Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.58 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài :
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ
KỶ XVIII VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
NTH: Đỗ Quang Minh
STT: 98 nhóm: 10
LỚP: cao học đêm 5 khóa: K21
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC
Phần mở đầu ……………………………………………………………………………… 1
Chương 1: Những tư tưởng cơ bản của CNDV chiến đấu Pháp TK XVIII …….2
1.1. Khái quát chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp TK XVIII …………………2
1.2. Tư tưởng duy vật chiến đấu của Điđơrô …………………………………2
1.3. Tư tưởng duy vật chiến đấu của Hônbách ………………………………5
Chương 2: Những giá trị và hạn chế của CNDV chiến đấu Pháp TK XVIII … 8
2.1. Giá trị ………………………………………………………………………… 8
2.2. Hạn chế ………………………………………………………………………9
Kết luận……………………………………………………………………………………11
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………………i
Phần mở đầu
Lịch sử triết học là một phần quan trọng trong chương trình học triết học.
Lịch sử triết học giúp người học nắm được quá trình hình thành và phát triển của
triết học, đồng thời giúp người học nắm được những khái niệm, phạm trù,
nguyên lý và quy luật của tư duy triết học của nhân loại. Hạt nhân lý luận trong
chủ nghĩa Mác -Lênin chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tuy nhiên, không
phải Mác – Lênin xây dựng nên những lý luận của mình từ hư vô mà phải chọn
lựa và kế thừa những tư tưởng tiến bộ trong lịch sử triết học nhân loại mà đặc


biệt là nền triết học Châu Âu thế kỷ XVII – XVIII.
Thế kỷ XVII – XVIII là thời kỳ hoàng kim của nền triết học Châu Âu với
sự xuất của hàng loạt các triết gia kiệt xuất. Có thể kể đến như: trường phái duy
tâm của Lốccơ, Gi. Béccơly, Đavít Hium, trường phái triết học khai sáng và chủ
nghĩa duy vật Pháp với các đại diện như Môngtécxkiơ, Vônte, Rútxô, và trường
phái cổ điển Đức của Căntơ, Hêghen, Phoiơbắc. Tất cả những trường phái này đã
vẽ nên một bức tranh triết học sinh động cho nền triết học Châu Âu thế kỷ XVII -
XVIII. Trong các dòng triết học trên, có thể nói trường phái triết học chiến đấu
Pháp là trường phái đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt nhất. Chủ nghĩa duy vật
chiến đấu Pháp do Điđơrô (1713-1784) và Hônbách (1732-1789) là những đại
biểu tiêu biểu cho tư tưởng giai cấp tư sản Pháp. Họ quyết tâm “tiêu diệt” chế độ
phong kiến – nhà thờ, “tiêu diệt” giới tu hành để tạo nên một xã hội mới tốt đẹp
hơn. Để tìm hiểu những triết lý và hành động cụ thể mà chủ nghĩa duy vật chiến
đấu Pháp đã làm, phần trình bày sau sẽ làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu: “chủ
nghĩa duy vật chiến đấu Pháp thế kỷ XVIII và những giá trị, hạn chế của nó”.
Trang 1
Chương 1: Những tư tưởng cơ bản của CNDV chiến đấu
Pháp TK XVIII
1.1. Khái quát chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp TK XVIII
Triết học chiến đấu Pháp thế kỷ XVIII là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư
sản trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của mình. Nó đã thu hút và tập
hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh
nhằm lật đổ chế độ phong kiến – nhà thờ, khẳng định tự do cá nhân của con
người và tiến bộ của xã hội. Các nhà triết học chiến đấu Pháp thể kỷ XVIII là
những người uyên bác trong nhiều lĩnh vực. Sự ra đời và phát triển của triết học
chiến đấu Pháp thế kỷ XVIII đem lại những thành quả to lớn cho tư tưởng lý
luận, làm giàu thêm kho tàng văn hóa thế giới và có ảnh hưởng lớn về mặt tư
tưởng và hành động đối với toàn nhân loại.
Các nhà duy vật chiến đấu Pháp mà đại biểu là Điđơrô và Hônbách đã
vạch trần thế lực đen tối thời trung đại, giương cao ngọn cờ tự do dân chủ tư sản

nhằm tập hợp tất cả các tầng lớp bị áp bức dưới ngọn cờ đó để đấu tranh chống
lại chế độ chuyên chế phong kiến – nhà thờ. Họ tập hợp các lực lượng dân chủ
tiên tiến để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách mang tư sản Pháp.
1.2. Tư tưởng duy vật chiến đấu của Điđơrô
Điđơrô (Denis Diderot, 1713 – 1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ
công ở vùng Langres Đông Bắc nước Pháp. Là nhà triết học, nhà văn, nhà viết
kịch, nhà phê bình nghệ thuật, là người chủ biên bộ Bách khoa toàn thư Pháp
gồm 35 tập.
[6 1]
- Về bản thể luận: Điđơrô khẳng định trong vũ trụ chỉ có một thực thể, cả
trong con người lẫn động vật, đó là thực thể vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ
các vật thể có quảng tính, có hình thức và luôn luôn vận động. Vận động không
chỉ là di động mà còn bao gồm cả đứng im. Thế giới vật chất luôn vận động, và
Trang 2
quá trình vận động của thế giới mang đến sự phát triển. Trong quá trình phát
triển của mình, thế giới vật chất, mà trước hết là giới tự nhiên sẽ loại bỏ hết
những gì không cần thiết và chọn lọc lưu giữ những gì cần thiết để giúp nó ngày
càng hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, Điđơrô chỉ nói đến hình thức vận động
cơ giới. Theo ông, kết cấu và trạng thái vật thể là kết quả của quá trình tiến hóa
lâu dài của tự nhiên. Quan niệm này là tiền thân của thuyết tiến hóa.
Điđơrô tập hợp được một đội ngũ biên soạn gồm những nhà triết học, nhà
văn, nhà khoa học nhằm mục đích thông qua bộ sách này tuyên truyền quan điểm
cách mạng chống lại các thế lực phản động trong nhà nước và nhà thờ. Bộ sách
lấy tên là “Bách khoa toàn thư, hay từ điển lý tính về khoa học, nghệ thuật và
nghề nghiệp” (Encyclopédie ou dictionnaire raisonné des sciences, des arts et des
métiers).
[6 1]
- Về con người: Điđơrô khẳng định con người là thể thống nhất giữa cơ thể
và ý thức. Cơ thể là khí quan vật chất của tư duy. Linh hồn là tổng thể các hiện
tượng tâm lý của con người. Ông bác bỏ quan niệm về linh hồn tách khỏi cơ thể.

Không có thể xác của con người thì không có linh hồn. Sự chuyển hóa từ vật thể
vô tri vô giác đến thể xác biết cảm giác và có tư duy là kết quả của sự phát triển
bản thân cấu trúc của vật chất từ vô cơ sang hữu cơ, từ hữu cơ đến sự sống và từ
sự sống đến con người. Đây là một quá trình phát triển tự nhiên hợp quy luật xảy
ra trong thế giới. Điđơrô chống lại quan niệm duy tâm coi cái tôi của con người
là một thực thể. Ông cho rằng cơ thể con người là khí quan của vật chất, tư duy
và ý thức. Nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và môi trường xung
quanh. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu hoàn cảnh và môi trường xung quanh lại
chính là sản phẩm từ hoạt động của con người.
- Về lý luận nhận thức: Điđơrô nhấn mạnh sự phụ thuộc của năng lực cảm
giác vào giác quan, của ý thức vào quá trình sinh - tâm lý và của nhận thức vào
kinh nghiệm trực tiếp. Ông coi cảm giác là nguồn gốc, là giai đoạn thứ nhất trong
quá trình nhận thức, lý trí, tư duy là giai đoạn thứ hai. Cảm giác thu thập sự kiện,
Trang 3
lý trí kết hợp chúng, thực nghiệm kiểm tra sự kết hợp đó. Điđơrô luôn dựa trên
lập trường duy vật để phê phán các hệ thống siêu hình học. Ông kịch liệt phê
phán các hệ thống triết học tự biện coi thường cảm tính trong hoạt động nhận
thức. Khi coi vật chất là nguyên nhân duy nhất của cảm giác, ông cho rằng
phương pháp triết ly đúng đắn phải là phương pháp cho phép bằng trí tuệ kiểm
tra trí tuệ, bằng trí tuệ và thực nghiệm kiểm tra cảm tính và bằng trí tuệ, thực
nghiệm, cảm tính nhận thức thế giới vật chất. Do bản thân thế giới tự nhiên luôn
nằm trong quá trình vận động và phát triển vô tận nên quá trình nhận thức của
con người về giới tự nhiên cũng diễn ra vô cùng vô tận, nhưng về nguyên tắc,
con người có thể nhận thức hoàn toàn đầy đủ thế giới.
- Về quan niệm về tôn giáo: Điđơrô đề cao vai trò của lý trí khoa học, khẳng
định khoa học trang bị cho con người những quan niệm đúng đắn về thế giới, làm
cho con người mạnh thêm lên. Tôn giáo chỉ đem lại những ảo tưởng, làm cho con
người mềm yếu đi. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh vai trò của sự nghi ngờ,
chống lại niềm tin tôn giáo mù quáng. Ông nói “Bước đầu tiên để đi tới triết học
là ở sự nghi ngờ” (Le premier pas vers la philosophie, c'est l'incré).

[7 1]
Điđơrô không chỉ phủ nhận sự tồn tại của thượng đế từ lập trường duy vật
và quan điểm khoa học mà còn phê phán cả nền giáo dục và đạo đức tôn giáo.
Ông cho rằng thượng đế chỉ là sự thần thánh hóa các điều kiện hiện thực của con
người. Không phải thượng đế sáng tạo ra con người mà chính con người đã sáng
tạo ra thượng đế. Lý tính khoa học và tín ngưỡng tôn giáo không thể kết hợp
được với nhau. Lý tính khoa học mang lại cho con người hiểu biết đúng đắn về
thế giới để làm tăng sức mạnh của họ trong thế giới tự nhiên. Trái lại, tín ngưỡng
tôn giáo chỉ mang lại cho con người những ảo tưởng và làm suy yếu sức mạnh
của chính mình. Khoa học phục vụ cuộc sống thực trên trần gian còn tôn giáo chỉ
lo cho cuộc sống ảo trên trời.
Ông chống lại quyền lực của Nhà thờ. Theo ông, thượng đế là sự thần
thánh hóa các điều kiện sinh sống hiện thực của con người. Sự phê phán tôn giáo
Trang 4
một cách mạnh mẽ của Điđơrô có ảnh hưởng tích cực đến phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân Pháp thời đó, nhưng nó chỉ là một sự phê phán mà
không có một hành động thực tế nào để thể hiện sự phê phán đó.
- Về chính trị - xã hội: Điđơrô chứng minh sự sụp đổ tất yếu của chế độ
phong kiến, và sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Điđơrô ca ngợi quyền lực của
nhân dân và chủ trương xây dựng một hình thức nhà nước thông qua đại biểu của
nhân dân. Điđơrô nói, “Từ sự cuồng tín đến sự dã man chỉ có một bước”.
[3 86]
Điđơrô cho rằng tôn giáo ra đời là do nguyên nhân sợ chết, sợ địa ngục của quần
chúng và sự lừa đảo của giới tu hành. Tuy nhiên, ông chưa thấy được nguồn gốc
xã hội của tôn giáo. Vì vậy, ông chủ trương xóa bỏ tôn giáo bằng cách giáo dục
cho quần chúng và tiêu diệt giới tu hành.
1.3. Tư tưởng duy vật chiến đấu của Hônbách (Paul Henri Ditrich Holbach,
1723-1789)
Hônbách (Paul Henri Ditrich Holbach, 1723 – 1789) là người Đức nhưng sống và
làm việc ở Pháp. Ông là nhà văn, nhà triết học duy vật vô thần, một thành viên

tích cực của nhóm Bách khoa toàn thư Pháp do Điđơrô sáng lập. Tác phẩm “Hệ
thống tự nhiên” (Système de la Nature) của Hôbach ra đời đã giáng một đòn
mạnh mẽ vào chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
[5 1]
- Về bản thể luận: Hônbach bác bỏ sự tồn tại của Thượng đế, cho rằng trong
vũ trụ không có gì khác hơn là vật chất đang vận động. Hônbách viết: “Vũ trụ chỉ
là vật chất và vận động nó không có gì khác hơn là sự tiếp nối vô tận và liên tục
của nguyên nhân và kết quả”.
[5 1]
Theo Hônbach, “Tất cả mọi sự vật trong vũ trụ
đều vận động, bản chất của vật chất là vận động”,
[5 1]
đứng im chỉ là tạm thời.
Ông cho rằng vật chất tồn tại vĩnh viễn, không được sáng tạo và không bị hủy
diệt. Vật chất là nguyên nhân của mọi sự tồn tại. Do sức mạnh của bản thân mình
mà giới tự nhiên luôn vận động. Bất kỳ ở đâu trong vũ trụ đều là vật chất vận
động.
Trang 5
- Về nhận thức: Hônbách khẳng định con người là sản phẩm của tự nhiên, tồn
tại trong tự nhiên và phải phục tùng tự nhiên. Ý thức là đặc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao. Trí lực của con người không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ cấu
của toàn con người. Năng lực cảm giác của con người giúp con người nhận thức
được thế giới và quy luật của nó. Không có linh hồn bất tử mà không tồn tại với
bản thể vật chất của con người. Từ cảm giác của các sự vật tác động đến con
người mà tư duy hình thành và hoạt động. Nhờ vào hoạt động của tư duy mà
những tiến hóa mới trong tâm hồn chúng ta đưa đến sự xuất hiện ý nghĩ, tư
tưởng, ký ức, trí tưởng tượng. Mặc dù vẫn coi chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm
và sự vật nhưng do quan niệm siêu hình chi phối mà ông chỉ dừng lại ở chỗ coi
nhận thức chỉ là sự kết hợp các cảm giác và các khái niệm mà không thấy được
nhận thức là một quá trình phức tạp. Dù coi hiện tượng khoa học mà con người

chưa nhận thức được là ngẫu nhiên nhưng ông chưa hiểu được tính khách quan
của hiện tượng ngẫu nhiên.
- Về con người: Hônbách đứng trên quan điểm duy vật máy móc. “Con người
là một tác phẩm của tự nhiên, tồn tại trong tự nhiên và phục tùng quy luật của tự
nhiên. Con người không thể thoát ra khỏi tự nhiên, thậm chí về mặt tư tưởng
cũng không thể vượt khỏi tự nhiên được”.
[5 1]
Còn về xã hội, ông coi quá trình
phát triển xã hội là do định mệnh chi phối. Ông khẳng định loài người có thể
thoát ra khỏi chế độ phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý tính
thắng chủ nghĩa ngu dân thời trung đại. Ông muốn sự chuyển đồi hòa bình từ chế
độ phong kiến sang tư bản.
- Về nguồn gốc của tôn giáo: theo Hônbách, “sự dốt nát và sự sợ hãi đẻ ra
thần thánh”.
[5 1]
Trong “SYSTÈME DE LA NATURE”, Hônbách viết: “Nếu
Thượng đế muốn được mọi người biết đến, được yêu quý, được biết ơn, tại sao
Ngài lại không biểu hiện rõ ràng cho toàn cầu đều biết. Nếu Ngài cái gì cũng biết
thì tại sao chúng ta phải làm phiền Ngài bằng những lời cầu nguyện. Nếu Ngài ở
khắp mọi nơi, tại sao chúng ta phải xây dựng nhà thờ cho Ngài. Nếu Ngài là toàn
năng, tại sao có người xúc phạm, chống lại Ngài”.
[5 1]
Hônbách cũng nói rằng:
Trang 6
“Nếu sự dốt nát đẻ ra các vị thần thì dự đoán rằng sự hiểu biết về tự nhiên sẽ thủ
tiêu chúng”.
[5 1]
Hônbách cho rằng do con người đều bị lực lượng siêu nhiên chi phối nên
họ không thấy được những lực lượng tự nhiên đang gây ra những hành động trên
thế giới. Vì vậy họ thường cầu nguyện mỗi khi gặp khó khăn. Sự ngu dốt và lo sợ

là nguồn gốc ban đầu của những thần thánh và tôn giáo được đặt ra để giúp vua
chúa dễ dàng cai trị các dân tộc.
Trang 7
Chương 2: Những giá trị và hạn chế của CNDV chiến đấu
Pháp TK XVIII
Ăngghen đánh giá cao cuộc đấu tranh chống tôn giáo của chủ nghĩa vô thần
Pháp thế kỷ XVIII. Người viết: “những vĩ nhân ở Pháp… rất cách mạng. Họ
không thừa nhận một thứ uy quyền nào cả. Tôn giáo, quan niệm về tự nhiên, xã
hội, tổ chức nhà nước, tất cả đều được đem ra phê phán hết sức nghiêm khắc”.
[1
275]
Vào thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật Pháp là trào lưu triết học tiên tiến nhất ở
Tây Âu. Tuy nhiên, nó vẫn chưa thoát ra khỏi hình thức duy vật siêu hình máy
móc.
2.1. Ưu điểm
Các nhà duy vật chiến đấu Pháp đặc đã góp phần quan trọng vào việc phát
triển chủ nghĩa duy vật và vô thần ở thế kỷ XVIII khi đấu tranh mãnh liệt trong
việc loại bỏ tôn giáo và nhà thờ. Các nhà duy vật Pháp thừa nhận vật chất, giới tự
nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất là cái tồn tại vĩnh viễn, không
do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu diệt được, không thể biến đổi vật chất
thành hư vô, cũng không thể tạo nên vật chất từ hư vô.
Về phần chính trị, các nhà duy vật chiến đấu Pháp đã vạch trần bộ mặt của
các thế lực đen tối của nhà thờ và nhà nước là hai thế lực phản động có liên hệ
chặt chẽ với nhau thời bấy giờ. Họ có những tư tưởng tiến bộ trong việc tách tôn
giáo ra khỏi nhà trường, loại bỏ thần học ra khỏi giáo dục, nhà thờ ra khỏi nhà
nước. Nền giáo dục và đào tạo phải hướng đến việc xây dựng mỗi người công
dân thành một nhà khoa học.
Các nhà CNDV chiến đấu Pháp dương cao ngọn cờ tự do, dân chủ nhằm
tập hợp các tầng lớp bị áp bức, các lực lượng tiến bộ để chuẩn bị về mặt tư tưởng
cho cuộc CMTS Pháp (1789-1794). Tư tưởng triết học của họ là vũ khí lí luận

của giai cấp tư sản Pháp trong thời kì chuẩn bị cho cuộc đại cách mạng tư sản
Trang 8
Pháp 1789. Nó có nhiệm vụ thu hút, giác ngộ, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến
bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ phong
kiến, xây dựng chế độ tư sản.
Tư tưởng triết học của họ đã trở thành trào lưu Triết học tiên tiến nhất ở
Tây Âu thời bấy giờ. Những tư tưởng này đã đem lại những thành quả to lớn cho
nền lý luận của nhân loại, làm giàu thêm kho tàng văn hóa thế giới và tạo ra ảnh
hưởng lớn về tư tưởng – hành động đối với nhân loại.
Triết học chiến đấu Pháp thế kỷ XVIII không phủ định sạch trơn mà đánh
giá lại các giá trị triết học truyền thống, đồng thời cũng biết kế thừa và phát triển
các khuynh hướng bài trừ siêu hình học của thế kỷ XVII. Nó bắt đầu bằng sự phê
phán một cách không thương tiếc các quan niệm cũ về thế giới con người. Đến
giữa thế kỷ XVIII, việc phê phán đó đã biến thành cuộc đấu tranh chống toàn bộ
hệ tư tưởng phong kiến cùng hệ thống quan điểm của nhà thờ Thiên Chúa giáo.
[2
163]
2.2. Nhược điểm
Tư tưởng duy vật chiến đấu Pháp là duy vật máy móc. Họ có định hướng
sai về cách mạng thay đổi chế độ và tiêu diệt tôn giáo. Họ cho rằng chỉ cần giáo
dục mọi người dân nâng cao nhận thức mà không cần phải thực hiện cách mạng.
Họ coi nhận thức của con người chỉ là sự kết hợp các cảm giác và các khái niệm
mà không thấy được nhận thức là một quá trình phức tạp.
Họ có những chủ trương chủ quan và máy móc. Chế độ mới có tính cách
duy lý, xã hội bảo vệ cá nhân, bảo vệ tự do và hạnh phúc cho mỗi người. Quan
niệm ấy như một lý tưởng mà giáo dục cho mỗi người thấm nhuần là thực hiện
được. Họ không thấy một chủ trương xã hội phải căn cứ vào quyền lợi giai cấp,
chứ không do một trí óc thông minh nào đấy có chủ trương giáo dục khôn khéo.
Xét về nội dung, họ khởi điểm từ quyền lợi cá nhân. Mọi người đều ham muốn
khoái lạc cá nhân, đều tha thiết đến hạnh phúc của mình. Nếu người ta hiểu được

Trang 9
rằng chỉ có giúp đỡ lẫn nhau mới thực hiện được nguyện vọng đó, hiểu rằng lợi
ích của mình liên quan đến lợi ích xã hội, mà giúp đỡ nhau thực hiện, mỗi người
đều góp phần xây dựng một xã hội tự do hạnh phúc, thì hạnh phúc cá nhân được
bảo đảm. Như thế là duy tâm, vì thực tế những lợi ích cá nhân cộng lại thì không
xây dựng được hạnh phúc xã hội, mà cũng không phải là cứ nói cho mỗi cá nhân
hiểu như thế là họ hiểu và thực hiện quyền lợi xã hội.
Họ đã nhận rằng vận động là thuộc tính căn bản và tự nhiên của vật chất,
nhưng không quan niệm vận động đi từng bước từ thấp lên cao, có những trình
độ khác nhau, mà chỉ quan niệm có biến lượng không có biến chất. Do đó, nó
quan niệm quan hệ giữa tinh thần và vật chất không có đến một giải pháp duy
vật, nói rằng cảm tính. Ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng lại quan
niệm duy vật một cách máy móc, không phân biệt được trình độ biến chuyển của
vật chất, cho nên cho rằng từ vật vô cơ đến hữu cơ, đến người đều có cảm tính.
Nó không quan niệm cảm tính là do một sự xuất hiện đột biến trong quá trình
tiến triển của vật chất mà có, mà nó cho bất cứ một vật chất nào cũng có cảm
tính. Nó vô tình đi đến duy tâm, vì chỉ phân biệt mơ hồ giữa tinh thần và vật chất,
cho rằng cái gì cũng có tinh thần cả.
[4 1]
Cũng do quan điểm chủ quan trên mà các nhà tư tưởng Pháp đã phê bình các
nhà tư tưởng phong kiến một cách máy móc, cho cái gì của phong kiến cũng là
tuyệt đối xấu: tôn giáo là hoàn toàn mê tín, do ở tình trạng ngu dốt mê muội của
nhân dân và thủ đoạn lừa dối của bọn thống trị mà ra. Họ chủ quan vì họ không
thấy cơ sở của tôn giáo của xã hội phong kiến nó có một khách quan nào đấy xây
dựng. Đó là do quyền lợi giai cấp trong xã hội mà nó phải bảo vệ. Cho nên cũng
có những người rất thành thực đã hy sinh cho tôn giáo. Những nhà duy vật Pháp
không hiểu như thế mà cho là tính điên của con người.

Trang 10
Kết luận

Các nhà duy vật chiến đấu Pháp đã vạch trần thế lực đen tối thời trung đại,
giương cao ngọn cờ tự do dân chủ tư sản nhằm tập hợp tất cả các tầng lớp bị áp
bức dưới ngọn cờ đó để đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến – nhà
thờ, tập hợp các lực lượng dân chủ, tiên tiến để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách
mạng tư sản Pháp sẽ xảy ra vào năm 1789–1794.
Các nhà triết học chiến đấu pháp đã đề cao vai trò của triết học và khoa học
trong việc nhận thức quy luật và sức mạnh tự nhiên, giúp con người làm chủ tự
nhiên. Họ đứng trên lập trường duy vật vô thần, chống lại thế giới quan duy tâm,
tôn giáo. Khẳng định vật chất, tự nhiên là thực thể duy nhất. Vật chất luôn luôn
vận động. Vận động do nguyên nhân bên trong của vật chất.
Các nhà triết học chiến đấu Pháp đã có những quan niệm rất tiến bộ về con
người và nhận thức: con người là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống nhất giữa
cơ thể và ý thức. Bác bỏ linh hồn bất tử, linh hồn tách rời cơ thể. Nhân cách con
người là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Tuy nhiên, chưa thoát khỏi cách
nhìn nhận máy móc về con người. Họ đề cao vai trò nhận thức kinh nghiệm, của
thực nghiệm khoa học, chống lại niềm tin mù quáng. Nhấn mạnh sự thống nhất
giữa tư duy với nhận thức cảm tính và coi thực nghiệm là tiêu chuẩn kiểm tra
chân lý.
Về chính trị - xã hội, họ đã chống lại chế độ phong kiến, tuyên truyền tư tưởng
chính trị của giai cấp tư sản. Đưa ra thuyết khế ước xã hội. Đề cao hình thức nhà
nước dân chủ. Chống quyền lực phong kiến và nhà thờ. Họ đã vạch trần bản chất
tôn giáo và tính chất phản động, phản tiến bộ của nó. Họ chứng minh rằng tôn
giáo là do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên, họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức,
chưa thấy nguồn gốc xã hội của tôn giáo, vì thế họ chủ trương xóa bỏ tôn giáo
bằng cách giáo dục quần chúng và tiêu diệt giới tu hành.
Trang 11
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc Hiền, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19 (1995). Nxb CTQG,
Hà Nội

2. TS. Bùi Văn Mưa (2011), Triết học – Đại cương về lịch sử triết học,
Tp.HCM.
3. Chuong02._Khai_luoc_LSTH_truoc_Mac_B._Triet_hoc_phuong_Tay.ppt
/>LSTH_truoc_Mac_B._Triet_hoc_phuong_Tay.ppt
4. Triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII
/>option=com_content&view=article&id=256:lch-s-t-tng-trc-marx-phn-
10&catid=40:trn-c-tho&Itemid=203
5. Baron d’Holbach
/>6. Denis Diderot
/>7. Diderot , Denis (1713 -1784)
/>Trang i

×