S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGÔ NHẬT MINH
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO CHO CỘNG ĐỒNG
DÂN TỘC DAO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN ĐỘNG
TỈNH BẮC GIANG
Chuyên Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số: 60 62 01 16
LuËn v¨n th¹c sü khoa häc n«ng nghiÖp
Người hướng dẫn khoa học : TS. Vũ Trọng Bình
Thái Nguyên, năm 2013
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Số liệu và kết quả nghiên cứu trình bầy trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả
Ngô Nhật Minh
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Trọng Bình, người đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như
trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học; Khoa
Kinh tế phát triển nông thôn (Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên);
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Phòng Nông Nghiệp, Trạm
Khí tượng – Thuỷ văn đóng trên địa bàn huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang;
UBND các xã, thị trấn và bà con cộng đồng dân tộc Dao huyện Sơn Động,
tỉnh Bắc Giang; các bạn bè, gia đình và người thân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Bắc giang ngày, tháng, năm 2013
Tác giả
Ngô Nhật Minh
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1 Cơ sở khoa học 4
1.1.1. Một số khái niệm 4
1.1.2. Chuẩn mực xác định nghèo đói 6
1.1.3. Chủ trương, quan điểm, mục tiêu của nhà nước về giảm nghèo. . 9
1.1.4. Mục tiêu của tỉnh về giảm nghèo cho huyện Sơn Động. 16
1.2. Cơ sở thực tiễn 17
1.2.1. Tình hình xóa đói giảm nghèo trên thế giới trên thế giới. 17
1.2.2. Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 20
1.2.2.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xoá đói giảm nghèo 24
1.3. Một số chương trình, chính sách giảm nghèo trên địa bàn huyện Sơn Động. 28
1.3.1. Chương trình giảm nghèo trên địa bàn huyện 28
1.3.2. Các chính sách triển khai trên địa bàn huyện. 36
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 41
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 41
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 41
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 41
2.2. Nội dung nghiên cứu 41
2.3. Phương pháp nghiên cứu 41
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 41
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 42
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
2.3.3. Phương pháp chuyên gia 43
2.3.4. Phương pháp sử lý số liệu 43
2.3.5. Phương pháp phân tích SWOT 44
2.3.6. Phương pháp phân tích đánh giá 44
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 45
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 45
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 45
3.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội, văn hóa 50
3.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội 54
3.2. Thực trạng nghèo của cộng đồng dân tộc Dao trên địa bàn huyện Sơn Động 55
3.2.1. Đặc điểm về người Dao trên địa bàn huyện Sơn Động 55
3.2.2. Thực trạng nghèo của nhóm hộ điều tra 58
3.3. Những nguyên nhân gây ra nghèo của cộng đồng dân tộc người Dao tại
huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang. 65
3.3.1. Nguyên nhân khách quan 66
3.3.1.1. Điều kiện tự nhiên 66
3.3.1.2. Tập quán sinh hoạt và sản xuất 66
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan: 68
3.4. Thực trạng giảm nghèo trên địa bàn huyện Sơn Động nói chung và
cộng đồng người Dao nói riêng. 71
3.4.1. Một số kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo. 71
3.4.2. Phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
trong công tác giảm nghèo cho cộng đồng người Dao 74
3.4.3. Những bài học kinh nghiệm giảm nghèo rút ra đối với Huyện
Sơn Động 75
3.5. Giải pháp giảm nghèo cho cộng đồng người Dao trên địa bàn huyện
Sơn Động tỉnh Bắc Giang. 77
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
v
3.5.1. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà
nước về xoá đói giảm nghèo. 77
3.5.2. Nâng cao nhận thức và quyết tâm thoát nghèo của chính người
nghèo, hộ nghèo ở cộng đồng người Dao 80
3.5.3. Các giải pháp trực tiếp hỗ trợ hộ nghèo, người nghèo 82
3.5.4. Các giải pháp về tổ chức thực hiện 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 95
1. Kết luận 95
2. Kiến nghị. 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
BHYT : Bảo hiểm y tế
UBND : Uỷ ban nhân dân
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
KHKT : Khoa học kỹ thuật
GTSX : Giá trị sản xuất
NLN : Nông lâm nghiệp
CN-TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
DV : Dịch vụ
ĐBKK : Đặc biệt khó khăn
DTTS : Dân tộc thiểu số
ĐCĐC :Định canh định cư
UBND : Ủy ban nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
THPT : Trung học phổ thông
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIẺU
Bảng 1.1: Chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ từ năm 1993 đến 2015 8
Bảng 2.1: Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 42
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất huyện Sơn Động năm 2012 48
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của huyện qua 3 năm 50
Bảng 3.3: Dân số người Dao của huyện Sơn Động giai đoạn 2010-2012 56
Bảng 3.4: Tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 chia theo các tiểu vùng 57
Bảng 3.5: Phân loại hộ người Dao của huyện Sơn Động năm 2012 57
Bảng 3.6: Đặc điểm chung về các hộ dân tộc Dao điều tra năm 2012 58
Bảng 3.7: Tài sản chính của nhóm hộ điều tra năm 2012 59
Bảng 3.8: Một số chỉ tiêu về lao động, nhân khẩu của nhóm hộ điều tra 60
Bảng 3.9. Tình hình sử dụng đất đai tại các hộ điều tra năm 2012 61
Bảng 3.10: Trình độ học vấn của chủ hộ ở các nhóm hộ điều tra 62
Bảng 3.11: Trình độ chuyên môn của các nhóm hộ dân tộc dao điều tra 62
Bảng 3.12: Bình quân thu nhập của dân tộc Dao ở nhóm hộ điều tra năm 2012 63
Bảng 3.13: Tỷ lệ thu nhập từ nông nghiệp và phi nông nghiệp trong nhóm
hộ điều tra 63
Bảng 3.14: Tỷ lệ thu nhập trung bình về nông nghiệp theo nhóm hộ 64
Bảng 3.15: Cơ cấu thu nhập trong nông nghiệp của nhóm hộ điều tra 64
Bảng 3.16: Những nguyên nhân gây ra nghèo cho cộng đồng người Dao 65
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới hiện nay vấn đề đói nghèo vẫn là một trong những vấn đề
cần được quan tâm giải quyết mang tính cấp thiết. Một trong những chính
sách hàng đầu của liên hiệp quốc là phải cải thiện mức sống cho hơn một tỉ
người nghèo trên thế giới. “ Tại hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm
2000, có 189 quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua tuyên bố
thiên niên kỷ và cam kết đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG )
vào năm 2015.[4]
Có thể nói rằng chưa bao giờ các nhà lãnh đạo cao cấp của các quốc gia
lại quan tâm đến vấn đề đói nghèo như bây giờ. Điều này đã khẳng định sự
đồng thuận chưa từng có trong lịch sử của các nhà lãnh đạo trên thế giới về
những thách thức lớn ở cấp toàn cầu trong thế kỷ 21 cũng như những cam kết
của họ sẽ giải quyết thách thức này.
Tại Việt Nam, Chính phủ coi vấn đề XĐGN là mục tiêu quan trọng
xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngay từ những
ngày đầu thành lập nước ( 2 / 9 / 1945 ), chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã quan
niệm nghèo đói như một thứ giặc đó là “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại
xâm”. Chính vì thế Người đã xác định nhiệm vụ trước mắt là phải diệt giặc
đói để đồng bào ta “ ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. [13]
Tuy nhiên do nền kinh tế nước ta chưa phát triển do bởi, xuất phát điểm
thấp, hậu quả của chiến tranh còn nặng nề, cơ chế quản lí cũ không còn phù
hợp với xu thế phát triển chung. Ngoài ra điều kiện tự nhiên cũng có những
tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế : Như khí hậu thời tiết
khắc nghiệt, thiên tai, dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra… Thêm vào đó
trình độ tay nghề, kinh nghiệm sản xuất của người lao động còn rất thấp…
Cho nên một bộ phận không nhỏ dân cư gặp không ít khó khăn trong sản xuất
và đời sống, đã trở nên nghèo đói. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước còn
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
cao, tập trung chủ yếu ở các tỉnh tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số trong đó có Huyện Sơn Động - Tỉnh Bắc Giang.
Thực tế cho thấy: đến năm 2012, huyện Sơn Động vẫn nằm trong 62
huyện nghèo nhất của cả nước, tỷ lệ nghèo của Sơn Động vẫn chiếm tới
48,34%, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số, trong đó dân tộc Dao là 85 %. Vì
vậy việc cứu, lý giải một cách có hệ thống, đánh giá đúng về thực trạng
nghèo và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu quả công
tác giảm nghèo cho cộng đồng người Dao trên địa bàn huyện Sơn Động là
việc là hết sức thiết thực và ý nghĩa.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu giải pháp
giảm nghèo cho cộng đồng dân tộc Dao trên địa bàn Huyện Sơn Động –
Tỉnh Bắc Giang” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng nghèo của người dân, đặc
biệt là của cộng đồng người Dao trên địa bàn huyện. Chỉ ra những nguyên
nhân dẫn đến nghèo và đưa ra những giải pháp giúp họ thoát nghèo.
* Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu đánh giá được thực trạng nghèo của cộng đồng người Dao trên
địa bàn huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích được những nguyên nhân dẫn đến nghèo của cộng đồng
người Dao trên địa bàn huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất giải pháp giảm nghèo cho cộng đồng người Dao trên địa bàn
huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
3. Ý nghĩa của đề tài
Trong nên kinh tế thị trường hiện nay, kinh tế hộ gia đình là một thành
phần kinh tế quan trọng, có nhiều đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. Do vậy,
việc tồn tại một tỷ lệ không nhỏ các hộ gia đình đang sống trong cảnh nghèo
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
đói là một thực tế nhức nhối. Nó gây ảnh hưởng lớn tới tốc đọ tăng trưởng
kinh tế của đất nước và các vấn đề xã hộ khác.
Vì vậy, nghiên cứu này giúp người dân đặc biệt là người dân tộc Dao
hiểu rõ hơn về thực trạng nghèo trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời giúp cho
những hộ thuộc diện đói nghèo tự trang bị cho mình những tri thức hiểu biết
cần thiết, biết khai thác tiềm năng săn có ở địa phương, các nguồn nội lực của
gia đình và bản thân. Phát huy tối ưu và vận dụng các cơ chế chính sách của
chính quyền các cấp đã ban hành, trong công tác xóa đói giảm nghèo một
cách thuận lợi và có hiệu quả nhất.
Góp phần giúp các nhà chức trách địa phương có cái nhìn rõ hơn về thực
trạng nghèo đói hiện nay. Từ đó có những cơ chế chính sách phù hợp với nhu
cầu giảm nghèo của người dân cũng như phù hợp với khả năng hỗ trợ của nhà
nước. Mà mục tiêu chung là làm rút ngắn khoảng cách phân biệt giầu nghèo.
Tạo ra sự bình đẳng tối thiểu trong xã hội .
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm
*Khái niệm về nghèo đói
Khái niệm về đói nghèo được nêu ra tại Hội nghị bàn về XĐGN ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do Escap tổ chức tại Băng Cốc tháng 9 năm
1993 như sau “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con ngời đã được xã hội thừa nhận,
tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của từng
địa phương”[8]. Theo khái niệm này, không có chuẩn nghèo chung cho mọi
quốc gia, chuẩn nghèo cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi
nước và thay đổi theo thời gian và không gian.
Một khái niệm khác được đưa ra tại báo cáo chung của các nhà tài
trợ hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam tháng 12/2003 như sau:
“Nghèo là tình trạng bị thiếu ở nhiều phương diện: thu nhập hạn chế hoặc
thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc
khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít được tham gia
quá trình ra quyết định…”. Khái niệm này cho thấy người nghèo không chỉ
thiếu thốn về vật chất mà còn thiếu thốn cả về đời sống văn hóa tinh thần, vị
thế trong xã hội thấp.
Tuy nhiên tiêu chí và chuẩn mực đánh giá phân loại sự nghèo còn
phụ thuộc vào từng vùng, từng điều kiện lịch sử nhất định.
Để phân biệt một cách chi tiết hơn, người ta còn phân chia nghèo thành
hai loại là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Sự phân chia này giúp cho mỗi
quốc gia đề ra những giải pháp XĐGN phù hợp. Trên thực tế thì sự cố gắng
của mỗi quốc gia cũng chỉ xóa được nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối thì
luôn tồn tại hiện diện ở bất kể quốc gia nào, trình độ phát triển kinh tế nào.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng của một số bộ phận dân cư không
có khả năng thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nó là
tình trạng con người không có ăn, không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu, cần
thiết. Theo quy định của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu dinh dưỡng đối
với các nước Đông Nam Á phải đạt số lượng là 2.100 calo/người/ngày.
+ Nghèo tƣơng đối: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối
phát triển theo không gian và thời gian nhất định, tùy thuộc vào mức sống
chung của xã hội. Như vậy, nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về
mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương
ở một thời kỳ nhất định.
Ở Việt Nam đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đa ra các khái niệm khác
nhau về nghèo đói nhưng các ý kiến tập trung nhất là:
+ Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa
mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của con người và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.[1]
Cách phân chia nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối ở Việt Nam cũng
tương tự như cách phân chia hiện nay của một số nước đang sử dụng.
Từ những đánh giá trên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa dần
nghèo tuyệt đối là công việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện tượng
thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là hạn chế phân hóa giàu
nghèo. Vì nghèo tuyệt đối là mức thu nhập tối thiểu cụ thể do mỗi quốc gia
xác định phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định, nên khi kinh tế phát
triển đến mức độ nhất định, thu nhập bình quân người sẽ vượt mức tối thiểu,
sẽ xóa nghèo tuyệt đối. Còn nghèo tương đối được xác định trong mối tương
quan xã hội về tình trạng thu nhập giữa các nhóm người, dù kinh tế có phát
triển thế nào chăng nữa cũng vẫn tồn tại nhóm người có thu nhập thấp nhất
trong mỗi quốc gia, do đó không thể xóa được nghèo tương đối.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
* Khái niệm về giảm nghèo:
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và
số lượng người nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ
phận dân cư nghèo lên mức sống cao hơn.
Sự thống nhất giữa hai mục tiêu này: Nếu giảm nghèo đạt được mục tiêu
thì đồng thời cũng xóa đói luôn. Do vậy thực chất giảm nghèo và xóa đói là
đồng nghĩa.
1.1.2. Chuẩn mực xác định nghèo đói
1.1.2.1. Chuẩn mực xác định nghèo đói trên thế giới
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế do
Tổng cục thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các
cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 1992 – 1993 và năm 1997 –
1998). Đường đói nghèo thứ 2 ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung
(bao gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm).
Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu
hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan
khác đã xây dựng mức kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là
chuẩn về nhu cầu 2.100 kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới
mức chi cần thiết để đạt được lượng kcal này gọi là nghèo về lương thực, thực
phẩm. Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi
lương thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương
thực, thực phẩm ta có đường đói nghèo chung (chuẩn nghèo)
Để tiện cho việc điều tra khảo sát, tính toán và đánh giá người ta chuyển
từ nhu cầu chi tiêu sang mức thu nhập. Những người có thu nhập thấp hơn
chuẩn nghèo được xếp vào nhóm người nghèo, còn những ai có thu nhập thấp
hơn mức chi tiêu cho lương thực, thực phẩm (đường nghèo cho lương thực
phẩm) thì được xếp vào nghèo về lương thực thực phẩm. Một điều đáng
lưu ý là khi xác định người nghèo phải gắn với thu nhập bình quân của hộ
gia đình, tuy vậy tỷ lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỷ lệ người nghèo.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
Thông thường trong một quốc gia, tỷ lệ người nghèo bao giờ cũng cao hơn
tỷ lệ hộ nghèo, vì quy mô hộ gia đình của nhóm hộ nghèo thường lớn hơn
hộ không nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và
thời gian. Về không gian nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã hội
của từng vùng hay từng quốc gia. Ví dụ như ở Việt Nam, chuẩn nghèo thay
đổi theo vùng sinh thái khác nhau, đó là vùng đô thị, vùng nông thôn đồng
bằng và nông thôn miền núi[1]. Về thời gian, chuẩn nghèo đói cũng có sự
biến động. Nó biến động theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của
con người theo từng giai đoạn lịch sử, vì kinh tế xã hội phát triển thì đời sống
con người cũng được cải thiện tốt hơn, tất nhiên không phải tất cả các nhóm
dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau, thông thường thì nhóm không
nghèo có tốc độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm nghèo[1]. Theo
quan niệm trên, Ngân hàng thế giới đưa ra kiến nghị thang nghèo đói như
sau:[9]
+ Đối với các nước nghèo: Các cá nhân bị coi là nghèo khi mà có thu
nhập dưới 0,5 usd/ngày.
+ Đối với các nước đang phát triển là 1 usd/ ngày.
+ Các nước thuộc châu Mỹ La Tinh và caribe là 2 usd/ngày.
+ Các nước Đông Âu là 4 usd/ngày.
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 usd/ngày.
Vì vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình, thông thường nó
thấp hơn thang nghèo đói mà Ngân hàng đưa ra. Ví dụ: Mỹ đưa ra chuẩn nghèo
là mức thu nhập dưới 16.000 kcal đối với một hộ gia đình chuẩn (gia đình 4
người) trong một năm, tương đương với 11,1 usd/ngày/người. Trung Quốc đưa
ra chuẩn nghèo 960 nhân dân tệ một năm/1 người tương đương với 0,33
usd/ngày/người.[8]
1.1.2.2. Chuẩn mực xác định nghèo đói ở Việt Nam
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính và
mức sống thực tế của người dân ở từng vùng, Bộ Lao động Thương binh và
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
Xã hội Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách hộ nghèo từ cấp
thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên.[3]
Bảng 1.1: Chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ từ năm 1993 đến 2015
Giai đoạn
Đơn vị tính
Hộ đói
(Dưới mức)
Hộ nghèo
(Dưới mức)
1. Giai đoạn 1993 – 1995
Gạo
Khu vực nông thôn
Kg/người/tháng
8
15
Khu vực thành thị
Kg/người/tháng
13
20
2. Giai đoạn 1995 – 1997
Gạo
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Kg/người/tháng
13
15
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du
Kg/người/tháng
13
20
Vùng thành thị
Kg/người/tháng
13
25
3. Giai đoạn 1997 – 2000
Tiền
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Đồng/người/tháng
45.000
55.000
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du
Đồng/người/tháng
45.000
70.000
Vùng thành thị
Đồng/người/tháng
45.000
90.000
4. Giai đoạn 2001 – 2005
Tiền
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Đồng/người/tháng
-
80.000
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du
Đồng/người/tháng
-
10.000
Vùng thành thị
Đồng/người/tháng
-
150.000
5. Giai đoạn 2005 – 2010
Tiền
Khu vực nông thôn
Đồng/người/tháng
-
200.000
Khu vực thành thị
Đồng/người/tháng
-
260.000
6. Giai đoạn 2010-2015
Tiền
Khu vực nông thôn
Đồng/người/tháng
-
400.000
Khu vực thành thị
Đồng/người/tháng
-
500.000
Nguồn: Bộ Lao động thương binh xã hội
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
1.1.3. Chủ trương, quan điểm, mục tiêu của nhà nước về giảm nghèo.
1.1.3.1. Chủ trương, quan điểm của nhà nước
Một là, phải coi xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của toàn bộ hệ
thống chính trị và sự nỗ lực của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
chỉ đạo sát sao của Nhà nước.
Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là yếu
tố quan trọng bảo đảm sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn xã hội hiện nay.
Ngay từ khi nước nhà mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng chỉ rõ: Giành được độc lập rồi mà nhân dân vẫn sống trong cảnh nghèo
nàn, lạc hậu thì độc lập đó phỏng có ích gì? Người còn nhấn mạnh phải ra sức
phát triển sản xuất, kinh tế làm cho mọi người ra khỏi đói nghèo lam lũ vươn
lên đủ ăn, khá giả, giàu có. Ai đã giàu có rồi, vươn lên giàu có hơn nữa. Hơn
ai hết, Người nhận thấy: Đói nghèo, lạc hậu, dốt nát là những kẻ thù nội xâm
làm suy yếu đất nước và chế độ. Chỉ có vượt qua đói nghèo lạc hậu, tiến tới
phát triển và ngày càng phát triển, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, đó mới là
mặt tích cực, bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Theo lời dạy của Bác Hồ, từ nhiều năm nay Đảng và Nhà nước ta đã đẩy
mạnh cuộc vận động xoá đói giảm nghèo, coi đó là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 23-CTTW ngày
29/11/1997 về lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo. Chỉ thị xác
định: "…xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược ổn
định, phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa;
kế tục và phát huy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc" [2,
tr.68-69]. Phong trào xoá đói giảm nghèo được khởi đầu từ năm 1992 từ
thành phố Hồ Chí Minh và trở thành một chương trình quốc gia vào cuối
năm 1998, xoá đói giảm nghèo đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội,
đặc biệt là hàng triệu những người nghèo tham gia. Với tầm cỡ to lớn
những cũng đầy khó khăn phức tạp. Xoá đói giảm nghèo không thể
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
chỉđứng lại ở các chủ trương, đường lối chung, mà phải có sự phối hợp
đồng bộ nhất quán từ chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách,
biện pháp quản lý cụ thể của nhà nước và cuối cùng là sự nỗ lực của mỗi
gia đình, của chính bản thân người lao động.
Hai là, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp về kinh tế với chính
sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị trong xoá đói giảm nghèo.
Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã hội,
hậu quả của đói nghèo tác động trực tiếp đến hiện trạng phát triển kinh tế và
thông qua kinh tế tác động đến tình hình xã hội. Vì đói nghèo dẫn đến sự phân
hoá giàu nghèo, trong nền kinh tế thị trường phân hoá giàu nghèo không chỉ
là phân hoá thu nhập, tài sản, mức sống, mà còn kéo theo phân hoá xã hội:
mức học vấn, văn hoá, lối sống, vị thế xã hội,quan hệ xã hộiphân hoá giàu
nghèo khi vượt quá giới hạn cho phép sẽ biến thành phân hoá giai cấp làm suy
yếu khối liên minh công – nông – trí thức và sự bền vững của chính trị, làm
chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy xoá đói giảm nghèo không chỉ có các chính sách, biện pháp phát
triển kinh tế mà còn gắn liền với các chính sách xã hội, đặt trong tổng thể
của sự ổn định chính trị. Trong đó ổn định chính trị vừa là yêu cầu hàng đầu,
là nền tảng cơ bản, vừa là điều kiện để phát triển kinh tế, thực hiện xoá đói
giảm nghèo.
Có thể nói chính sách xã hội không chỉ tạo ra nền tảng ổn định xã hội để
phát triển, mà còn tạo ra động lực của sự phát triển bởi vì giải quyết các vấn
đề xã hội là thực hiện giải phóng sức lao động, hướng tới xây dựng con người
làm chủ xã hội. Vì vậy, không thể coi chính sách xã hội là "cái đuôi" và đi sau
chính sách kinh tế; giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện ổn định để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [6, tr.28].
Phát triển kinh tế, phải đặc biệt chú trọng bảo vệ lợi ích, quan tâm tới đời
sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức,
các lực lượng bảo vệ an ninh cho chế độ. Đây chính là cơ sở của chế độ chính
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
trị, không được để xảy ra hiện tượng người lao động bị bần cùng hoá, bị bóc
lột một cách tràn lan, bị ngược đãi, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường.
Ổn định chính trị là điều kiện cần thiết để xoá đói giảm nghèo, những
thành công của xoá đói giảm nghèo sẽ là nhân tố quan trọng để củng cố, bảo
vệ chế độ chính trị, giữ vững sự ổn định chính trị. Mọi biện pháp để xoá đói
giảm nghèo phải nhìn nhận từ góc độ kinh tế – xã hội và hơn nữa còn phải
nhìn nhận từ góc độ chính trị.
Ba là, coi trọng việc phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên của chính
người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo.
Mặc dù xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội, nhưng để vượt qua đói nghèo thì lại phải bằng chính sự tự
vươn lên của người nghèo, hộ nghèo. Nhà nước, cộng đồng xã hội chỉ có thể
vai trò bà đỡ tạo điều kiện hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi để người nghèo
tiếp cận được với nguồn lực phát triển, còn có tận dụng được những nguồn
lực đó hay không thì còn phụ thuộc vào chính họ. Tính chất trợ giúp, hỗ trợ
phát triển với vai trò bà đỡ là nét nổi bật của sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.
Cần quán triệt quan điểm này và thể hiện nó một cách toàn diện trong nội
dụng và biện pháp xoá đói giảm nghèo. Nói một cách khác hình ảnh là: giúp
họ "cái cần câu", hướng dẫn họ cách câu, tạo ra điều kiện (tức chỉ chỗ làm ăn
và giúp họ tiêu thụ sản phẩm làm ra) chứ không nên cho sẵn họ con cá. Xoá
đói giảm nghèo bằng cứu trợ nhân đạo thuần tuý chỉ là giải pháp thụ động,
chắp vá, phi kinh tế và không sao giải quyết được triệt để đói nghèo.
Bốn là, huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong tỉnh,
đồng thời mở rộng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài cho
việc xoá đói giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện
được trong vài ngày, vài tháng, nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh thần
rất to lớn, trong đó trước hết là các nguồn lực vật chất như: tài nguyên, đất
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
đai, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, trình độ tay nghề của người lao động
và các môi trường chính trị, xã hội, kết cấu hạ tầng khác…
Nguồn tài chính của nhà nước là rất quan trọng, song không thể chỉ trông
chờ vào một nguồn đó, nhất là trong điều kiện ngân sách quốc gia còn hạn
hẹp, ngân sách địa phương thu không đủ chi, hàng năm phải nhận trợ cấp
ngân sách từ trung ương mà phải huy động mọi nguồn tài chính có thể huy
động được cho xoá đói giảm nghèo (phải xã hội hoá).
Bác Hồ của chúng ta đã từng khẳng định: "Công việc chống nạn đói,
cũngnhư công việc to lớn khác phải kiên quyết, phải sẵn lòng hy sinh, phải
toàn dân nhất trí" [12, tr.93-94].
Chỉ có huy động mọi nguồn lực xã hội bằng cả biện pháp kinh tế và xã
hội mà tiêu biểu là xã hội hoá phong trào xoá đói giảm nghèo để cùng với nhà
nước tập trung sức giải quyết việc xoá đói giảm nghèo. Không như vậy,
không thể huy động được một nguồn lực lớn, trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho
chương trình xoá đói giảm nghèo. Nhà nước dù đầu tư mạnh đến đâu cho xoá
đói giảm nghèo cũng vẫn là có hạn. Chỉ có sự đóng góp của toàn xã hội, mà
trong đó nhà nước là trung tâm mới có thể đưa sự nghiệp xoá đói giảm nghèo
đến thắng lợi.
Xoá đói giảm nghèo phải đặt trong quá trình mở rộng hợp tác, tranh thủ
khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực từ các nước, các tổ chức quốc
tế bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú, phù hợp với điều kiện thực tế và
thông lệ quốc tế.
Đây là một sự bổ trợ quan trọng cho các nguồn lực trong nước, vì chúng
ta đang hoà nhập toàn diện với các nước trong khu vực và trên thế giới, đang
có nhiều khả năng tìm kiếm đối tác, phát triển các dự án phối hợp, các nguồn
tài trợ và viện trợ nhân đạo cho chương trình xoá đói giảm nghèo. Cần tăng
cường các hình thức trao đổi giao lưu hợp tác đó.
Năm là, trong quá trình xoá đói giảm nghèo cần khuyến khích một bộ
phận dân cư vươn lên làm giàu, đồng thời ưu tiên xoá đói giảm nghèo ở các
đối tượng chính sách và các vùng đặc biệt khó khăn.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
Xoá đói giảm nghèo không phải là chủ trương riêng, tách biệt khỏi các
giải pháp phát triển kinh tế xã hội mà luôn luôn nằm trong chiến lược tổng thể
của quá trình phát triển. Các hộ nghèo tồn tại bên cạnh các hộ hộ không
nghèo, các vùng nghèo tồn tại bên cạnh các vùng không nghèo trong mối
quan hệ qua lại tác động với nhau. Khuyến khích, tạo điều kiện cho một bộ
phận dân cư có điều kiện vươn lên làm giàu trước để tạo lập những hạt nhân,
những động lực thúc đẩy kinh tế trong vùng giống như việc tạo ra một hiệu
ứng lan toả, từ đó tác động đến sự phát triển của các hộ nghèo trong vùng.
Trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
có viết: Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
Coi một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời
có chính sách ưu đãi hợp lý về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để
tạo điều kiện cho người nghèo có thể vươn lên làm đủ sống và phấn đấu trở
thành khá giả [7, tr.47].
Bên cạnh việc khuyến khích một bộ phận dân cư có điều kiện vươn lên
làm giàu, cần có biện pháp ưu tiên đối với các hộ thuộc diện gia đình chính
sách như gia đình thương binh, liệt sỹ, các gia đình có công với nước…để các
hộ này có thể nhanh chóng thoát nghèo. Đó chính là việc kết hợp sự tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đối với các vùng đặc biệt khó khăn càng cần phải có những giải pháp ưu
tiên mạnh về nhiều mặt là các vùng căn cứ địa cách mạng, những vùng đã
chịu sự tàn phá nặng nền trong chiến tranh. Nếu để các vùng này tự vươn lên
thì sẽ rất khó khăn và lâu dài, thậm chí có những vùng không thể tự vươn lên
nếu không có sự hỗ trợ.
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước
và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã
hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa
phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo,
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước
và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người
nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói
giảm nghèo; Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện
nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính
quyền, sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân;
đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế
hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình
giảm nghèo; Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo
chung trong cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư,
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào
tinh thần của Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn
thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào
dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư
hỗ trợ các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững [20].
1.1.3.2. Mục tiêu:
- Mục tiêu chung
Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm đến
năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản
xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tốt
các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù
hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
- Mục tiêu cụ thể
+ Mục tiêu cụ thể đến năm 2010
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40% (theo chuẩn nghèo quy định tại
Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm 2005); cơ bản không
còn hộ dân ở nhà tạm; cơ bản hoàn thành việc giao đất, giao rừng; trợ cấp
lương thực cho người dân ở những nơi không có điều kiện tổ chức sản xuất, khu
vực giáp biên giới để bảo đảm đời sống. Tạo sự chuyển biến bước đầu trong sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân
trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, đẩy mạnh
một bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tăng cường
nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo bước đột phá trong
đào tạo nhân lực; triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới; tỷ
lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 25%.
+ Mục tiêu cụ thể đến năm 2015
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của tỉnh.
Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các
công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về
địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bước đầu phát triển sản xuất
theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ và vừa, người dân tiếp cận được các
dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi; lao động
nông nghiệp còn dưới 60% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào
tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 40%.
+ Mục tiêu cụ thể đến năm 2020
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của khu
vực. Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời
sống của dân cư ở các huyện nghèo gấp 5 - 6 lần so với hiện nay. Lao động
nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua
đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn,
trước hết là hệ thống thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện
tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công
nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có
đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt cho
hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn
hoá, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc [20].
1.1.4. Mục tiêu của tỉnh về giảm nghèo cho huyện Sơn Động.
- Mục tiêu chung.
Tạo ra sức phát triển mới vè kinh tế - xã hội và tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và tăng cường kết cấu cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của người dân, góp phần tạo sự chuyển biến nhanh hơn về nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn, giảm nhanh và bền vững số hộ nghèo. Đảm bảo đến năm 2020 mức sống
ngang bằng với các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông,
lâm nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa; khai thác có hiệu quả tiềm
năng kinh tế, thế mạnh rừng, đất đai, tài nguyên khoáng sản và lao động của địa
phương cho mục tiêu giảm nghèo. Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển rộng rãi các hình
thức tổ chức sản xuất có hiệu quả; nâng cao dân trí, môi trường sinh thái được
bảo vệ; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
Củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh, củng cố vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an nhinh nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hộ trên địa bàn [21].
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
17
- Mục tiêu cụ thể.
Đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức gần bằng mức trung bình
của tỉnh, giai đoạn 2010-2015 bình quân mỗi năm giảm từ 4-5% tỷ lệ hộ nghèo
(bình quân mỗi năm giảm 692 hộ). Giá trị sản xuất đầu người bình quân đạt 27
triệu đồng; Lao động nông nghiệp còn dưới 60% lao động xã hội; tỷ lệ lao
động nông thôn qua đào tạo tập huấn, huấn luyện đạt trên 40%
Nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất lên 1,7 lần, bước đầu phát triển sản xuất
theo hướng hàng hóa quy mô nhỏ và vừa, người dân tiếp cận được các dịch vụ
sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi.
Đến năm 2020, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng với mức
trung bình của khu vực. Giai đoạn 2016-2020 bình quân mỗi năm giảm từ 2-
2,5% tỷ lệ hộ nghèo ( bình quân mỗi năm giảm 346 hộ). Giải quyết cơ bản vấn
đề sản xuất, việc làm để nâng cao đời sống của dân cư trong huyện lên gấp 5-6 lần
so với hiện nay. Giá trị sản xuất bình quân đầu người đạt 48 triệu đồng; lao động
nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo
tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới đạt 50%.
Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là
hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa
trồng 2 vụ, nâng hệ số sử dụng đất lên 2 lần; đảm bảo giao thông thông suốt
suốt 4 mùa tới hầu hết các xã có đường ô tô tới các thôn bản, cung cấp điện
sinh hoạt cho hầu hết dân cư., đảm bảo cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh,
sinh hoạt văn hóa, tinh thần, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc[21].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình xóa đói giảm nghèo trên thế giới trên thế giới.
* Nhóm các nước phát triển
- Ở Thụy Điển: Đã có thời kỳ, phát triển theo mô hình nhà nước phúc lợi
chung. Đặc trưng cơ bản của mô hình này là Nhà nước rất coi trọng và có vai
trò quan trọng trong phân phối. Năm 1995, chi tiêu của Chính phủ đạt mức
65% thu nhập quốc dân trong lúc đó, ở các nước khác mức chi tiêu trên chỉ
đạt 33 – 52%. Chính phủ Thụy Điển đã thực hiện hàng loạt các biện pháp để