Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

nghiên cứu thực trạng hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thành phố thái nguyên, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.71 KB, 103 trang )


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


MẠC THỊ HỒNG LƢƠNG



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
THÁI NGUYÊN,TỈNH THÁI NGUYÊN


Chuyên Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số: 60 62 01 16


luËn v¨n th¹c sü khoa häc n«ng nghiÖp





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh Thọ





Thái Nguyên, năm 2013

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ học hàm, học vị nào.
Tôi xin cam đoan: Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã đều được chỉ rõ
nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày

08 tháng 11 năm 2013
Tác giả



Mạc Thị Hồng Lương



S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii

LỜI CẢM ƠN


Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Tôi xin bày
tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên, Phòng quản lý sau đại học của nhà trường cùng các thầy cô
giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm
ơn cô giáo, TS. Nguyễn Thị Minh Thọ, người đã trực tiếp chỉ bảo, hướng
dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Chi cục Phát
triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên, UBND thành phố Thái Nguyên và các
HTX nông nghiệp trên địa bàn thành phố đã giúp đỡ tôi về thông tin, số liệu
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận đuợc sự đóng góp của
các thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 08 tháng 11 năm 2013
Tác giả



Mạc Thị Hồng Lương


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2
2.1. Mục tiêu chung 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2
5. Bố cục luận văn 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã 4
1.1.1. Khái niệm về kinh tế hợp tác, hợp tác xã và hợp tác xã nông nghiệp
4
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã 9
1.1.3. Luật HTX năm 2012 14
1.2. Cơ sở thực tiễn, quá trình phát triển của kinh tế hợp tác và hợp tác xã
trên Thế giới và ở Việt Nam 17
1.2.1. Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) được thành lập ngày 19/8/1895
tại Vương quốc Anh. Trụ sở của ICA đóng tại Geneve (Thụy Sỹ) 17
1.2.2. Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở một số nước trên thế
giới 18
1.2.3. Sơ lược quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam từ năm
1997 đến nay 22

1.2.4. Một số bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam 26
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Câu hỏi nghiên cứu và nội dung nghiên cứu 28
2.1.1. Câu hỏi nghiên cứu 28
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 28

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
2.2. Phương pháp nghiên cứu 28
2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp 28
2.2.2. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp 29
2.2.4. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 31
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 32
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 32
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên 36
3.1.3. Những lợi thế so sánh 39
3.2. Thực trạng hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên 40
3.2.1. Giai đoạn trước Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị 05/4/1988 40
3.2.2. Giai đoạn từ Nghị quyết 10 đến khi có chủ trương chuyển đổi HTX
nông nghiệp 41
3.2.3. Thời kỳ chuyển đổi theo Luật HTX đến nay 43
3.2.4. Kết quả thực hiện chuyển đổi các HTX nông nghiệp 45
3.2.5. Tình hình hoạt động marketing và phân phối sản phẩm của hợp tác
xã trên địa bàn tỉnh 48
3.3. Khái quát quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên 49

3.3.1.Tình hình hoạt động của các HTX trước năm 2003 49
3.3.2. Tình hình hoạt động của các HTX sau năm 2003 50
3.3.3. Tình hoạt động của các tổ hợp tác 52
3.3.4. Thực trạng hoạt động các HTX điều tra 53
3.4. Một số đánh giá chung về tình hình hoạt động của các hợp tác xã nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 63
3.4.1. Về tổ chức quản lý ở các hợp tác xã nông nghiệp 63
3.4.2. Về kết quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp 64
3.4.3. Một số hạn chế 66
3.4.4. Những nguyên nhân của hạn chế 67
3.4.5. Bài học kinh nghiệm 68

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

v
3.5. Một số giải pháp nhằm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở thành phố
Thái Nguyên tron giai đoạn tới 69
3.5.1. Phương hướng phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên 69
3.5.2. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển HTX NN trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên 70
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79
1. Kết luận 79
2. Kiến nghị 79
2.1. Kiến nghị với Trung ương 79
2.2. Kiến nghị với UBND tỉnh Thái Nguyên 80
2.3. Kiến nghị với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh
HTX tỉnh Thái Nguyên 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DVNN : Dịch vụ nông nghiệp
DVTL : Dịch vụ thủy lợi
HTX : Hợp tác xã
HTX NN : Hợp tác xã nông nghiệp
NN : Nông nghiệp
SX : Sản xuất
CB : Chế biến
KD : Kinh doanh

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 3.1. Số lượng các HTX NN theo loại hình kinh doanh sản xuất trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên trước năm 2003 50
Bảng 3.2. Số lượng các HTX NN theo loại hình kinh doanh sản xuất trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên 51
Bảng 3.3. Tình hình tổ hợp tác nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên 53
Bảng 3.4. Phân loại các hợp tác xã nông nghiệp điều tra theo loại hình sản

xuất kinh doanh 53
Bảng 3.5. Tổng hợp trình độ của cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp
điều tra 55
Bảng 3.6. Tình hình vốn quỹ của các hợp tác xã nông nghiệp điều tra tính
đến năm 2012 56
Bảng 3.7. Tình hình công nợ của các hợp tác xã nông nghiệp điều tra tính
đến năm 2012 57
Bảng 3.8. Doanh thu bình quân của một hợp tác xã nông nghiệp tính đến
năm 2012 59
Bảng 3.9. Chi phí bình quân của một hợp tác xã nông nghiệp tính đến năm 2012 . 61
Bảng 3.10. Lợi nhuận bình quân của hợp tác xã nông nghiệp tính đến năm 2012 62





S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà
nước vận hành theo cơ chế thị trường là định hướng lâu dài của Đảng và Nhà
nước ta. Trong đó phát triển kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế phát triển tất
yếu khách quan, có tầm quan trọng đặc biệt để từng bước thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ,
phong trào kinh tế hợp tác và hợp tác xã bước đầu có những chuyển biến tích

cực, thu được kết quả khá tốt. Một số loại hình hợp tác xã đa dạng về dịch vụ,
vốn đã được thành lập và đi vào hoạt động. Các hợp tác xã này đã và đang
thích ứng với cơ chế mới, tạo đà thúc đẩy sản xuất và tăng thu nhập cho người
lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội. Tuy nhiên việc phát triển kinh tế
hợp tác và hợp tác xã hiện nay ở tỉnh Thái Nguyên nói chung cũng như của
thành phố Thái Nguyên nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế.
Với lợi thế về điều kiện tự nhiên và tài nguyên đất đai tạo điều kiện cho
thành phố Thái Nguyên sản xuất nông nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng
hóa sản phẩm. Mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong những năm qua
không ngừng phát triển và đạt kết quả. Tuy nhiên, số hợp tác xã hoạt động
trên địa bàn thành phố số hợp tác xã yếu kém chiếm 21,43 %[13]. Trong đó,
cá biệt còn một số hợp tác xã hoạt động mang tính hình thức, chưa được củng
cố hoặc phải giải thể. Tình trạng hợp tác xã thành lập mới không xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn mà ra đời với mục đích để được hưởng chính sách vay vốn
ưu đãi hoặc đón các chương trình tài trợ vẫn còn tồn tại. Vì thế, khi bước vào
hạch toán độc lập thì các hợp tác xã này tỏ ra lúng túng bị rơi vào tình trạng
hoạt động cầm chừng.


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
Nhằm định hướng và có những giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, trong nền kinh tế thị trường và điều
kiện của thành phố Thái Nguyên, thì việc đánh giá lại thực trạng và định
hướng phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp là hết sức cần thiết. Với lý do
này tôi tiến hành chọn đề tài: “Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các hợp tác
xã nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá được thực trạng hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp ở thành
phố Thái Nguyên để đề xuất những định hướng và giải pháp thúc đẩy kinh tế
hợp tác xã nông nghiệp phát triển.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng hoạt động của các HTX NN trước và sau
Luật HTX năm 2003.
- Đề xuất và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác
xã nông nghiệp ở địa bàn thành phố Thái Nguyên phù hợp với đặc điểm điều
kiện thành phố Thái Nguyên và những vùng có điều kiện tương tự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các HTX nông nghiệp trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển HTX nông
nghiệp của tỉnh Thái Nguyên và thành phố Thái Nguyên. Thực trạng các HTX
nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu HTX nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Về thời gian: từ năm 2010 – 2012 trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đề tài cũng được coi là một tài liệu tham khảo cho Trường, Khoa, các cơ

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo trong lĩnh vực hợp tác xã
nông nghiệp.

Đưa ra những nhận định, đề xuất những giải pháp và cơ chế, chính sách
nhằm phát triển HTX nông nghiệp góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định
kinh tế xã hội trong khu vực nông thôn, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa
nông thôn và thành thị, phát huy lợi thế, tiềm năng sản phẩm nông nghiệp của
thành phố trên thị trường trong và ngoài tỉnh.
Kết quả nghiên cứu giúp cho các chủ hợp tác xã nông nghiệp có định
hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
5. Bố cục luận văn
Ngoài 2 phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng hoạt động và một số giải pháp nhằm phát triển
các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.






S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã
1.1.1. Khái niệm về kinh tế hợp tác, hợp tác xã và hợp tác xã nông nghiệp
1.1.1.1. Kinh tế hợp tác

Kinh tế hợp tác là hình thức tự nguyện của những người lao động, những
người sản xuất nhỏ dưới các hình thức đa dạng, để kết hợp sức mạnh của các
thành viên tạo nên sức mạnh tập thể để giải quyết các vấn đề sản xuất kinh
doanh và đời sống tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và
bền vững.
Ở nước ta trong những năm gần đây có nhiều quan niệm mới về kinh tế
hợp tác đó là:
Thứ nhất, kinh tế hợp tác là sự liên kết tự nguyện của những chủ thể độc
lập trong sản xuất, lưu thông hoặc tiêu dùng.
Thứ hai, các chủ thể này hợp tác với nhau dưới nhiều cấp độ khác nhau
như: hợp tác trong từng công đoạn của quá trình sản xuất, liên kết nhau lại
thành tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân tự chịu trách nhiệm về hoạt động
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc hợp tác với nhau ở một số khâu dịch vụ
phục vụ sản xuất.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, hộ nông nghiệp ở nước ta nhỏ bé,
sản xuất tự cung tự cấp và hoạt động sản xuất chịu nhiều thiên tai. Trong điều
kiện hội nhập, sự cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt do đó kinh tế hộ nông
dân muốn tồn tại thì cần thiết phải có sự hợp tác để cùng phát triển. Bên cạnh
đó, sự hợp tác này còn giúp giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, tăng
thu nhập cho một bộ phận dân cư và tiềm lực kinh tế của địa phương.
1.1.1.2. Hợp tác xã
Một trong những hình thức liên kết giữa các chủ thể đó là thành lập
HTX. HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần.
Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. HTX là phương

thức tất yếu trong lao động sản xuất và các hoạt động kinh tế, gắn liền với sự
phát triển kinh tế và bị ràng buộc và quy định bởi sự tiến triển trong quá trình
xã hội hoá của hoạt động kinh tế của con người và phải thích ứng với tiến
trình phát triển kinh tế đó. HTX phải tạo ra xung lực tăng năng suất lao động
và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Xuất phát từ khái niệm kinh tế hợp tác, nhiều tổ chức và các nhà kinh tế
đã đưa nhiều khái niệm về HTX, cụ thể:
Liên minh HTX quốc tế đưa ra khái niệm như sau: “Hợp tác xã là một tổ
chức chính trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu
cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một
xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”[11].
Còn Tổ chức Lao động quốc tế cho rằng: “ Hợp tác xã là sự liên kết của
những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện
liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài
sản mà họ đã chuyển giao vào hợp tác xã phù hợp với các nhu cầu chung và
giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ chịu trách nhiệm và
bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục
vụcho lợi ích vật chất và tinh thần chung”[11].
Sự giống nhau ở hai khái niệm trên đều cho rằng HTX là một tổ chức
được hình thành trên cơ sở sự liên kết tự nguyện của các thành viên, được vận
hành và quản lý trên cơ sở dân chủ và sự đồng thuận nhằm đạt mục tiêu mang
lại lợi ích chung cho các thành viên. Tuy vậy, với khái niệm do Liên minh
HTX quốc tế nhấn mạnh đến yếu tố hợp tác giữa các thành viên trong quá
trình thành lập và điều hành các HTX để phục vụ lợi ích chung, còn với khái
niệm HTX do Tổ chức Lao động quốc tế lại nhấn mạnh cơ sở của sự hợp tác
giữa các thành viên là để khắc phục sự khó khăn khi hoạt động riêng lẻ, với
sự liên kết này đã mang lại lợi ích chung cho tập thể.

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu


6
Với cách hiểu đơn giản hơn, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới các hợp tác
xã nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã là
thành phần thứ hai trong năm thành phần kinh tế ở nước ta”[7]. Xét theo hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất, Người cho rằng: “Hợp tác xã tức là sở hữu của
tập thể nhân dân lao động…. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu của nhân
dân lao động, Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó
phát triển”[7]. Người khẳng định hợp tác xã là khâu chính thúc đẩy cải cách
xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Người cho rằng HTX có thể thành lập ở cả trong
công sở, hầm mỏ, xưởng máy, đồn điền và nhất là ở nông thôn với nhiều
loại hình: Tín dụng, tiêu thụ, sản xuất, mua bán,….
Ở nước ta, trong Luật HTX 2003 có định nghĩa như sau: “Hợp tác xã là
tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi
ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để
phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước”[14].
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của
pháp luật[14].
Theo luật HTX năm 2012 có định nghĩa như sau: “ Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự
nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác
xã”[22].


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
Từ các khái niệm về HTX, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản về
HTX như sau:
Hợp tác xã là hình thức thực hiện các quá trình hợp tác trong hoạt động
kinh tế. Mục tiêu của HTX là phát triển được sức sản xuất xã hội, tiết kiệm
lao động, tăng hiệu quả kinh tế, phải thích hợp với các mối quan hệ kinh tế
mới trong điều kiện mới.
Việc thành lập HTX không làm mất đi tính tự chủ vốn có của các bên
tham gia, trái lại nó tăng thêm sức mạnh tổng lực và phát triển được những ưu
thế của phương thức HTX.
Thành lập HTX là tạo ra đòn bẩy để phát triển kinh tế các chủ thể kinh tế
tự chủ. HTX là việc liên kết nhau lại giữa các chủ thể kinh tế tự chủ tạo ra sức
mạnh mới, thông qua đó phát triển được kinh tế của mình. Như vậy khi thành
lập HTX mới không phải vì kinh tế HTX mà là sự phát triển kinh tế của các
thành viên. Do đó, kinh tế HTX là tổ chức kinh tế tự nguyện của các chủ thể
kinh tế tự chủ. Kinh tế HTX thể hiện được bản chất tự do lựa chọn phương
thức hoạt động kinh tế của họ trong điều kiện kinh tế thị trường vì kinh tế thị
trường thì các chủ thể kinh tế tự chủ họ có nhiều cách để đạt tới mục đích
kinh tế của mình. Như vậy, trong điều kiện mới, các chủ thể kinh tế tự chủ họ
có thể tham gia HTX hoặc không, khi HTX không đáp ứng yêu cầu của họ.
Từ các khái niệm trên chúng ta có thể nhận định rằng: Hợp tác xã là tổ
chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hình thành HTX là một
quá trình hoàn toàn tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế của con người
trong các hoạt động kinh tế.
1.1.1.3. Hợp tác xã nông nghiệp
HTX nông nghiệp là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế HTX

trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những người nông dân có nhu cầu
và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
chức và hoạt động theo các nguyên tắc hoặc pháp luật quy định, có tư cách
pháp nhân.
Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là
con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của
sản xuất nông nghiệp, cây trồng vật nuôi đều là những cơ thể sống chịu ảnh
hưởng trực tiếp của ngoại cảnh như thời tiết, thủy văn, khí hậu và các sinh vật
khác. Cùng với các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp gặp không ít
khó khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh
phá hoại.
Từ thời xa xưa các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ
trợ, giúp nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất.Khi nền sản
xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp thì quá trình hợp tác mang tính chất
hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau nhằm đáp ứng
yêu cầu thời vụ hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà
từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện hoặc làm riêng rẽ thì không có
hiệu quả cao. Quá trình hợp tác này còn mang đặc điểm tình cảm, tâm lý
truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trong
sản xuất và đời sống. Đặc điểm cơ bản của HTX kiểu này là hợp tác theo vụ
việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày
công. Đây là các hình thức hợp tác xuất hiện từ trước chủ nghĩa tư bản khi
nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản
xuất ngày càng tăng về quy mô và chất lượng dịch vụ như dịch vụ về giống,

phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi… trong điều kiện
này từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu trong quá trình sản xuất
sẽ gặp khó khăn hoặc không có khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp
hơn so với hợp tác. Từ đó nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là
hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày công, giá trị dịch vụ,
dẫn đến hình thành HTX. Như vậy, sự ra đời của HTX trong nông nghiệp là
nhu cầu khách quan gắn với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển cùng với quá trình phân công
chuyên môn hóa làm nảy sinh các cơ quan chuyên ngành như sản xuất lương
thực, hoa, rau, quả, cây công nghiệp…. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều loại
hình dịch vụ chuyên ngành phục vụ cho nông nghiệp như cung ứng vật tư,
vận chuyển, chế biến tiêu thụ nông sản.
Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ
chính trị, xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế nông dân đều có nhu cầu hợp
tác từ hình thức đơn giản đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu hợp tác ngày càng tăng, mối
quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng
phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
Đối với việc tổ chức hoạt động của HTX nhiều quan điểm của các nhà
kinh tế và chính trị đều tập trung vào một số nguyên tắc cơ bản như sau:
Đầu tiên là nguyên tắc dân chủ và tự nguyện, đây là nguyên tắc quan
trọng nhất vì dựa trên tinh thần tự nguyện các hộ nông dân cá thể nhận thấy
lợi ích của việc gia nhập vào các HTX họ sẽ quyết định tham gia và nhiệt tình
đóng góp để xây dựng phát triển HTX, không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn vì

lợi ích của các thành viên khác. Vì thế Các Mác, Ăng-ghen cũng như Lênin
đã nhấn mạnh rằng: “tuyệt đối không được cưỡng ép nông dân mà phải để cho
người nông dân tự suy nghĩ, thấy rõ lợi ích thiết thực của mình và tự nguyện
hợp tác với nhau”[3]. Tuy vậy, để đảm bảo duy trì nguyên tắc này thì điều cần
thiết là phải thực hiện dân chủ trong quản lý và phân chia lợi ích.
Cũng với nguyên tắc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Các HTX phải
làm như thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là người làm chủ tập thể
HTX. Có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của HTX. Có như thế
thì xã viên mới đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và HTX sẽ tiến bộ
không ngừng.” và “Mỗi xã viên phải làm chủ, HTX là nhà, xã viên làm chủ.
Mình có quyền làm chủ và tự nguyện vào, Đảng và Chính phủ không bắt
buộc”[6].

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế dân chủ, do đó kinh tế hộ, tự nguyện liên
hợp lại vì mục tiêu lợi ích chung vì thế họ bình đẳng, cùng đồng tham gia
quyết định mọi hoạt động kinh tế chung. Để cùng có lợi, họ vào HTX là để
tăng sức sản xuất chung lên, tiết kiệm và ứng dụng thành tựu khoa học công
nghệ cao, chia sẻ rủi ro, do đó tăng hiệu quả kinh tế lên, lợi ích này sẽ là của
chung và sẽ được phân bổ tuỳ thuộc vào sự tham gia đóng góp của từng chủ
thể kinh tế tự chủ trong hợp tác.
Thứ hai, việc xây dựng và phát triển HTX: Theo quan điểm của Các Mác
và Ăng-ghen thì “Hợp tác xã phải tiến hành từng bước có tính đến bước đi và
sự chờ đợi và cần phải lôi cuốn được nông dân, cùng với giai cấp công nhân
đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, việc xây dựng các hợp tác xã phải có sự
giúp đỡ của Nhà nước chuyên chính vô sản để đảm bảo tính pháp lý cho sự ra
đời của kinh tế hợp tác xã. Đồng thời, Nhà nước sẽ giúp đỡ các hợp tác xã về

tài chính, khoa học kỹ thuật, lao động… thông qua các chính sách phát triển
kinh tế, xã hội”[10].
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc xây dựng các HTX nông
nghiệp cần phải đi lên từ những tổ đổi công. Người cho rằng: “Gốc của thắng
lợi là tổ chức, trước hết là tổ đổi công cho tốt rồi tiến dần lên hợp tác xã nông
nghiệp”, “Phải phát triển tốt phong trào đổi công và hợp tác; phải thi đua tăng
gia sản xuất thực hành tiết kiệm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch
Nhà nước.” và “ Hiện nay phong trào tổ chức hợp tác xã nông nghiệp tiến
bước khá tốt; nhưng nhiều nơi còn lệch lạc. Chúng ta phải củng cố thật tốt các
tổ đổi công và các hợp tác xã đã có, tuyên truyền và giáo dục nông dân làm
cho phong trào phát triển vững chắc… Những nơi chưa có hợp tác xã thì phải
củng cố tổ đổi công thật tốt để tiến lên hợp tác xã. Các địa phương phải cố
gắng làm cho mỗi làng có một vài hợp tác xã thật tốt để làm kiểu mẫu cho
những hợp tác xã sẽ tổ chức sau. Trong việc củng cố và phát triển phong trào
đổi công và hợp tác xã phải chú trọng chất lượng tốt, không nên chỉ chú trọng
con số”[6].

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc xây dựng các HTX nông
nghiệp cần phải đi lên từ những tổ đổi công. Người cho rằng: “Gốc của thắng
lợi là tổ chức, trước hết là tổ đổi công cho tốt rồi tiến dần lên hợp tác xã nông
nghiệp”, “Phải phát triển tốt phong trào đổi công và hợp tác; phải thi đua tăng
gia sản xuất thực hành tiết kiệm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch
Nhà nước” và “Hiện nay phong trào tổ chức hợp tác xã nông nghiệp tiến bước
khá tốt; nhưng nhiều nơi còn lệch lạc. Chúng ta phải củng cố thật tốt các tổ
đổi công và các hợp tác xã đã có, tuyên truyền và giáo dục nông dân làm cho
phong trào phát triển vững chắc…Những nơi chưa có hợp tác xã thì phải củng cố

tổ đổi công thật tốt để tiến lên hợp tác xã. Các địa phương phải cố gắng làm cho
mỗi làng có một vài hợp tác xã thật tốt để làm kiểu mẫu cho những hợp tác xã sẽ
tổ chức sau. Trong việc củng cố và phát triển phong trào đổi công và hợp tác xã
phải chú trọng chất lượng tốt, không nên chỉ chú trọng con số”[12].
Hợp tác xã nông nghiệp cần phải tiến hành thận trọng từng bước, và phải
dựa trên hiệu quả hoạt động của các tổ đổi công. Việc xây dựng các HTX cần
chú trọng đến chất lượng. Trên cơ sở xây dựng thành công các HTX điển hình
thì mới nhân rộng để trở thành phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp.Như
vậy muốn tăng gia sản xuất được nhiều thì cần làm tập thể, nhưng vì từ trước
tới nay nông dân ta quen làm ăn riêng rẽ, từng nhà, không quen tập thể, không
quen tổ chức. Để tiến bộ thì đường đi của nông dân phải có mấy bước, bước
ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi nước.
Theo Người, việc xây dựng và phát triển HTX không phải là sự áp đặt
theo lối chủ quan, duy ý chí mà phải được hình thành trên các cơ sở sau:
1. Phải dựa trên cơ sở nhu cầu thực tiễn đòi hỏi mà tổ chức xây dựng
HTX cho phù hợp cả về tổ chức và qui mô.
2. Phải dựa trên các nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi, quản trị dân
chủ. Người viết: “Chuẩn bị tốt là làm cho xã viên tự nguyện, tự giác, không
được gò ép, mệnh lệnh và quản trị phải dân chủ”[12].
3. Phải dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế. Người viết: “Cần phải nêu cao

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
tính hơn hẳn của HTX bằng những kết quả thiết thực và gọi là HTX bậc cao
thì phải đoàn kết cao, sản xuất phải cao, thu nhập chung của HTX phải cao,
thu nhập riêng của xã viên phải cao”[12].
4. Để HTX tồn tại và phát triển thì cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước phải giúp HTX về vốn, về tiêu thụ sản

phẩm Người nêu: “HTX còn nghèo, thường thường Chính phủ phải giúp
đỡ, phải cho vay vốn” “Chính phủ phải cố gắng phục vụ lợi ích HTX” và “cái
gốc trong việc lãnh đạo HTX vẫn là Chi bộ Đảng ở cơ sở”[12].
Thực tiễn hiện nay cho thấy, địa phương nào được cấp ủy quan tâm
lãnh đạo, chính quyền quan tâm hỗ trợ, cán bộ HTX nhiệt tình, có tâm
huyết, có năng lực quản lý, các nguyên tắc tự nguyện dân chủ trong HTX
được phát huy thì địa phương đó có phong trào HTX phát triển mạnh và
có hiệu quả rõ rệt.
Thứ ba, về cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh: theo quan điểm của
Các Mác và Ăng-ghen thì “Hình thức và biện pháp thực hiện hợp tác phải
thiết thực cụ thể, hết sức tránh những biện pháp và hình thức thiếu thực tế, mơ
hồ. Hợp tác được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, hình thức và biện pháp, trong
mỗi lĩnh vực lại khác nhau. Trong lĩnh vực nông nghiệp, loại hình đất đai
khác nhau, cây trồng, vật nuôi khác nhau, quan hệ thị trường khác
nhau…ngoài ra phải tính đến nhiều yếu tố khác như phong tục, tập quán của
mỗi vùng”[6]. Vì vậy, biện pháp và hình thức hợp tác phải thiết thực, cụ thể
phù hợp với điều kiện cụ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: sản xuất cũng phải hợp tác với nhau thì
mới thành sức mạnh, mới khắc phục được khó khăn để phát triển. Người nông
dân không thể tiến lên ấm no, hạnh phúc nếu làm ăn cá thể, riêng rẽ: “Nếu
chúng ta đứng riêng rẽ, thì sức nhỏ làm không nên việc”[6]. Do đó, những cá
nhân hợp sức, hợp vốn với nhau để xây dựng hợp tác xã. Nhưng để ngôi nhà
chung đó ngày càng to, đẹp hơn thì Bác cũng dạy: “Mỗi hợp tác xã cần có

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
phương hướng sản xuất đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế trong hợp tác
xã và phù hợp với tình hình và yêu cầu chung của nền kinh tế quốc dân” và “

Kế hoạch sản xuất của hợp tác xã phải đưa ra bàn bạc một cách dân chủ với
xã viên. Phải tuyên truyền giáo dục cho xã viên hiểu, xã viên tự nguyện làm,
tuyệt đối không được dùng cách gò ép, mệnh lệnh, quan liêu”[8]. Đây là
những tư tưởng quản lý kinh tế rất tiến bộ không chỉ phù hợp với hoạt động
sản xuất kinh doanh của loại hình HTX lúc đó mà còn đúng đến ngày nay với
mọi tổ chức sản xuất kinh doanh.
Khâu cuối cùng của trong hoạt động của các HTX là phân phối thành
quả cho các xã viên. Tư tưởng của Người là:“ Sản xuất được nhiều, đồng thời
phải chú ý phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công, vô tư thậm chí có
khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt thòi phần nào. Chớ nên cái gì
tốt thì giành về cho mình, xấu để người khác”[6].
Người cũng đưa ra nguyên tắc trong thực hiện phân phối:“Không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng”[6]. Đó là một trong những phương pháp
quản lý kinh tế hiệu quả, vì theo khoa học quản lý hiện nay thì yếu tố đảm
bảo sự công bằng trong phân phối là một trong những động lực giúp cho
người lao động gắn bó và nhiệt tình với công việc. Chính điều đó làm cho
các HTX nói riêng và các tổ chức khác nói chung vận hành hiệu quả và
ngày càng phát triển.
Theo Luật HTX đưa ra quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
HTX cụ thể như sau:
Thứ nhất: Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều
kiện theo quy định của Luật này, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia
nhập hợp tác xã; xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ HTX.
Thứ hai: Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia
quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết;
thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối
và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTX.
Thứ ba: Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự

S

ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về
phân phối thu nhập. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải
các khoản lỗ của HTX, lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một
phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia
cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Thứ tư: Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy
tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng
xã hội; hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của
pháp luật[14].
1.1.3. Luật HTX năm 2012
1.1.3.1. Sự cần thiết của Luật HTX năm 2012
Luật HTX sửa đổi 2003 ra đời đã góp phần thể chế hoá những quan
điểm của Nghị quyết số 13, hội nghị trung ương 5 khoá 9 về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.Tuy nhiên, sau gần 10 năm đi
vào thực tế cuộc sống, Luật HTX năm 2003 đã bộc lộ những mặt hạn chế,
thiếu sót cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung nhằm thúc đẩy khối kinh tế tập thể
phát triển mạnh, bền vững và đúng với bản chất của HTX. Chính vì vậy, Luật
HTX sửa đổi năm 2012 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2013,
thay thế cho Luật HTX năm 2003. Trong bối cảnh hiện nay, Luật HTX sửa
đổi năm 2012 được kỳ vọng sẽ mang một luồng gió mới đến cho khu vực
kinh tế tập thể vốn còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
10 năm là khoảng thời gian đủ dài để một bộ Luật phát huy hiệu quả trong
cuộc sống. Thế nhưng, có những HTX, 10 năm dường như vẫn chưa đủ để họ
tìm hiểu, nghiên cứu Luật, nói gì đến việc áp dụng Luật vào thực tiễn. Trớ trêu
hơn nữa, khi nhiều HTX chưa kịp chuyển đổi theo Luật HTX năm 2003 thì Luật
HTX sửa đổi 2012 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2013.
Những hạn chế, thiếu sót, những quy định không còn phù hợp trong bối

cảnh kinh tế hiện nay làn guyên nhân phải sửa đổi Luật HTX năm 2003. Cụ

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
thể, Luật HTX năm 2003 chưa xác định được rõ địa vị pháp lý, bản chất của
hợp tác xã, chưa quy định rõ bản chất của hợp tác xã là phục vụ thành viên.
Nguyên tắc quản lý dân chủ trong hợp tác xã là chưa rõ ràng. Các chính sách
hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cũng chưa được quy định
trong Luật.Về sở hữu tập thể với tài sản chung cũng chưa được làm rõ dẫn
đến những tranh chấp khi giải thể HTX… Những hạn chế, thiếu sót này đã
được điều chỉnh, bổ sung trong Luật HTX sửa đổi năm 2012. Đến thời điểm
này, Luật HTX năm 2012 đã có hiệu lực được gần 2 tháng, và nó đang được
nhiều đơn vị kỳ vọng là sẽ góp phần giải quyết những khó khăn, bất cập của
khu vực kinh tế tập thể.
Có thể nói, việc ban hành Luật HTX sửa đổi thay thế Luật HTX năm
2003 là việc làm cần thiết, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội
trong giai đoạn hiện nay. Việc làm mới Luật sẽ góp phần đảm bảo khung
pháp lý phù hợp với bản chất của mô hình kinh tế HTX, tạo điều kiện thúc
đẩy các HTX phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh cạnh tranh
công bằng và bình đẳng. Trên địa bàn thành phố nói riêng, cả nước nói chung lâu
nay vẫn xảy ra tình trạng không ít đơn vị hoạt động theo mô hình doanh nghiệp
nhưng núp dưới danh nghĩa là HTX. Những HTX này chỉ hướng tới mục tiêu lợi
nhuận cho một hoặc vài người đứng đầu đơn vị mà không chú trọng tới lợi ích
của xã viên tham gia. Có tình trạng này là do các đơn vị muốn lợi dụng các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước dành cho khu vực kinh tế tập thể. Tuy nhiên,
chỉ sau một thời gian hoạt động, nhiều đơn vị đã phải chuyển sang các loại hình
doanh nghiệp khác. Với các quy định chặt chẽ của Luật HTX sửa đổi năm 2012,
chắc chắn sẽ có thêm nhiều HTX hoạt động không đúng bản chất của kinh tế tập

thể buộc phải giải thể hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động. Thiết nghĩ, đây là
việc làm cần thiết để kinh tế tập thể nói chung, HTX nói riêng có được vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo quyền và lợi ích cho hàng chục
triệu xã viên, đặc biệt là người nông dân trong cả nước.

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

16
Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa 9 về
kinh tế tập thể đã chỉ rõ: kinh tế tập thể chưa thoát khỏi yếu kém kéo dài, tốc
độ tăng trưởng thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu,
năng lực quản lý hạn chế. Đặc biệt, HTX không tạo được niềm tin cho bà con
nông dân về hiệu quả của mô hình kinh tế HTX, việc có tham gia HTX hay
không cũng không cho thấy sự khác nhau về quyền lợi. Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng yếu kém này của kinh tế tập thể, trong đó phải kể đến
việc Luật HTX năm 2003 chưa thực sự đi vào cuộc sống. Không thể phủ nhận
những lợi ích mà Luật HTX năm 2003 mang lại cho khu vực HTX song cũng
phải thẳng thắng thừa nhận rằng,việc triển khai Luật này còn mang nặng tính
phong trào, số lượng HTX thực sự hoạt động theo Luật còn rất hạn chế, còn
lại phần lớn là chuyển đổi theo kiểu “bình mới rượu cũ”[20].
1.1.3.2. Một số điểm mới trong Luật HTX năm 2012
Luật HTX 2012 đã được Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 20 tháng 11 năm 2012 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2013, thay thế cho
Luật HTX năm 2003. So với Luật HTX năm 2003, Luật HTX 2012 có nhiều
điểm mới khác biệt, cụ thể như sau:
- Luật HTX 2012, gồm 9 Chương, 64 Điều, trong khi Luật HTX năm
2003 có 10 chương và 52 điều.
- Trong Luật HTX năm 2003 người đóng góp vốn được gọi là xã viên
HTX thì hiện nay trong Luật mới, thống nhất gọi là thành viên HTX.

- Luật HTX 2012 cho phép khi HTX phát triển ở trình độ cao hơn thì
hình thành doanh nghiệp của HTX.
- Với Luật mới, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có thể là
thành viên HTX
- Luật HTX 2012 quy định, số vốn góp của các thành viên không vượt
quá 20% vốn điều lệ của HTX trong khi đó Luật HTX năm 2003 quy định
góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; mức vốn góp không vượt quá
30% vốn điều lệ của hợp tác xã.

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
- Về phân phối thu nhập: Theo Luật mới, HTX sau khi hoàn thành nghĩa
vụ tài chính với Nhà nước, thu nhập của HTX được phân bổ như sau:Trích lập
quỹ đầu tư phát triển không thấp hơn 20% thu nhập; Trích lập quỹ dự phòng
tài chính không thấp hơn 5% thu nhập. Phân chia chủ yếu theo mức độ sử
dụng sản phẩm, dịch vụ, công sức lao động đóng góp của thành viên đối với
HTX, Liên hiệp HTX phần còn lại chia theo vốn góp.
- Về thi đua khen thưởng thực hiện theo Luật thi đua khen thưởng và các
quy định khác của pháp Luật hiện hành.
- Theo Luật HTX năm 2003, người điều hành hoạt động của Hợp tác xã,
Liên hiệp Hợp tác xã được gọi là Chủ nhiệm HTX thì nay, theo Luật HTX
năm 2012, được gọi là Giám đốc, tổng Giám đốc.
- Luật HTX năm 2012 cũng quy định rõ hơn về chức năng quản lý nhà
nước về chuyên ngành và Liên minh HTX[21].
1.2. Cơ sở thực tiễn, quá trình phát triển của kinh tế hợp tác và hợp tác
xã trên Thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) được thành lập ngày 19/8/1895
tại Vương quốc Anh. Trụ sở của ICA đóng tại Geneve (Thụy Sỹ)

ICA là một trong những tổ chức quốc tế lớn nhất trên thế giới, phần lớn các
nước có phong trào HTX đều là thành viên của ICA. Hiện nay, ICA đại diện cho
trên 800 triệu xã viên của 225 tổ chức HTX quốc gia của 96 nước[16].
ICA có vai trò và sứ mệnh quan trọng:
Phát triển giá trị và nguyên tắc HTX. HTX là tổ chức của những người
tự nguyện liên kết lại với nhau để đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, xã hội và
văn hoá, tự chủ, tự chiụ trách nhiệm; HTX hoạt động dựa trên các giá trị
tương trợ, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết.
Tuyên truyền về vai trò HTX trong phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu,
các giải pháp phát triển phong trào HTX trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do
hóa thương mại.

×