng không phải là tay vừa, bèn xẻo ngay cái lưỡi trao cho ông vua. Cử chỉ đó
gián tiếp nói lên rằng:

- Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu không
biết sử dụng.
Đúng thế, cái lưỡi là một bộ phận quan trọng để phát ra tiếng nói. Tiếng nói là một phương
tiện hữu hiệu để chuyển đạt cho người khác biết những tư tưởng, những ý nghĩ, những ước
muốn thầm kín; nhờ đó bắc lấy một nhịp cầu cảm thông. Lưỡi đóng một vai trò quan trọng
như vậy, song cái lưỡi cộng với lời nói lại chính là nguyên cớ làm cho chúng ta dễ vấp phạm
hơn cả, bởi vì chúng ta có thể vấp phạm ở bất kỳ đâu, trong bất cứ lúc nào và với bất kỳ ai.
Tục ngữ cũng đã có câu:
“Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi”.
Hay:
“Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”.
Một lời nói thiếu suy nghĩ được sánh ví như đổ thêm dầu vào lửa, làm bừng lên sự tức giận,
thiêu huỷ hết tình ruột thịt cũng như tình nghĩa anh em. Hơn nữa, trong cộng đoàn tu trì gồm
những con người từ “khắp tứ phương thiên hạ”, mỗi người mỗi tính ***, mỗi người một kiểu
sống khác nhau, nên không thể tránh được hết những va chạm, những bực bội, những buồn
phiền… Nhiều khi chính chúng ta lại là những người gây ra những đau khổ, buồn phiền cho
người khác chỉ bằng những lời nói thiếu cân nhắc trước sau.
Cụ thể ngay trong cuộc sống hàng ngày, nhiều khi có thể vô tình thôi, chúng ta chọc ghẹo anh
chị em mình bằng những lời nói nghe hơi… “rát tai”, nghe mà “đau nhói cả tim”. Nhiều khi
chúng ta chỉ muốn nói cho sướng cái miệng của mình, nhưng lại không để ý đến nỗi đau của
người anh chị em mình khi phải nghe những lời chọc ghẹo đó.
Do vậy, trong cộng đoàn tiếng cười là cần thiết, nó đem lại niềm vui cho cộng đoàn là điều
cần làm và nên làm. Nhưng chúng ta cũng cần phải ý tứ hơn nữa trong những lời chọc vui để
những lời chọc vui đó không những đem lại niềm vui cho mình mà còn làm cho người bị chọc
cũng được vui cười thoải mái. Dựa vào lời nói, người khác có thể biết được phần nào tâm hồn
của chúng ta. Được yêu mến và kính trọng hay bị khinh bỉ và ghét bỏ, một phần lớn là do cái
lưỡi và lời nói của chúng ta.
Như thế, cái lưỡi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành uy tín và thế giá của
mỗi người, như một câu danh ngôn đã dạy: “Lưỡi người khôn ngoan tạo nên danh dự, còn
mồm kẻ ngu dại gây đổ vỡ tan hoang”. Bởi đó, ta cần phải biết đắn đo cân nhắc trong cách ăn

nói của mình để tránh đi những hiểu lầm, đau khổ cho người khác. Phải sử dụng lời nói như
một phương tiện, giúp chúng ta cảm thông và xích lại gần nhau hơn “vui lòng khách đến vừa
lòng khách đi” là vậy.
Ý thức được tầm quan trọng của ngôn từ, chúng ta hãy chú ý những ngôn từ chúng ta dùng
trong ngày. Phải có trách nhiệm khi sử dụng ngôn từ, bởi vì qua những lời chúng ta nói,
chúng ta có thể đem lại niềm vui Phục sinh nhưng cũng có thể đem lại đau khổ thập giá cho
những anh em trong cộng đoàn và chúng ta cũng nên lắp đặt một… “Cái thắng” vào miệng,
để những lúc ngứa mồm, muốn phát ngôn bừa bãi, thì biết “stop” lại đúng nơi và đúng lúc.
Để kết thúc, xin mượn câu nói của cha ông ta nói về ngôn từ: "Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi
nói".
Hoặc:
"Lựa lời mà nói khó thay
Tiếng chì, tiếng bấc thường hay “chàng ràng”
Khi ai mở miệng nói ngang
Thì ta chắc chẳng ngại “phang”…. “mỹ từ”
Một tia lửa nhỏ sơ sơ
Khu rừng lớn mấy mặc dù, cháy tiêu
Giữa ngàn thế sự đảo điên
Có ai áp dụng lời khuyên bao giờ
Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"
………………………
20. ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG HỌC MỘT SÀNG KHÔN
Xã hội loài người phát triển được như ngày nay là nhờ quá trình tìm hiểu,nhận thức,tích lũy
và không ngừng nâng cao tri thức của tất cả các dân tộc trên thế giới. Tri thức rất cần thiết đối
với con người. Muốn có tri thức thì phải học hỏi: học trong sách vở,học từ thực tế cuộc sống.
Ông cha ta xưa kia đã nhận thức rất đúng đắn về sự cần thiết của việc mở rộng tầm nhìn,tầm
hiểu biết đối với mỗi người nên đã khuyên nhủ,động viên con cháu : “Đi một ngày đàng,học
một sàng khôn”.

×