Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Rèn kỹ năng nghe, nói môn làm văn lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.18 KB, 17 trang )

Đề tài
MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG NGHE, NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 2 QUA PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
Người thực hiện : Lê Thị Loan
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Lam Sơn - Thọ Xuân
Môn : Tiếng Việt
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
xã hội đối với giáo dục, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chủ trương đổi mới chương
trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn
diện (Đức - Trí - Thể - Mỹ và các kỹ năng cơ bản), đảm bảo sự cân đối hài hoà
giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. Đứng trước thực
trạng đó, yêu cầu đối với nhà giáo dục phải đào tạo con người toàn diện, trong
đó tiếng mẹ đẻ (tiếng phổ thông) là một trong những điều kiện tiên quyết giúp
học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ dàng. Để giúp học sinh nghe, nói,
đọc, viết đúng tiếng phổ thông trước hết người giáo viên cần phải hiểu và nắm
vững thuật ngữ "chính tả" được hiểu theo nghĩa gốc là "phép tính đúng" hoặc
"lối viết hợp chuẩn". Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa
nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho
việc giao tiếp bằng chữ viết đảm bảo cho người viết và người đọc đều hiểu
thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã
hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép
vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.

1
Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả
thống nhất là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa phát triển của một
dân tộc.


Phân môn Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực và
thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng
Tiếng Việt. Vì vậy, phân môn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực
hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh,
trong đó có năng lực chữ viết. Hơn nữa, rèn cho các em viết đúng, viết đẹp đồng
nghĩa với việc rèn luyện tính cẩn thận, tính khoa học trong học tập và trong cuộc
sống hàng ngày.
Từ đó, giúp các em học tốt hơn ở các môn học khác nhằm phát triển toàn diện
cho học sinh.
Trong những năm gần đây, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thanh Hoá, Phòng
Giáo dục Thọ Xuân, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến chữ viết của cả
giáo viên và học sinh. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua các phong trào thi
"Viết chữ đẹp" cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh. Đây là một hình thức để tuyên
truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp và là một
dịp để cả giáo viên và học sinh nhận thức đúng đắn hơn nữa về tầm quan trọng
của chữ viết. Viết đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật
chính tả. Vì vậy, những lý do trên đã thôi thúc tôi tìm tòi một số biện pháp giúp
học sinh lớp 2 viết đúng chính tả.
II. THỰC TRẠNG CẦN CẢI TIẾN
Hiện nay, tình hình viết của học sinh còn chưa đẹp, thậm chí còn sai rất nhiều
lỗi chính tả. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là
do học sinh bị ảnh hưởng phương ngữ (chưa nói chuẩn theo tiếng phổ thông).
Hơn nữa, khả năng ghi nhớ luật chính tả của học sinh còn chưa sâu nên rất lúng
túng trong việc viết chính tả. Mặt khác, do các em nắm kiến thức về chính âm
chưa tốt. Điều kiện gia đình các em làm nông nghiệp, thương nghiệp, công nhân
viên chức nên bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc, ít có thời gian dạy dỗ con

2
cái. Sách tham khảo gần như không có. Phần nữa là ý thức học tập của các em
còn hạn chế, không đồng bộ Do đó, ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tổ chức

khảo sát, đánh giá chất lượng lớp phụ trách.
Qua bài khảo sát của học sinh đầu năm ở lớp 2A với sĩ số là 30 em, tôi đã thu
được kết quả cụ thể như sau:
* Bài viết của học sinh đầu năm:
TT Xếp loại SL Tỷ lệ (%)
1 Loại A 10 33
2 Loại B 11 36
3 Loại C 9 31
Học sinh có chữ viết xếp loại B và loại C gồm có 20 em, các em thường
sai một số lỗi chính tả phổ biến như sau:
Lỗi về phụ
âm
Lỗi về vần
Lỗi về dấu
thanh
Lỗi về cỡ
chữ, thế chữ
Lỗi về khoảng cách
giữa các chữ, trình
bày
SL % SL % SL % SL % SL %
5 17 2 7 3 10 5 17 3 10
Từ thực tế trên cho thấy các em còn mắc lỗi nhiều. Bản thân rất băn khoăn
trước kết quả trên. Quan tâm đến chữ viết của học sinh, giúp các em viết đúng, viết
đẹp là một việc làm hết sức cần thiết của mỗi giáo viên đứng lớp nói riêng. Vì vậy
tôi đã mạnh dạn đưa ra: "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đúng chính
tả". Mong muốn góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Giáo viên tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh theo

tiêu chí chữ viết.
2. Giáo viên nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
3. Giúp học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt (hiểu nghĩa từ, ghi nhớ luật
chính tả để viết đúng).
4. Luyện cho học sinh phát âm chuẩn (nói tiếng phổ thông) trong các môn học
và ở mọi tình huống giao tiếp.

3
5. Rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính khoa học, tính thẩm mỹ.
6. Tăng cường khâu chấm chữa bài, đánh giá đúng chất lượng học sinh, tạo
hứng thú thi đua trong học tập.
7. Kết hợp với phụ huynh, đồng nghiệp để phối hợp rèn luyện cho học sinh viết
đúng chính tả.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Giáo viên tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh
theo tiêu chí chữ viết
Tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp và phân loại học sinh là một việc làm tiên
quyết, quan trọng không thể thiếu đối với bất cứ giáo viên chủ nhiệm nào khi bắt
đầu nhận lớp. Thông qua việc tìm hiểu, tôi nắm bắt được hoàn cảnh, tâm sinh lý
của từng em, từ đó đưa ra các biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng.
Những em viết đúng, đẹp được xếp loại A; những em viết chưa đẹp lắm, sai ít lỗi
chính tả được xếp loại B; những em viết còn xấu, sai nhiều lỗi được xếp loại C.
Từ việc phân loại học sinh tôi sắp xếp được chỗ ngồi hợp lý, em có chữ viết
chưa đẹp được ngồi cạnh em có chữ viết đúng, đẹp để học hỏi bạn. Tôi quy định
các điều kiện cần có như vở 5 ô li, không viết bút bi, kh¨n kª, Đồng thời
quan tâm đến từng đối tượng, nhất là những em mắc nhiều lỗi chính tả. Đây là
việc làm tiên quyết, là cơ sở để tôi tiếp tục tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm
giúp học sinh lớp 2 viết đúng chính tả.
2. Giáo viên nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn
Tiếng Việt

"Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là hình thành cho học sinh 4 kỹ
năng: nghe - nói - đọc - viết", "Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt là cách
thức làm việc của thầy giáo và học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng Tiếng
Việt". Chính vì thế tôi luôn tâm niệm rằng: có thầy giỏi thì mới có trò giỏi. Để
giúp học sinh viết đúng chính tả thì trước hết đòi hỏi người giáo viên phải nắm
vững kiến thức về Tiếng Việt, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học môn
Tiếng Việt. Vì chỉ khi hiểu rõ được bản chất của chính tả, chính âm, ngữ nghĩa

4
của Tiếng Việt thì người giáo viên mới lựa chọn được phương pháp dạy học phù
hợp, tìm tòi con đường tối ưu nhất để giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách
dễ dàng nhất, hứng thú nhất. Hơn thế nữa, ở mỗi bài học tôi luôn xác định kiến
thức trọng tâm học sinh cần đạt là gì, đặt ra các tình huống sư phạm và cách giải
quyết, hình thức tổ chức ra sao. Ngoài việc trao đổi học tập kinh nghiệm từ đồng
nghiệp, tôi còn tự học, tự bồi dưỡng qua sách báo, các tài liệu tham khảo, cập
nhật những kiến thức và thông tin bổ ích nhằm tăng thêm hiểu biết của bản thân.
Vì vậy, để giúp học sinh viết đúng chính tả thì việc nắm vững mục tiêu, nội
dung, kiến thức, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt là vô cùng quan trọng và
cần thiết đối với người giáo viên tiểu học.
3. Giúp học sinh nắm vững kiến thức Tiếng Việt (hiểu nghĩa từ, ghi nhớ
luật chính tả để viết đúng)
Trước hết, tôi nghiên cứu tìm tòi để lựa chọn các phương pháp dạy học tối ưu
và hình thành tổ chức dạy học phong phú, phù hợp với nội dung và đối tượng để
giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt, hiểu nghĩa từ và ghi nhớ
luật chính tả, viết đúng chính tả, tôi luyện cho các em viết đúng chữ ghi âm đầu:
c/k; g/gh; ng/ngh (có quy tắc) và bất quy tắc, phân biệt r/d/gi; ch/tr; s/x. Luyện
viết đúng chữ ghi tiếng có vần khó. Luyện viết đúng dấu ghi thanh hỏi/ thanh
ngã. Cụ thể như sau:
3.1. Luyện viết đúng chữ ghi phụ âm đầu
3.1.1. Phân biệt c/k, g/gh, ng/ngh

Để giúp học sinh viết đúng một số chữ ghi phụ âm đầu dễ lẫn này, trong mỗi
giờ chính tả tôi kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt.
Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận xét các
chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen tay. Bước
đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng
khó để học sinh dễ phân biệt. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở
vấn đáp để giúp các em nhận ra những chữ ghi tiếng, từ các em hay viết sai. Sau đó
tôi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả các em đã được học.

5
Như trước e, ê và i (âm cờ) được viết bằng chữ k (ca).
Ví dụ: kể, kẻ
Hoặc trước e, ê và i âm gờ viết bằng chữ gh (gh ghép) hay ngờ viết bằng ngh
(ngờ ghép).
Ví dụ: ghế, ghé
nghỉ, nghé
Sau khi các em nhắc lại được một số luật chính tả thì cho các em được luyện
viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ.
Ngoài ra tôi còn tổ chức trò chơi "tiếp sức" thông qua các bài tập dạng tìm các
chữ bắt đầu bằng c, các chữ bắt đầu bằng k.
Chữ bắt đầu bằng c Chữ bắt đầu bằng k
Con cá, cò, cầm kĩ, kể, kê
Chữ bắt đầu bằng g Chữ bắt đầu bằng gh
Gọn gàng, gà, gói Ghi, ghé, ghế
Chữ bắt đầu bằng ng Chữ bắt đầu bằng ngh
Ngân nga, ngủ, ngọn Nghi, nghé, nghề
Thông qua trò chơi, các em được "học mà chơi, chơi mà học", tạo sự hứng thú
học tập. Đồng thời giúp các em ghi nhớ quy tắc chính tả Tiếng Việt một cách tự
nhiên, không gò ép mà lại khắc sâu hơn.
3.1.2. Phân biệt r/d/gi; s/x; tr/ch

Trong những giờ chính tả có phần luyện tập r/d/gi đa số các em khó phân biệt
khi nào viết r, d, hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt
bằng nhiÒu cách như sau:
1/ Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu r/d/gi
có trong bài.
- Học sinh tìm được là: rụt rè, giỗ, giỏi, dỗ, dành
2/ Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát âm, giải
nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
Chẳng hạn: với tiếng "giỗ".

6
Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết.
gi + ô + dấu ngã = giỗ.
+ Phát âm (giáo viên làm mẫu gọi 1, 2 học sinh phát âm lại).
+ Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa).
+ Học sinh tìm chữ ghi từ có tiếng "giỗ", "dỗ", ăn giỗ, dỗ dành
3/ Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi bằng cách tìm các từ có âm r, d, gi, kết
hợp với vần thích hợp. Gợi ý cho học sinh tìm từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý.
Em tìm chữ ghi tõ có tiếng "dỗ", "giỗ". Học sinh tìm đến đâu tôi ghi lên bảng
đến đấy.
Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều theo dõi, quan tâm uốn nắn từng em.
Những em viết sai chữ có âm đầu là s/ x thường cho các em phát âm sai. Khi
dạy, tôi phát âm mẫu cho các em nghe. Phát âm s n©ng lưỡi, đầu lưỡi chạm ngạc
phía trên. Còn âm x khi đọc lưỡi thẳng, đầu lưỡi đưa ra phía ngoài, luồng hơi
thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng
con theo sự phát âm của cô như: Thi viết đúng, cô đọc "xanh", cả lớp viết vào
bảng con, bạn nào viết sai bị đứng lên phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng
khác như: "mùa xuân", "sương sớm"
Để phân biệt được s/ x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng câu
đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách dùng

đúng khi viết chính tả.
Ví dụ: Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hay x có nghĩa như sau:
- Cùng nghĩa với chăm chỉ (siêng năng).
- Trái nghĩa với gần (xa).
- Nước chảy rất mạnh và nhanh (xiết).
Với những dạng bài tập trên tôi tổ chức cho các em trao đổi theo nhóm. Sau
đó, đại diện nhóm lên thực hiện, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên
chốt lại lời giải đúng, tuyên dương những nhóm làm đúng.
Để giúp học sinh lớp tôi viết đúng chính tả, cũng như phân biệt được các phụ
âm đầu, tôi thường linh hoạt khi dạy chính tả. Các bài tập trong sách giáo khoa

7
được đưa ra phân biệt l/n hoặc in/inh. Nhưng học sinh lớp tôi không nói sai và
không viết sai l/n hoặc in/inh nên tôi chủ động thay bài tập này bằng bài tập
phân ch/tr hoặc s/x cho các em được luyện đọc, luyện viết nhiều và từ việc hiểu
nghĩa của từ học sinh dễ nhớ và viết đúng chính tả.
Hoặc khi dạy chính tả tiết 5 - tuần 3, ở phần luyện tập tôi chọn bài tập 3a (bài
lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt ch/tr qua các dạng bài tập.
Bài tập: Hãy chọn chữ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống ?
a) (Chở, trở): chuyện, che
b) (Trắng, chăm): tinh, chỉ.
Trước khi làm bài tôi cho 2 đến 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả
lớp đọc thầm.
Sau khi học sinh hiểu được nội dung, yêu cầu bài tập, tôi tiến hành tổ chức
các hình thức tập luyện như sau:
Giáo viên phát ba băng giấy cho 3 em học sinh thi làm bài tại chỗ. Cả lớp làm
bài trên giấy nháp.
Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng, đọc kết quả. Cả lớp
và giáo viên nhận xét về nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài làm đúng. Bạn
nào mà làm đúng, viết đẹp, nhanh nhất là thắng cuộc.

Cả lớp và giáo viên nhận xét, sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.
- trò chuyện, che chở.
- trắng tinh, chăm chỉ.
Những em thắng cuộc được tôi khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ tay
khuyến khích.
Với việc dạy phân biệt r/d/gi; s/x; tr/ch các em hay nói sai và dẫn đến viết sai,
nên tôi luôn luyện cho các em như các hình thức luyện tập nói trên. Khi dạy
chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết chữ khó (chữ
các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này, ở tiết dạy nào
tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những từ nào
em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em được

8
luyện viết trên bảng con và gọi vài em lần lượt lên bảng viết, học sinh và giáo
viên nhận xét đúng, sai. Ngoài ra tôi còn khuyến khích các em ở hoàn cảnh giao
tiếp nào các em cũng chú ý luyện phát âm chuẩn.
Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng các
vần khó trong các tiếng từ.
3.2. Luyện viết đúng chữ ghi tiếng có vần khó
Trong quá trình viết các em thường gặp phải những chữ ghi tiếng, từ có vần
khó (uyu, uôn, oang, uyết ) một số chữ ghi tiếng có vần dễ lẫn (oe/ eo/, oa/
ao ) một số từ ghi từ khó "thuở nào" trong bài "Gọi bạn", "loay hoay" trong
bài "Chiếc bút mực" , "quẫy té nước" trong bài "Quà của bố", "hí hoáy" trong
bài "Cậu bé và cây si già"
Để rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi cho học sinh phân biệt từng
tiếng, cho học sinh nhận xét và thống nhất cách viết.
th + uơ + thanh hỏi = thuở
l + oay + thanh không = loay
Vần khó nên khi phân tích, tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho học
sinh viết bảng con, lớp nhận xét, sửa sai. Với những bài viết có ít vần khó tôi có

thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh viết, để khắc sâu vần
cần chú ý.
Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài tập khác nhau cho các em
được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ cách viết đúng.
3.3. Luyện viết đúng dấu thanh hỏi/ thanh ngã
Trên cơ sở tìm hiểu về đặc điểm phát âm của học sinh địa phương, tôi nhận
thấy phần lớn các em phát âm các tiếng có thanh huyền, thanh sắc, nặng và
thanh không tương đối chuẩn. Riêng các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã, các em
thường phát âm chưa chuẩn.
- Ví dụ: "Xin lỗi" các em thường phát âm sai là "xin lổi".
- Hay: "bài giải" các em thường phát âm sai là "bài gi·i".

9
Trước tình hình đó, khi gặp bài chính tả lựa chọn chưa sát với yêu cầu luyện
tập về chính tả của học sinh lớp dạy, tôi mạnh dạn tự soạn bài tập cho phù hợp
và có tác dụng thiết thực, trao đổi trong chuyên môn để tìm ra giải pháp hiệu quả
nhất giúp học sinh luyện tập phân biệt hỏi/ngã đạt kết quả tốt. Trước hết tôi lựa
chọn bài tập từ dễ đến khó, chú ý đảm bảo tính "vừa sức" đối với học sinh lớp 2.
- Từ dạng bài tập đơn giản như: Điền vào chỗ trống nghỉ hoặc nghĩ:
học; lo: ; ngơi: ; ngẫm
- Đến dạng bài tập khó hơn như: Điền vào chữ in đậm dấu hỏi hoặc dấu ngã.
Làng tôi có luy tre xanh
Có sông Tô Lịch chay quanh xóm làng
Trên bề, vai, nhan hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
- Với các dạng bài tập trên, trước tên tôi cho 2, 3 học sinh đọc yêu cầu, cả lớp
theo dõi.
- Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu, tôi tổ chức cho các em thảo
luận nhóm đôi để được trao đổi, bày tỏ ý kiến với bạn. Đồng thời tự phát âm và
nghe được bạn phát âm các tiếng cần luyện, giúp đỡ nhau pháp âm đúng.

- Các em ghi kết quả thảo luận vào băng giấy. Sau đó tôi gọi một vài nhóm lên
dán bằng giấy trên bảng lớp.
- Cả lớp và giáo viên nhận xét bài làm của các nhóm bạn và sửa sai (nếu có).
- Đáp án đúng như sau: "nghỉ học; lo nghĩ; nghỉ ngơi; ngẫm nghĩ".
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch chạy quanh xóm làng
Trên bề, vải, nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Tiếp theo tôi tổ chức cho các em luyện cách phát âm trước lớp. Đồng thời giải
nghĩa một số từ mới, khó hiểu.
Ví dụ như: "ngẫm nghĩ" (suy nghĩ kỹ).

10
Ngoài phương pháp và hình thức tổ chức dạy học như trên, tôi luôn chú ý
luyện chính tả cho các em ở tất cả các môn học. Tôi còn khuyến khích cho các
em trong giao tiếp hằng ngày, khi nói các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã các em
chú ý luyện phát âm chuẩn.
4. Luyện cho học sinh phát âm chuẩn (nói tiếng phổ thông) trong các môn
học và ở mọi tình huống giao tiếp
Để viết đúng chính tả thì học sinh không chỉ có kiến thức về ngữ nghĩa Tiếng
Việt mà kiến thức chính âm vô cùng quan trọng. Bởi chính âm là các chuẩn mực
phát âm của ngôn ngữ tiếng việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt. Ngay từ
khi lọt lòng các em được tiếp xúc với cha mẹ, ông bà và mọi người xung quanh
nên chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi phương ngữ. Học sinh thường phát âm không
chuẩn dẫn đến viết sai lỗi chính tả. Ví dụ: "những" các em thường pháp âm
"nhửng" - dẫn đến viết là "nhửng"; "rụt rè" các em thường phát âm "dụt dè" -
dẫn đến viết là "dụt dè"
Phát hiện những lỗi sai cơ bản trên, tôi luôn chú trọng luyện cho học sinh phát
âm chuẩn ở tất các các môn học, đặc biệt là phân môn tập đọc. Tôi thường đọc
mẫu những từ các em dễ sai rồi yêu cầu các em phát âm lại. Khi đã có một vài

các em phát âm chuẩn tôi cho em đó làm mẫu trước các bạn. Bởi có câu "học
thầy không tày học bạn". Ngoài ra tôi luôn khuyến khích học sinh luyện chính
âm ở mọi tình huống giao tiếp. Tôi luôn khuyến khích học sinh sửa sai cho bạn
khi học cũng như khi chơi. Tôi còn tạo không khí sôi nổi phong trào thi đua
thông qua các hình thức ngoại khoá như thi đố, trò chơi ngôn ngữ, luyện đọc
ngoài giờ.
Ví dụ: Với các dạng bài sau:
Thi tìm các từ: a) Chỉ khác nhau ở âm đầu s hoặc x.
M: Nước sôi - đĩa xôi.
b) Chỉ khác nhau ở âm chính i hoặc iê:
M: Lòng tin - nàng tiên.
c) Chỉ khác nhau thanh hỏi hoặc thanh ngã

11
M: Cái đĩa - con đỉa.
Tôi tổ chức trò chơi "Đối mặt". Giáo viên nêu luật chơi, đồng thời phân tích mẫu.
Tôi chia lớp thành hai nhóm lớn ngồi thành vòng trong, thảo luận tìm các cặp
từ theo yêu cầu trên. Sau đó mỗi nhóm cử 5 đại diện lên thi. Lần lượt mỗi bên
nêu 1 cặp từ tìm được (không được lặp lại các cặp từ đã nêu). Nhóm nào không
tìm được cặp từ theo yêu cầu thì nhóm đó thua cuộc. Nhóm thắng cuộc sẽ được
cả lớp tuyên dương và nhận một lá cờ tay để xếp thi đua vào cuối tuần.
Kết quả trò chơi vận động ngoài trời giúp cho các em phát triển lời nói, sau
một thời gian không lâu, học sinh lớp tôi đã phát âm tương đối chuẩn theo tiếng
phổ thông.
Tôi còn tìm thêm những tài liệu hấp dẫn để sử dụng trong giờ ngoại khoá, có
những bài tập thú vị gắn liền với chủ đề đang được dạy học trên lớp nhằm nâng
cao kỹ năng phát âm chuẩn trong các tình huống giao tiếp để học sinh viết đúng
chính tả.
5. Rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính khoa học, tính thẩm mỹ
"Nét chữ - Nết người", vì thế muốn học sinh viết đẹp thì người giáo viên hiểu rằng

rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi viết là rèn tính cẩn thận cho các em. Từ thế
ngồi viết của học sinh là cái quan trọng đầu tiên giúp học sinh có nét chữ đẹp.
Ngay từ buổi đầu vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của từng em.
Nhiều em khi viết, mắt vẫn cúi xuống bàn, hay cầm bút quá thấp nên mực hay ra
tay làm bẩn vở. Để giúp những em này biết ngồi ngay ngắn khi viết, trước hết
giáo viên phải giải thích cho các em hiểu cần ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ
viết đẹp hơn và có lợi ích cho sức khoẻ mà ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo thì
người sẽ bị tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu các em nhìn vào vở sát quá thì mắt sẽ
bị cận thị Sau đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế
ngồi viết ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực xuống bàn. Đầu hơi cúi, mắt các
vở khoảng 20 - 25cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía dưới bên trái quyển vở,
giữ mép vở khi viết không bị xê dịch, quyển vở được để hơi chếch về phía tay
trái. Hai chân để thẳng, vuông góc. Sau đó, tôi hướng dẫn cho các em cách cầm

12
bút sao cho dễ viết, không cao quá khó viết và không thấp quá làm mực vào tay
làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn tỉ mỉ tôi khuyến khích cho các em thực hiện,
bạn nào ngồi đúng nhất được cô tuyên dương trước lớp. Không chỉ trong giờ dạy
chính tả mà các tiết học khác, tôi luôn nhắc nhở các em để các em nhớ và ngồi
đúng tạo thói quen cho học sinh.
Để rèn học sinh tính khoa học tôi hướng dẫn các em các cách nhớ độ cao con
chữ bằng cách chia độ cao các chữ cái thành 4 nhóm (đối với chữ viết thường).
Nhóm 1: Nhóm chữ cao 1 li (đơn vị) như: i; e; ê; n; m
Nhóm 2: Nhóm chữ cao 1,25li (đơn vị) như chữ: r, s.
Nhóm 2: Nhóm chữ cao 1,5li (đơn vị) như chữ t.
Nhóm 3: Nhóm chữ cao 2,5 li (đơn vị) như chữ h, l, b, k, y, g
Khi học sinh học thuộc các độ cao của các chữ cái trên, tôi tiến hành
hướng dẫn viết trên c¸c ®êng kÎ, dòng kẻ bảng lớp. Trong khi viết, giáo viên
nhắc nhở các em: Muốn viết đẹp thì trước hết cần phải viết đúng độ cao, rộng
của các con chữ, khoảng cách của các chữ với nhau không rộng lắm mà cũng

không hẹp lắm, khoảng cách bằng nửa thân chữ là vừa. Các nét hất trong một
chữ phải được nối liền nhau, trong khi viết một chữ, hạn chế nhấc bút mà
thường viết liền mạch các con chữ với nhau, chữ viết thẳng, giáo viên viết mẫu
(ngay ngắn, không ngửa chữ mà không cúi rạp chữ).
Sau khi học sinh nắm được cách viết đúng, đẹp tôi cho các em được luyện
vào bảng con theo đúng các ®êng kÎ vµ dòng kẻ cô hướng dẫn, giáo viên kịp
thời sửa lại những nét các em viết chưa đúng, tuyên dương những em viết đúng,
viết đẹp.
Trong khi học sinh viết, giáo viên lần lượt đi từng bàn quan sát các em viết,
em nào viết chưa đúng, chưa đẹp cô viết mẫu vào vở để các em viết đẹp theo.
Khi các em đã viết đúng kích cỡ, tôi tập cho các em viết nhanh dần đúng tốc độ
viết đối với học sinh lớp 2.
Ngoài những việc luyện viết chữ đẹp ở tiết chính tả tôi luôn quan tâm nhắc
nhở các em cần phải viết đúng, nắn chữ ở những tiết học khác như tập làm văn,

13
tập viết và tóm lại cứ đặt bút viết là các em phải viết cẩn thận đẹp như đang
trong giờ luyện viết vậy, thì dần dần các em mới quen tay viết chữ đẹp được.
Trong các tiết dạy, cứ phát hiện được bài viết của bạn nào đẹp, đúng cỡ chữ là
cô tuyên dương trước lớp nhằm khuyến khích động viên các em viết đẹp hơn.
6. Tăng cường khâu chấm, chữa bài, đánh giá đúng chất lượng học sinh,
tạo hứng thú thi đua trong học tập
Để giúp học sinh viết đúng chính tả, việc chấm chữa bài cũng rất quan trọng,
giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không bị mắc lỗi
sai đó. Có nhiều hình thức chấm chữa bài, nhưng khi dạy, tôi thường sử dụng
biện pháp như sau:
Sau khi viết bài xong, cô đọc chậm cho các em tự soát bài sau đó cho các em tự
đổi vở cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau) theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện
ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong, tôi
cho các em nêu kết quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Tôi hỏi em có thấy bài nào

không viết sai lỗi nào hoặc bài nào sai 2, 3 lỗi không ? Bài nào còn sai rất nhiều lỗi ?
Giáo viên kịp thời tuyên dương những bạn không sai lỗi nào.
Từ việc học sinh tự sửa lỗi, theo tôi có những điểm tích cực sau đây.
- Các em được tiếp xúc (có ý thức) với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp
phần củng cố những kiến thức vừa được tiếp thu.
- Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính tả.
Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho mỗi
trường hợp. Nên góp phần củng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả năng
chính tả.
- Trường hợp những em học sinh yếu, hay viết sai lỗi chính tả thì không tự
phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng em để
hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật chính tả
một cách thuận tiện.

14
- Thông qua việc tự chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn thận,
chính xác, không để sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lòng trung thành
cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.
- Hình thành ý nghĩa gìn giữ đồ dùng của bạn cũng như của mình (giữ vở sạch, viết
chữ đẹp), không được làm rách, bẩn vở của bạn trong quá trình chữa, soát lỗi.
- Hình thành ở các em ý thức, nhiệm vụ được giao (tính tự giác).
- Để thực hiện mục tiêu này, cần phải được tiến hành thường xuyên đối với
các tiết chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài. Giáo
viên luôn tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp. Với
những biện pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không tìm
ra lỗi sai của mình và được cô khen trước lớp.
Từng tuần, từng tháng tôi tổ chức thi vở sạch, chữ đẹp của tổ khác và nếu tổ
nào có nhiều điểm 9, điểm 10 thì tổ đó thắng và được ghi thành tích vào thi đua
của tổ.
Chính vì thế, chỉ một thời gian không lâu tôi đã thu được kết quả đáng khả

quan. Đây là một thành công lớn của tôi và sự tiến bộ của các em là nguồn động
viên, khuyến khích tôi càng hăng say thực hiện mong muốn của mình.
7. Kết hợp với phụ huynh để phối hợp rèn luyện cho học sinh viết đúng
chính tả
Ngoài việc rèn chữ viết cho học sinh ở lớp, tôi còn gặp gỡ phụ huynh để trao
đổi về tầm quan trọng của chữ viết, thông báo về tình hình học tập và đặc biệt là
khả năng chữ viết của con em. Từ đó giúp phụ huynh có kế hoạch kèm cặp bảo
ban thêm cho các em học ở nhà.
Qua quá trình phối kết hợp chặt chẽ giữa tôi và gia đình học sinh, đến nay phụ
huynh đã nhận thấy tầm quan trọng của chữ viết và đã có sự trang bị về cơ sở
vật chất như bàn học đúng quy cách, ánh sáng, bút, sách tham khảo ở nhà cho
các em. Chính vì thế mà chỉ sau một thời gian, học sinh lớp tôi phụ trách đã
không những viết đúng chính tả, viết đẹp và còn phát âm chuẩn tiếng Việt.

15
C/ KẾT LUẬN
1. Kết quả đạt được
Để giúp học sinh viết đúng chính tả, tôi đã áp dụng nhiều biện pháp dạy học
khác nhau nhằm giúp các em khắc phục tình trạng viết sai lỗi chính tả, viết cẩu
thả, xấu, trở thành viết đúng, viết đẹp. Người giáo viên trước khi lên lớp phải có
sự chuẩn bị chu đáo, nghiên cứu kỹ nội dung bài chính tả để tìm ra bài này phần
nào là trọng tâm cần luyện cho học sinh viết. Đặt trước các tình huống và cách
giải quyết. Nếu sai chữ nào, sửa làm sao, nếu sai điểm kia sửa lại thế nào.
Sau mỗi tiết dạy, giáo viên có khen, chê kịp thời, đúng mức, để khuyến
khích các em học tập và gây được niềm tin cho các em. Từ chỗ kèm cặp và động
viên học sinh đúng lúc, kịp thời như thế, nên lớp tôi em nào cũng có ý thức tự
giác viết đúng, viết đẹp. Nhiều em đầu năm viết rất xấu, các em còn hay viết sai
lỗi chính tả. Nhưng được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo, các em đã biết viết đẹp
hơn và nhớ một số lỗi chính tả để viết đúng. Xong tuần 5 tiết 6 các em này đã có
điểm 6, 7 chính tả. Hơn nữa một số em học khá như các em: Huyền, T©m, Thảo

Linh, Th đầu năm các em viết các chữ còn chưa đều, thế chữ chưa ổn định,
nhưng sau một thời gian các em đã viết rất đẹp và được xếp loại A.
Nhờ sự khuyến khích chú ý phát âm chuẩn trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp
nào, đồng thời các em tự nhắc nhở lẫn nhau khi phát hiện thấy bạn phát âm chưa
chuẩn, chỉ trong một thời gian không lâu, các em học sinh lớp tôi không chỉ viết
đúng, viết đẹp và còn nói đúng tiếng phổ thông.
Những kết quả các em đạt được chính là sự thành công lớn của tôi và một
động lực giúp tôi viết lên sáng kiến:
"Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đúng chính tả".
* Kết quả cụ thể như sau:
STT Xếp loại SL (em) Tỉ lệ (%)
1 Loại A 21 70
2 Loại B 9 30
3 Loại C 0 0
2. Bài học kinh nghiệm
Muốn đạt được kết quả "giúp học sinh lớp 2 viết đúng chính tả" như mong
muốn (dù rất nhỏ), trước hết đòi hỏi người giáo viên phải thật sự là người mẹ
thứ hai của học sinh. Đem hết khả năng, sự tìm tòi sáng tạo của bản thân giáo
dục rèn luyện cho các em, phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh và có biện
pháp uốn nắn kịp thời về mọi mặt. Đồng thời thường xuyên sát sao kèm cặp
những em viết chưa đẹp. Thấy được trách nhiệm của mình đối với học sinh.

16
Thứ hai, bản thân là người giáo viên cần phải nắm vững mục tiêu, nội
dung, phương pháp dạy học môn tiếng việt và tầm quan trọng của chữ viết. Vì
chỉ khi hiểu rõ được bản chất của chính tả, chính âm, ngữ nghĩa tiếng việt thì
mới lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp giúp học sinh tiếp cận kiến
thức một cách dễ dàng, hứng thú nhất. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo.
Thứ ba là giúp cho học sinh nắm vững kiến thức tiếng việt (hiểu nghĩa từ,

ghi nhớ luật chính tả để viết đúng).
Thứ tư là khuyến khích học sinh luyện phát âm chuẩn (nói tiếng phổ
thông) trong các môn học và ở mọi tình huống giao tiếp. Tạo phong trào thi đua,
tự sửa sai và giúp bạn sửa sai do phương ngữ. Bởi vì chỉ khi nói đúng thì học
sinh mới viết đúng chính tả.
Thứ năm là góp phần rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức tốt như
tính cẩn thận, tính khoa học, óc thẩm mỹ, tinh thần kỷ luật cao và lòng tự tin.
Thứ sáu là bản thân giáo viên luôn tăng cường khâu chấm, chữa bài, đánh
giá đúng chất lượng học sinh, tạo hứng thú thi đua trong học tập.
Giáo viên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh, đồng nghiệp để
phối hợp rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả.
Một vài kinh nghiệm nhỏ tôi đưa ra trên đây chắc còn nhiều hạn chế. Tôi
rất mong những ý kiến đóng góp quý báu của Ban gi¸m hiÖu nhµ trêng, các thầy
cô giáo để đề tài đạt kết quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 02 tháng 4 năm
2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Loan

17

×