Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

bài giảng kinh tế học chương 10 đo lường thu nhập của một quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.71 KB, 14 trang )




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 1



CHƯƠNG 10
ĐO LƯỜNG THU NHẬP CỦA MỘT QUỐC GIA

Khi bạn tốt nghiệp và bắt đầu đi tìm việc làm, thì phần lớn kinh nghiệm mà bạn tích luỹ được
là nhờ điều kiện kinh tế hiện tại. Trong một số năm, các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế
mở rộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, việc làm tăng và bạn dễ dàng tìm được việc làm.
Trong một số nă
m khác, các doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, việc làm giảm và bạn mất
nhiều thời gian mới tìm được việc làm tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên là tất cả sinh viên tốt
nghiệp đại học đều muốn gia nhập lực lượng lao động vào năm hoạt động kinh tế mở rộng,
chứ không phải khi nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thóai.
Do điều kiện của toàn nền kinh t
ế ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả chúng ta, nên những thay đổi
trong điều kiện kinh tế thường được thông báo rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại
chúng. Trên thực tế, rất hiếm khi chúng ta cầm một tờ báo lên mà không nhìn thấy số liệu
thống kê mới về nền kinh tế. Số liệu thống kê có thể phản ánh tổng thu nhập của mọi người
trong nền kinh tế (GDP), tốc độ
tăng giá bình quân (lạm phát), phần trăm lực lượng lao động
không có việc làm (thất nghiệp), tổng mức chi tiêu tại các cửa hàng (doanh số bán lẻ), hoặc
sự mất cân bằng của hoạt động thương mại giữa Mỹ và các nước khác trên thế giới (thâm hụt
thương mại). Tất cả những số liệu thống kê này đều là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Thay vì đề cập
đến một hộ
gia đình hoặc một doanh nghiệp riêng lẻ, chúng cho ta biết điều gì đó về toàn bộ


nền kinh tế.
Như bạn có thể nhớ lại từ chương 2, kinh tế học được chia thành 2 phân ngành là kinh tế vi
mô và kinh tế vĩ mô. Kinh tế vi mô là bộ môn nghiên cứu về việc các hộ gia đình và doanh
nghiệp riêng lẻ đưa ra quyết định và tương tác với nhau như thế nào trên các thị trường cụ
thể. Kinh t
ế vĩ mô là bộ môn nghiên cứu về nền kinh tế với tư cách một tổng thể. Mục tiêu
của kinh tế vĩ mô là lý giải những biến động kinh tế đồng thời tác động tới các hộ gia đình,
doanh nghiệp và thị trường. Kinh tế vĩ mô nêu ra nhiều câu hỏi rất khác nhau: Tại sao thu
nhập bình quân cao ở một số nước, trong khi lại thấp ở những nước khác? Tại sao giá cả t
ăng
nhanh trong một số thời kỳ, nhưng lại ổn định hơn ở những thời kỳ khác? Tại sao sản lượng
và việc làm tăng trong một số năm, nhưng lại giảm trong những năm khác? Chính phủ có thể
làm gì để thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của thu nhập, cắt giảm lạm phát và ổn định việc
làm? Những câu hỏi này mang bản chất kinh tế vĩ mô, bở
i vì chúng liên quan đến quá trình
vận hành của toàn bộ nền kinh tế.
Do nền kinh tế với tư cách một tổng thể chẳng qua chỉ là tập hợp của rất nhiều hộ gia đình và
doanh nghiệp tương tác với nhau trên nhiều thị trường, nên kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có
mối liên hệ cực kỳ chặt chẽ với nhau. Ví dụ, các công cụ cơ bản của cung và cầu đóng vai trò
trung tâm trong phân tích kinh tế vĩ mô, cũ
ng như trong phân tích kinh tế vi mô. Song việc
nghiên cứu nền kinh tế với tư cách một tổng thể cũng đặt ra những thách thức mới và hấp
dẫn.
Trong chương này và chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về một vài số liệu mà các nhà
kinh tế và nhà hoạch định chính sách thường sử dụng để theo dõi sự vận hành của toàn nền
kinh tế. Những số liệu này phản ánh những biến động kinh tế
mà các nhà kinh tế vĩ mô tìm




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 2



cách lý giải. Chương này xem xét tổng sản phẩm trong nước, gọi tắt là GDP, chỉ tiêu phản
ánh về tổng thu nhập của một quốc gia. GDP là số liệu thống kê kinh tế thường thấy nhất, bởi
vì nó được coi là chỉ tiêu tốt nhất về phúc lợi kinh tế của xã hội.
THU NHẬP VÀ CHI TIÊU CỦA NỀN KINH TẾ
Nếu phải đánh giá xem một người có hoạt động kinh tế t
ốt không, có thể trước tiên bạn nhìn
vào thu nhập của anh ta. Một người có thu nhập cao dễ dàng mua được những hàng hóa thiết
yếu và sang trọng cho cuộc sống. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những người có thu nhập
cao được hưởng thụ mức sống cao - nhà ở sang trọng hơn, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, những
chiếc xe hơi sành điệu hơn và nhiều kỳ nghỉ sang trọng hơn, và vân vân.
Lô gích tương tự c
ũng áp dụng cho nền kinh tế của một quốc gia. Khi đánh giá xem nền kinh
tế nào đó có hoạt động tốt không, dĩ nhiên người ta thường nhìn vào tổng thu nhập mà mọi
người trong nền kinh tế kiếm được. Đó chính là nhiệm vụ của tổng sản phẩm trong nước
(GDP).
GDP cùng một lúc phản ánh hai sự việc: tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế và
tổng chi tiêu để mua sả
n lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Lý do làm GDP phản
ánh được cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu là vì hai đại lượng này thực ra chỉ là một. Đối với
nền kinh tế với tư cách một tổng thể, thu nhập phải bằng chi tiêu.
Tại sao điều này lại đúng? Lý do làm cho thu nhập của nền kinh tế bằng chi tiêu là mọi giao
dịch đều có hai bên: bên mua và bên bán. Mọi khoản chi tiêu của người mua nào đ
ó đều là
thu nhập của người bán khác. Ví dụ, giả sử Karen trả Doug 100 đô la để cắt cỏ cho cô. Trong
trường hợp này, Doug chính là người bán dịch vụ, còn Karen là người mua. Doug kiếm được

100 đô la và Karen chi tiêu 100 đô la. Do vậy, giao dịch này đóng góp vào tổng thu nhập và
tổng chi tiêu của nền kinh tế một lượng như nhau. Bất kể tính theo tổng thu nhập hay tổng chi
tiêu, GDP đều tăng thêm 100 đô la.
















Các Doanh
nghiệp
Các hộ
gia đình
Thị trường hàng hoá
và dịch vụ
Thị trường các nhân tố
sản xuất
Đầu vào sản
xuất


Lao động, đất đai và
tư bản

Mua hàng hoá
và dịch vụ
Bán hàng hoá
và dịch vụ

Doanh thu
(= GDP)
Chi tiêu
(= GDP)
Thu nhập
(= GDP)
Tiền lương, tiền thuế,
và lợi nhuận
(= GDP)



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 3



Hình 1. Biểu đồ vòng chu chuyển. Các hộ gia đình mua hàng hóa và dịch vụ của các doanh
nghiệp, còn các doanh nghiệp sử dụng doanh thu bán hàng để thanh toán tiền lương cho
công nhân, tiền thuê cho chủ đất và lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp. GDP bằng tổng số tiền
mà các hộ gia đình chi ra trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Nó cũng bằng tổng tiền lương,
tiền thuê và lợi nhuận mà các doanh nghiệp thanh toán trên thị trường các nhân tố sản xuất.

Mộ
t cách khác để nhận thấy sự bằng nhau giữa thu nhập và chi tiêu là sử dụng biểu đồ
vòng chu chuyển trong hình 1. (Bạn có thể nhớ lại biểu đồ vòng chu chuyển trong chương 2).
Biểu đồ này mô tả tất cả các giao dịch giữa hộ gia đình và doanh nghiệp trong nền kinh tế
giản đơn. Trong nền kinh tế đó, các hộ gia đình mua hàng hóa và dịch vụ từ doanh
nghiệp; các khoản chi tiêu này đi qua thị trường hàng hóa và dịch v
ụ. Sau đó các doanh
nghiệp sử dụng tiền nhận được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ để trả tiền lương cho công
nhân, tiền thuê cho chủ đất và lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp; các khoản thu nhập này
chảy qua thị trường các nhân tố sản xuất. Như vậy, tiền liên tục chảy từ khu vực hộ gia
đình sang khu vực doanh nghiệp, sau đó quay trở lại khu vực hộ gia đình.
Chúng ta có thể
tính GDP cho nền kinh tế này theo hai cách: cộng tất cả các khoản chi
tiêu của các hộ gia đình lại với nhau hoặc cộng các khoản thu nhập (tiền lương, tiền thuê
và lợi nhuận) mà các doanh nghiệp thanh toán. Bởi vì mọi khoản chi tiêu trong nền kinh
tế cuối cùng đều trở thành thu nhập của ai đó, nên GDP là như nhau, bất kể nó được tính
theo cách nào.
Tất nhiên, nền kinh tế trong thực tế phức tạp hơn nhiều so với n
ền kinh tế được minh họa
trong hình 1. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu hết thu nhập của mình. Họ nộp một phần
thu nhập cho chính phủ dưới dạng thuế, cũng như tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập để
sử dụng trong tương lai. Ngoài ra, các hộ gia đình không mua tất cả hàng hóa và dịch vụ được
sản xuất ra trong nền kinh tế. Một số hàng hóa và dịch vụ đượ
c chính phủ mua, còn một số
khác được các doanh nghiệp mua, vì họ dự kiến trong tương lại sẽ sử dụng chúng vào việc
sản xuất ra sản phẩm của riêng họ. Tuy nhiên, bất kể hộ gia đình, chính phủ, hay doanh
nghiệp mua một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, thì giao dịch đó vẫn có bên mua và bên bán.
Do vậy, khi xem xét nền kinh tế với tư cách một tổng thể thì chi tiêu và thu nhập là luôn luôn
bằng nhau.
Kiểm tra nhanh: Tổng sả

n phẩm trong nước phản ánh hai sự việc gì? Làm thế nào nó có thể
phản ánh hai sự việc cùng một lúc?
TÍNH TOÁN TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC
Giờ đây, sau khi đã thảo luận khái quát ý nghĩa của tổng sản phẩm trong nước, chúng ta hãy
tìm hiểu xem cụ thể chỉ tiêu thống kê này được tính toán như thế nào. Sau đây là định nghĩa
về GDP:
• Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị tr
ường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước, trong một thời kỳ nhất định.
Định nghĩa này xem ra có vẻ khá đơn giản. Song trong thực tế, có rất nhiều vấn đề phức tạp
nảy sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta hãy xem xét cẩn thận từng cụm
từ trong định nghĩa này.



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 4



"GDP là giá trị thị trường "
Có lẽ bạn đã từng nghe câu châm ngôn "Bạn không thể so sánh táo với cam." Nhưng GDP lại
làm đúng như vậy. GDP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị
của hoạt động kinh tế. Để làm được điều này, nó phải sử dụng giá thị trường. Do giá thị
trường biểu thị số tiền mà mọi ng
ười sẵn sàng chi trả cho các hàng hóa khác nhau, nên nó
phản ánh giá trị của những hàng hóa này. Nếu giá của một quả táo bằng hai lần giá của một
quả cam, thì một quả táo đóng góp vào GDP gấp hai lần giá trị đóng góp của một quả cam.
"của tất cả "
GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. Nó bao gồm tất cả các hàng hóa được sản xuất ra

trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị
trường. GDP tính toán giá thị trường
không chỉ của táo và cam, mà còn của lê, nho, sách, phim ảnh, dịch vụ cắt tóc, chăm sóc y tế,
và vân vân.
GDP còn bao gồm cả giá trị thị trường của dịch vụ nhà ở do khối lượng nhà ở hiện có của
nền kinh tế cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng tính được giá trị
này - tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của người thuê nhà và thu nhập của chủ nhà. Tuy
nhiên, có nhiều người sinh s
ống trong chính các căn nhà của họ và do vậy không phải trả
tiền thuê nhà. Chính phủ hạch toán những ngôi nhà do chủ sở hữu sử dụng vào GDP bằng
cách ước tính giá trị cho thuê của chúng. Nghĩa là, GDP được tính dựa trên giả định cho
rằng người chủ sở hữu trả tiền thuê nhà cho chính họ, do vậy tiền thuê nhà nằm trong cả chi
tiêu và thu nhập của anh ta.
Tuy nhiên, có một số sản phẩm mà GDP bỏ sót do việc tính toán chúng quá khó kh
ăn. GDP
không tính những sản phẩm được sản xuất và bán ra trong nền kinh tế ngầm, ví dụ như dược
phẩm bất hợp pháp. Nó cũng không tính được những sản phẩm được sản xuất và tiêu dùng
trong gia đình và do vậy không bao giờ được đưa ra thị trường. Những loại rau quả mua tại
các cửa hàng tạp phẩm là một phần của GDP, song rau quả trồng trong vườn của bạn lạ
i
không nằm trong đó.
Những thiếu sót này của GDP đôi khi có thể dẫn đến những kết quả kỳ quặc. Ví dụ, khi
Karen trả tiền thuê Doug cắt cỏ cho cô ta, giao dịch này là một phần của GDP. Nếu Karen
cưới Doug, thì tình hình sẽ thay đổi. Mặc dù Doug vẫn tiếp tục chăm sóc bãi cỏ cho Karen,
nhưng giá trị của hoạt động cắt cỏ giờ đây đã bị đưa ra khỏ
i GDP, bởi vì dịch vụ của Doug
không còn được bán trên thị trường nữa. Do vậy, khi Karen và Doug cưới nhau, GDP giảm.
"cuối cùng "
Nếu công ty International Paper sản xuất giấy, sau đó giấy được công ty Hallmark sử dụng để
làm thiếp chúc mừng, thì giấy được gọi là hàng hóa trung gian, còn thiếp chúc mừng được

gọi là hàng hóa cuối cùng. GDP chỉ bao gồm giá trị của những hàng hóa cuối cùng. Lý do là
giá trị của những hàng hóa trung gian đã
được tính vào trong giá cả của hàng háo cuối cùng.
Việc cộng giá trị thị trường của giấy với giá trị thị trường của thiếp sẽ dẫn tới sự tính trùng.
Nghĩa là, giá trị của giấy được tính hai lần (tính sai).
Trường hợp ngoại lệ quan trọng đối với nguyên tắc trên nảy sinh khi hàng hóa trung gian được
sản xuất và, thay vì được sử dụng, nó được đưa vào hàng tồn kho của doanh nghiệp để sử
dụng
hoặc bán trong tương lai. Trong trường hợp đó, hàng hóa trung gian được tạm thời coi là "cuối



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 5



cùng" và giá trị của nó dưới dạng đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó, khi mức
tồn kho hàng hóa trung gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh
nghiệp sẽ là âm, và GDP trong thời kỳ sau phải giảm một lượng tương ứng.
"hàng hóa và dịch vụ "
GDP bao gồm cả những hàng hóa hữu hình (thực phẩm, quần áo, xe hơi ) và những dịch vụ
vô hình (cắt tóc, lau nhà, khám bệnh). Khi bạ
n mua chiếc đĩa CD được thực hiện bởi một nhóm
nhạc mà bạn yêu thích ghi âm, thì điều này có nghĩa là bạn mua một hàng hóa và giá mua nằm
trong GDP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi hoà nhạc cũng của nhóm nhạc đó, thì có nghĩa là
bạn mua một dịch vụ và giá vé cũng nằm trong GDP.
"được sản xuất ra "
GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ
hiện tại. Nó không bao

gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá khứ. Khi công ty
General Motors sản xuất và bán chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi đó được tính vào
GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho người khác, thì giá trị của chiếc
xe hơi đã qua sử dụng đó không nằm trong GDP.
"trong phạm vi một nước "
GDP tính toán giá trị sản xuất trong ph
ạm vi địa lý của một nước. Khi một công dân Canađa
làm việc tạm thời ở Mỹ, thì giá trị sản xuất của anh ta là bộ phận cấu thành GDP của Mỹ. Khi
một công dân Mỹ sở hữu nhà máy ở Haiti, thì giá trị sản xuất tại nhà máy của anh ta sẽ không
nằm trong GDP của Mỹ (nó là một phần trong GDP của Haiti). Do vậy, các sản phẩm được
đưa vào GDP của một qu
ốc gia khi chúng được sản xuất ra trên lãnh thổ quốc gia đó, bất kể
nhà sản xuất có quốc tịch nước nào.
" trong một thời kỳ nhất định."
GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian
này thường là một năm hoặc một quý (3 tháng). GDP phản ánh lượng thu nhập và chi tiêu
trong thời kỳ đó.
Khi chính phủ thông báo GDP cho m
ột quý, thì nó thường biểu thị GDP theo năm. Điều này
hàm ý con số GDP hàng quý được thông báo bằng tổng thu nhập hoặc chi tiêu trong quý
nhân với 4. Chính phủ sử dụng quy ước này để đảm bảo rằng con số GDP hàng quý và hàng
năm có thể so sánh với nhau một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra, khi chính phủ thông báo GDP hàng quý, thì số liệu này đã được điều chỉnh bằng
một thủ thuật thống kê gọi là đi
ều chỉnh thời vụ. Những số liệu chưa được điều chỉnh cho
thấy một cách rõ ràng rằng nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn trong một số
thời điểm so với một số thời điểm khác trong năm. (Như bạn có thể dự đoán, mùa mua sắm
vào dịp lễ Giáng sinh vào tháng 12 là thời kỳ cao điểm.) Khi theo dõi diễn biến c
ủa nền kinh
tế, các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách thường muốn bỏ qua những biến động thời

vụ lặp lại thường xuyên này. Do vậy, các nhà thống kê của chính phủ điều chỉnh số liệu quý
để loại trừ chu kỳ thời vụ. Số liệu GDP được thông báo trong các bản tin luôn được điều
chỉnh để loại trừ tính thời vụ.
Bây giờ hãy nhắc lạ
i định nghĩa về GDP:



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 6



Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước trong một thời kỳ nhất định.
Cần thấy rõ rằng GDP là một chỉ tiêu phức tạp về giá trị của hoạt động kinh tế. Trong những
khóa học nâng cao về kinh tế vĩ mô, bạn sẽ học được nhiề
u về tính phức tạp nảy sinh trong
quá trình tính toán nó. Song giờ đây bạn đã có thể thấy rằng mỗi một cụm từ trong định nghĩa
này có rất nhiều ý nghĩa.

Kiểm tra nhanh: Việc nào đóng góp vào GDP nhiều hơn - sản xuất của một kg bánh
hamburger hay sản xuất của một kg trứng cá muối? Tại sao?
PHẦN ĐỌC THÊM Các chỉ tiêu khác về thu nhập
Cứ sau ba tháng, Bộ Thương mại Mỹ lại tính GDP một lần. Đồng thời, họ cũng tính các chi
tiêu thu nhập khác nhằm đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về những gì đang xảy ra trong
nền kinh tế. Những chỉ tiêu này khác với GDP ở chỗ chúng loại bỏ hoặc tính thêm những
khoản mục thu nhập nào đó. Sau đây là mô tả tóm tắt về những chỉ tiêu thu nhập này, được
s
ắp xếp theo thứ tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất.

¾ Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng thu nhập mà công dân của một quốc gia tạo ra.
Nó khác với GDP ở chỗ nó cộng thêm các khoản thu nhập mà dân cư trong nước tạo ra ở
nước ngoài và trừ đi các khoản thu nhập mà người nước ngoài tạo ra ở trong nước. Ví dụ,
khi một công dân Canađa làm việc tạm thời
ở Mỹ, giá trị sản xuất của anh ta là một phần
cấu thành GDP của Mỹ, nhưng nó lại không thuộc GNP của Mỹ. (Nó thuộc GNP của
Canađa.) Đối với hầu hết các nước, trong đó có Mỹ, công dân trong nước tạo ra hầu hết
giá trị sản xuất trong nước, nên GDP và GNP có giá trị gần bằng nhau.
¾ Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là tổng thu nhập c
ủa công dân một nước (GNP) trừ đi
khấu hao. Khấu hao là các khoản hao mòn trang thiết bị và nhà xưởng của nền kinh tế, ví
dụ những chiếc xe tải bị xuống cấp, bóng đèn đường bị cháy. Trong hệ thống tài khoản
quốc gia do Bộ Thương mại đảm nhận, khấu hao được gọi là khoản "tiêu hao tư bản cố
định."
¾ Thu nhập quốc dân là tổng thu nhập mà công dân m
ột nước tạo ra trong quá trình sản
xuất hàng hóa và dịch vụ. Nó khác với sản phẩm quốc dân ròng ở chỗ không bao gồm các
khoản thuế gián thu (ví dụ thuế doanh thu), nhưng bao gồm cả các khoản trợ cấp kinh
doanh. NNP và thu nhập quốc dân còn khác nhau ở khoản "sai số thống kê" phát sinh từ
việc thu thập và xử lý số liệu.
¾ Thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp cá thể nhận được.
Không giống nh
ư thu nhập quốc dân, nó không bao gồm lợi nhuận để lại công ty, tức
khoản thu nhập các công ty tạo ra nhưng không trả cho chủ sở hữu. Nó cũng không bao
gồm các khoản thuế thu nhập công ty và đóng góp bảo hiểm xã hội (chủ yếu là các loại
thuế bảo hiểm xã hội). Ngoài ra, thu nhập cá nhân còn bao gồm thu nhập từ lãi suất mà
các hộ gia đình nhận được từ các khoản cho chính phủ vay và thu nhập mà các hộ gia




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 7



đình nhận được từ các chương trình trợ cấp của chính phủ, ví dụ như chưong trình Phúc
lợi và bảo hiểm xã hội.
¾ Thu nhập khả dụng là thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp cá thể còn lại sau khi
hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho chính phủ. Nó bằng thu nhập cá nhân trừ thuế thu nhập
cá nhân và các khoản thanh toán ngoài thuế khác (ví dụ lệ phí giao thông).
Mặc dù các chỉ tiêu thu nhập có thể khác nhau về chi tiết, nhưng chúng hầ
u như luôn kể cho
chúng ta cùng một câu chuyện về các điều kiện kinh tế. Khi GDP tăng trưởng nhanh, thì các
chỉ tiêu thu nhập khác cũng tăng nhanh. Và khi GDP giảm, thì các chỉ tiêu thu nhập khác
cũng giảm theo. Đối với việc theo dõi những biến động của toàn nền kinh tế, thì việc chúng ta
sử dụng chỉ tiêu nào không có ý nghĩa quan trọng.

CÁC THÀNH TỐ CỦA GDP
Chi tiêu trong nền kinh tế có nhiều dạng. Tại một thời điểm nào đó, gia đình Smith có thể
đang ăn trưa tại nhà hàng Burger King; công ty General Motors có thể đang xây dựng một
nhà máy sản xuất xe hơi; Hải quân Mỹ có thể đang mua một chiếc tàu ngầm; Hãng hàng
không British Airways có thể đang mua một chiếc máy bay của hãng Boeing. GDP bao
gồm tất cả các dạng chi tiêu về những hàng hóa và dịch vụ được s
ản xuất trong nước.
Để hiểu được cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế, các nhà kinh tế
thường quan tâm nghiên cứu cơ cấu chi tiêu của GDP. Khi làm như vậy, GDP (chúng ta ký
hiệu là Y) được chia làm 4 thành tố: tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ (G), và
xuất khẩu ròng (NX):
Y = C + I + G + NX
Phương trình trên là một đồng nhất thức - tức một phương trình luôn đ

úng do cách định nghĩa
các biến số trong phương trình. Trong trường hợp của chúng ta, do mỗi đô la chi tiêu nằm
trong GDP đều thuộc một trong bốn thành tố của GDP, nên tổng của bốn thành tố phải bằng
GDP.
Chúng ta vừa xem một ví dụ về các thành tố của GDP. Tiêu dùng được các hộ gia đình chi
tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ, ví dụ bữa trưa của gia đình Smith tại nhà hàng Burger
King. Đầu tư là các khoả
n chi tiêu mua máy móc, thiết bị tư bản, hàng tồn kho, xây dựng nhà
xưởng, hàng tồn kho, ví dụ nhà máy của công ty General Motors. Đầu tư cũng bao gồm các
khoản chi tiêu để xây dựng nhà ở mới. (Theo qui ước, chi tiêu cho nhà ở mới, một dạng chi
tiêu của các hộ gia đình, được coi là đầu tư chứ không phải tiêu dùng.) Chi tiêu của chính phủ
bao gồm các khoản chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ của các cấp chính quyền địa phương,
bang và liên bang, ví dụ như khoản chi tiêu để mua tàu ngầ
m của Hải quân. Xuất khẩu ròng
bằng các khoản chi tiêu của người nước ngoài để mua hàng hóa sản xuất trong nước (xuất
khẩu) trừ đi các khoản chi tiêu của người dân trong nước để mua hàng hóa của người nước
ngoài (nhập khẩu). Hoạt động bán hàng của doanh nghiệp trong nước cho người mua ở nước
ngoài, ví dụ hoạt động bán máy bay của Boeing cho British Airways, làm tăng xuất khẩu
ròng của Mỹ.
Từ "ròng" ở
đây phản ánh nhập khẩu đã được khấu trừ khỏi xuất khẩu. Việc khấu trừ này
được thực hiện bởi vì nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ nằm trong những thành tố khác của



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 8




GDP. Ví dụ, một hộ gia đình mua một chiếc xe hơi trị giá 30.000 đô la của hãng Volvo, một
nhà sản xuất xe hơi của Thuỵ Điển. Giao dịch này làm tăng tiêu dùng một lượng là 30.000 đô
la, bởi vì khoản chi tiêu để mua chiếc xe hơi này là một thành tố chi tiêu của người tiêu dùng.
Nó cũng làm giảm xuất khẩu ròng một lượng là 30.000 đô la, bởi vì chiếc xe hơi đó là hàng
nhập khẩu. Nói cách khác, xuất khẩu ròng bao gồ
m những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ra ở nước ngoài (với dấu âm), bởi vì những hàng hóa và dịch vụ này đã nằm trong tiêu dùng,
đầu tư và chi tiêu chính phủ (với dấu dương). Do vậy, khi một hộ gia đình, doanh nghiệp hay
chính phủ trong nước mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ nước ngoài, thì khoản chi tiêu đó làm
giảm xuất khẩu ròng - song do nó cũng làm tăng tiêu dùng, đầu tư hoặc chi tiêu chính phủ,
nên nó hoàn toàn không ảnh hưởng đến
GDP.
Nội dung "chi tiêu chính phủ" cũng đòi hỏi một vài lời giải thích. Khi chính phủ trả tiền
lương cho một viên tướng quân đội, thì khoản lương đó là một phần của chi tiêu của chính
phủ. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi chính phủ chi trả trợ cấp xã hội cho người già? Khoản chi
tiêu này của chính phủ được gọi là chuyển giao thu nhập, bởi vì nó không được thực hiện để
đổ
i lấy hàng hóa hoặc dịch vụ nào. Theo quan điểm kinh tế vĩ mô, các khoản chuyển giao thu
nhập giống như khoản miễn giảm thuế. Cũng như thuế, chuyển giao thu nhập làm thay đổi
thu nhập của các hộ gia đình, song nó không ảnh hưởng đến giá trị sản xuất của nền kinh tế.
Do GDP được sử dụng để tính toán thu nhập (và chi tiêu) cho việc sản xuất hàng hóa và dịch
vụ, nên các khoản chuy
ển giao không được coi là thành tố chi tiêu của chính phủ.
Tổng số
(tỷ USD)
Bình quân đầu
người (đô la)
Tỷ lệ % trong
tổng số
Tổng sản phẩm trong nước, Y 8.511 31.522 100%

Tiêu dùng, C 5.808 21.511 68
Đầu tư, I 1.367 5.063 16
Chi tiêu chính phủ, G 1.487 5.507 18
Xuất khẩu ròng, NX .151 .559 .2
Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ
Bảng 1. GDP và các thành tố của nó. Bảng này cho thấy GDP của nền kinh tế Mỹ vào năm
1998 và bốn thành tố của nó. Khi đọc bảng này, hãy nhớ rằng Y = C + I + G + NX.
Bảng 1 trình bày các thành tố cấu thành GDP của Mỹ trong năm 1998. Trong năm đó, GDP
của Mỹ bằng khoảng 8,5 nghìn tỷ đô la. Nếu chia con số này cho 270 triệu người dân nước
Mỹ trong năm 1998, thì chúng ta thấy rằng GDP tính theo đầu người - mức chi tiêu bình quân
của m
ột người Mỹ - là 31.522 đô la. Tiêu dùng chiếm khoảng 2/3 GDP, hay 21.511 đô la đầu
người. Đầu tư bằng khoảng 5.063 đô la đầu người. Chi tiêu của chính phủ là 5.507 đô la đầu
người. Xuất khẩu ròng là - 559 đô la đầu người. Con số này âm bởi vì người Mỹ kiếm được
từ việc bán hàng hóa và dịch vụ cho người nước ngoài ít hơn chi tiêu để mua hàng hóa và
dịch vụ của Mỹ từ người nước ngoài.
Ki
ểm tra nhanh: Hãy liệt kê bốn thành tố của chi tiêu. Thành tố nào lớn nhất?



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 9



GDP THỰC TẾ VÀ GDP DANH NGHĨA
Như chúng ta đã thấy, GDP phản ánh tổng chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ trên tất cả
các thị trường của nền kinh tế. Nếu tổng chi tiêu tăng từ năm này qua năm khác, thì một
trong hai điều sau đây phải đúng: (1) nền kinh tế đang sản xuất ra sản lượng hàng hóa và

dịch vụ lớn hơn, hoặc (2) hàng hóa và dịch vụ được bán với giá cao hơ
n. Khi nghiên cứu
sự biến động của nền kinh tế theo thời gian, các nhà kinh tế muốn bóc tách hai ảnh hưởng
này. Cụ thể, họ muốn có một chỉ tiêu về tổng lượng hàng hóa và dịch vụ mà nền kinh tế
sản xuất ra, mà không bị ảnh hưởng bởi những biến động trong giá cả của những hàng
hóa và dịch vụ đó.
Để làm được điều này, các nhà kinh tế sử dụng một ch
ỉ tiêu được gọi là GDP thực tế. GDP
thực tế trả lời cho câu hỏi lý thuyết: Giá trị của những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
trong năm nay là bao nhiêu nếu chúng ta định giá chúng theo giá hiện hành của một năm nào
đó trong quá khứ? Bằng cách định giá sản lượng sản xuất hiện tại theo mức giá cố định trong
quá khứ, GDP thực tế cho biết tổng sản lượ
ng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế thay đổi
như thế nào theo thời gian.
Để có chỉ tiêu về giá trị hàng hóa sản xuất mà không bị ảnh hưởng bởi sự biến động giá cả,
chúng ta sử dụng GDP thực tế, tức sản lượng hàng hóa và dịch vụ được tính theo giá cố định.
Để tính GDP thực tế, trước hết chúng ta chọn một năm làm năm gốc. Sau đó, chúng ta sử

dụng giá cả của xúc xích và bánh hamburger trong năm gốc để tính giá trị của hàng hóa và
dịch vụ cho tất cả các năm. Nói cách khác, giá trong năm gốc tạo cơ sở để so sánh sản lượng
trong các năm khác nhau.
Ví dụ, chúng ta chọn năm 2001 làm năm gốc. Chúng ta có thể sử dụng giá của xúc xích
và bánh hamburger trong năm 2001 để tính giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong
năm 2001, 2002, và 2003. Bảng 22.2 trình bày những phép tính này. Để tính GDP thực tế
của nă
m 2001, chúng ta sử dụng giá cả của xúc xích và bánh hamburger trong năm 2001
(năm gốc) và sản lượng xúc xích và bánh hamburger trong năm 2001. (Do vậy, trong năm
gốc, GDP thực tế luôn bằng GDP danh nghĩa.) Để tính GDP thực tế của năm 2002, chúng
ta sử dụng giá xúc xích và bánh hamburger trong năm 2001 (năm gốc) và sản lượng xúc
xích và bánh hamburger trong năm 2002. Tương tự như vậy, để tính GDP thực tế của năm

2003, chúng ta sử dụng giá năm 2001 và sản lượ
ng của năm 2003. Khi thấy GDP thực tế
tăng từ 200 đô la trong năm 2001 lên 350 đô la trong năm 2002 và sau đó là 500 đô la
trong năm 2003, chúng ta biết rằng sự gia tăng này hoàn toàn do sự gia tăng của sản
lượng, bởi vì giá đã được cố định theo giá của năm gốc.
Tóm lại, GDP danh nghĩa sử dụng giá hiện hành để tính giá trị sản lượng hàng hóa và dịch
vụ, GDP thực tế sử dụng giá c
ố định trong năm gốc để tính giá trị sản lượng hàng hóa và
dịch vụ của nền kinh tế. Do GDP thực tế không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả, nên
những thay đổi của GDP thực tế chỉ phản ánh sự thay đổi của lượng hàng hóa và dịch vụ. Do
vậy, GDP thực tế là chỉ tiêu phản ánh lượng hàng hóa và dịch vụ của nề
n kinh tế.
Mục đích của chúng ta khi tính GDP là đánh giá mức độ hoạt động của toàn nền kinh tế. Do
GDP thực tế phản ánh lượng hàng hóa và dịch vụ, nên nó cũng phản ánh năng lực của nền
kinh tế trong việc thoả mãn nhu cầu và nguyện vọng của người dân. Vì vậy, GDP thực tế là
một chỉ tiêu đánh giá phúc lợi kinh tế tốt hơn GDP danh nghĩa. Khi các nhà kinh tế nói về




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 10



tăng trưởng của nền kinh tế, họ phản ánh tốc độ tăng trưởng bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của
GDP thực tế từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.
Chỉ số điều chỉnh GDP
Như chúng ta đã thấy, GDP danh nghĩa phản ánh cả giá cả và sản lượng hàng hóa và dịch vụ
mà nền kinh tế đang sản xuất. Trái lạ

i, nhờ giữ cho giá cả ở mức của năm gốc, GDP thực tế
chỉ phản ánh lượng hàng được sản xuất ra. Từ hai chỉ tiêu thống kê này, chúng ta có thể tính
được chỉ tiêu thứ ba, gọi là chỉ số điều chỉnh GDP, nó phản ánh giá cả, chứ không phản ánh
lượng hàng hóa và dịch vụ.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính như sau:
GDP danh nghĩa
Chỉ số
điều chỉnh GDP = x 100
GDP thực tế
Do GDP danh nghĩa và GDP thực tế phải bằng nhau trong năm cơ sở, nên chỉ số điều chỉnh
GDP trong năm gốc luôn bằng 100. Chỉ số điều chỉnh GDP trong những năm sau phản ánh
sự gia tăng của GDP danh nghĩa từ năm gốc, không phải sự gia tăng của GDP thực tế.
Ch
ỉ số điều chỉnh GDP phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá trong năm gốc. Để hiểu
được điều này, chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ đơn giản sau. Trước tiên, hãy tưởng tượng
ra rằng sản lượng của nền kinh tế tăng theo thời gian, nhưng giá cả không đổi. Trong trường
hợp này, cả GDP danh nghĩa và GDP thực tế đều tăng với tỷ lệ như
nhau, do vậy chỉ số điều
chỉnh GDP không thay đổi. Bây giờ giả sử rằng thay vào đó, giá cả tăng theo thời gian trong
khi sản lượng lại không đổi. Trong trường hợp thứ hai này, GDP danh nghĩa tăng nhưng
GDP thực tế không đổi, do vậy chỉ số điều chỉnh GDP cũng tăng. Chú ý rằng trong cả hai
trường hợp, chỉ số điều chỉ
nh GDP đều phản ánh những gì xảy ra đối với giá cả, chứ không
phải là lượng.
Bây giờ hãy trở lại ví dụ của chúng ta trong bảng 22.2. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính ở
phần cuối của bảng. Trong năm 2001, GDP danh nghĩa là 200 đô la, và GDP thực tế là 200
đô la, do vậy chỉ số điều chỉnh GDP bằng 100. Trong năm 2002, GDP danh nghĩa là 600 đ
ô
la, và GDP thực tế là 350 đô la, do vậy chỉ số điều chỉnh GDP bằng 171. Do chỉ số điều
chỉnh GDP tăng từ 100 lên tới 171 trong năm 2002, nên chúng ta có thể nói rằng mức giá đã

tăng 71%.
Chỉ số điều chỉnh GDP là chỉ tiêu được các nhà kinh tế sử dụng để theo dõi mức giá bình
quân trong nền kinh tế. Chúng ta sẽ xem xét một chỉ số khác - chỉ số
giá tiêu dùng - trong
chương tiếp theo và sẽ trình bày sự khác nhau giữa hai chỉ số này.
GDP VÀ PHÚC LỢI KINH TẾ
Trong phần đầu của chương, GDP đã được coi là chỉ tiêu tốt nhất về phúc lợi kinh tế của một
xã hội. Giờ đây khi đã biết GDP là gì, chúng ta có thể đánh giá lời khẳng định này.
Như chúng ta đã thấy, GDP phản ánh cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế
để
mua hàng hóa và dịch vụ. Do vậy, GDP bình quân đầu người cho chúng ta biết thu nhập và
chi tiêu của một người trung bình trong nền kinh tế. Do hầu hết mọi người đều muốn nhận



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 11



được mức thu nhập cao hơn và tận hưởng mức chi tiêu cao hơn, nên GDP bình quân đầu
người có vẻ là chỉ tiêu tự nhiên về phúc lợi kinh tế trung bình của một người.
Tuy nhiên một số người đã tranh cãi về tính hợp lý của GDP trong vai trò là chỉ tiêu phúc lợi.
Khi Thượng Nghị sĩ Robert Kenedy chạy đua vào chức vụ tổng thống trong năm 1968, ông
đã có một bài phát biểu cảm động phê phán chỉ tiêu kinh tế này:
(Tổng sả
n phẩm trong nước) không đem lại sức khoẻ, chất lượng giáo dục hay niềm vui cho
con em chúng ta. Nó không hàm chứa vẻ đẹp của thi ca hay sự bền vững của hôn nhân, nó
cũng không đem lại sự thông minh trong các cuộc tranh luận công khai của chúng ta hay sự
liêm chính của các quan chức chính phủ. Nó không nói lên lòng dũng cảm, sự thông thái và

lòng trung thành của chúng ta đối với đất nước. Nói tóm lại, nó phản ánh mọi thứ, trừ những
cái làm cho cuộc sống trở nên có giá trị hơ
n, nó cũng nói cho chúng ta mọi cái về nước Mỹ,
trừ lý do tại sao chúng ta lại tự hào rằng mình là người Mỹ.
Hầu hết những gì Robert Kenedy phát biểu đều đúng. Vậy tại sao chúng ta lại quan tâm đến
GDP?
Câu trả lời là trong thực tế, một khối lượng GDP lớn giúp chúng ta có được cuộc sống tốt
đẹp. GDP không cho biết sức khoẻ của con em chúng ta, song các quốc gia có GDP lớn
hơn có thể có được d
ịch vụ chăm sóc sức khoẻ tốt hơn cho con em họ. GDP không phản
ánh chất lượng giáo dục, nhưng các quốc gia có GDP lớn hơn có thể có hệ thống giáo dục
tốt hơn. GDP không nói lên vẻ đẹp của thi ca, nhưng các quốc gia có GDP lớn hơn có thể
dạy cho nhiều công dân của họ biết đọc và biết thưởng thức thi ca. GDP không tính đến sự
thông minh, tính liêm chính, lòng dũng cảm, sự
khôn ngoan hoặc lòng trung thành của
chúng ta đối với tổ quốc, nhưng tất cả những điều này có thể dễ dàng có hơn khi mọi người
ít phải bận tâm với nhu cầu vật chất của đời thường. Nói ngắn gọn, GDP không trực tiếp
phản ánh những cái làm cho cuộc sống của chúng ta có giá trị hơn, nhưng nó lại cho biết
khả năng của chúng ta trong việc đạt được đi
ều đó.
Tuy nhiên, GDP không phải là chỉ tiêu hoàn hảo về phúc lợi. Một số thứ góp phần tạo nên
cuộc sống tốt đẹp bị loại ra khỏi GDP. Một trong số đó là thời gian nghỉ ngơi. Ví dụ, nếu mọi
người trong nền kinh tế đột nhiên bắt đầu làm việc tất cả các ngày trong tuần, không nghỉ vào
cuối tuần, nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn sẽ đượ
c sản xuất và GDP tăng. Song mặc dù GDP
tăng, nhưng chúng ta không thể nói phúc lợi của mọi người có tăng hay không. Những cái
mất từ việc giảm thời gian nghỉ ngơi làm triệt tiêu những cái được từ việc sản xuất và tiêu
dùng một khối lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn.
Do GDP sử dụng giá thị trường để đánh giá hàng hóa và dịch vụ, nên nó bỏ qua hầu hết các
hoạt động xảy ra bên ngoài thị trường. Cụ thể, GDP bỏ sót giá trị của những hàng hóa và dịch

vụ được sản xuất tại gia đình. Khi người đầu bếp chuẩn bị bữa ăn ngon và bán nó tại nhà
hàng của anh ta, thì giá trị của bữa ăn đó là một phần của GDP. Song nếu người đầu bếp đó
chuẩn bị bữa ăn như vậy cho vợ
anh ta, thì giá trị gia tăng mà anh ta thực hiện đối với bữa ăn
đó không nằm trong GDP. Tương tự, dịch vụ chăm sóc trẻ em ở các nhà trẻ nằm trong GDP,
nhưng những hoạt động chăm sóc trẻ em được bố mẹ chúng thực hiện tại nhà thì không. Các
công việc tình nguyện cũng đóng góp vào phúc lợi của xã hội, nhưng GDP không phản ánh
được những đóng góp này.
GDP còn bỏ qua một th
ứ khác đó là chất lượng môi trường. Hãy tưởng tượng ra rằng chính
phủ dỡ bỏ tất cả đạo luật về môi trường. Các doanh nghiệp có thể sản xuất hàng hóa và dịch



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 12



vụ mà không cần bận tâm đến sự ô nhiễm mà họ gây ra và GDP có thể tăng. Tuy nhiên, phúc
lợi rất có thể sẽ giảm. Sự suy thóai chất lượng không khí và nguồn nước gây ra nhiều thiệt hại
hơn những ích lợi do việc sản xuất nhiều hơn mang lại.
GDP cũng không đề cập đến phân phối thu nhập. Một xã hội có 100 thành viên với thu nhập
hàng năm bằng 50.000 đô la sẽ có GDP là 5 triệ
u đô la và đương nhiên GDP bình quân đầu
người bằng 50.000 đô la. Kết quả này cũng đúng với xã hội có 10 người kiếm được 500.000
đô la và 90 người không có gì cả. Rất ít người coi hai tình huống đó như nhau. GDP bình
quân đầu người cho chúng ta biết những gì xảy ra đối với một người trung bình, nhưng đằng
sau sự bình quân đó có rất nhiều sự khác biệt giữa các cá nhân.
Cuối cùng, chúng ta có thể kết luận rằng

GDP là một chỉ tiêu tốt về phúc lợi kinh tế đối với
hầu hết các mục tiêu - nhưng không phải tất cả. Điều quan trọng là phải biết GDP bao gồm
những gì và nó bỏ sót những gì.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: SỰ CHÊNH LỆCH GDP TRÊN THẾ GIỚI VÀ CHẤT
LƯỢNG CUỘC SỐNG
Một phương pháp xác định tính hữu ích của GDP trong vai trò chỉ tiêu về phúc lợi kinh tế là
xem xét các số liệu quốc tế. Những nước giàu và những nước nghèo có GDP bình quân đầu
người chênh lệch rất lớn. Nếu GDP lớn mà dẫn đến một mức sống cao hơn, thì chúng ta quan
sát thấy rằng GDP có tương quan chặt chẽ với các chỉ tiêu về chất lượng cuộ
c sống. Và trong
thực tế, chúng ta đã nhận thấy điều này.

Nước
GDP thực tế
đầu người
(đô la)
Tuổi thọ
trung bình
(năm)
Tỷ lệ biết chữ của
người trưởng thành
(%)
Mỹ 29.010 77 99
Nhật 24.070 80 99
Đức 21.260 77 99
Mehicô 8.370 72 90
Braxin 6.480 67 84
Nga 4.370 67 99
Inđônêxia 3.490 65 85
Trung Quốc 3.130 70 83

Ấn độ 1.670 63 53
Pakixtan 1.560 64 41
Bănglađét 1.050 58 39
Nigêria 920 50 59
Nguồn: Báo cáo phát triển con người 1999, Liên hợp Quốc
Bảng 3. GDP, tuổi thọ trung bình và tỷ lệ biết chữ.
Bảng 22.3 trình bày 12 nước đông dân nhất thế giới xếp theo thứ hạng GDP bình quân đầu
người. Bảng này cũng ghi số liệu về tuổi thọ trung bình (thời gian sống kể từ khi được sinh
ra) và tỷ lệ biết chữ (phần trăm dân số trưởng thành biết đọc). Những số liệu này chỉ ra một
xu hướng rõ ràng. Ở các n
ước giàu, ví dụ như Mỹ, Nhật và Đức, người dân có thể sống đến
gần tám mươi, và hầu hết dân số đều biết chữ. Ở những nước nghèo, ví dụ như Nigêria,



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 13



Bănglađét, và Pakixtan, người dân thường chỉ sống đến độ tuổi năm mươi hoặc đầu sáu
mươi, và chỉ có khoảng một nửa dân số biết chữ.
Mặc dù số liệu về những khía cạnh khác của chất lượng cuộc sống không hoàn chỉnh được như
vậy, nhưng chúng cũng đem lại cho chũng ta những thông tin tương tự. Các nước với GDP bình
quân đầu ng
ười thấp thường có số lượng lớn trẻ em được sinh ra với trọng lượng thấp, tỷ lệ chết của
bà mẹ và trẻ sơ sinh cao, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em cao và ít có khả năng tiếp cận nguồn nước
uống an toàn. Ở những nước với GDP bình quân đầu người thấp, có ít trẻ em trong độ tuổi đi học
được đến trường và những đứa trẻ
đi học phải học trong các lớp đông học sinh hơn. Những nước

này cũng thường có ít tivi hơn, ít điện thọai hơn, ít những con đường được trải nhựa hơn và ít hộ gia
đình có điện hơn. Không nghi ngờ gì nữa, các số liệu quốc tế đã cho thấy rằng GDP của một quốc
gia có liên quan chặt chẽ với mức sống của người dân nước
đó.
Kiểm tra nhanh: Tại sao các nhà hoạch định chính sách lại quan tâm đến GDP?
KẾT LUẬN
Chương này đã thảo luận việc các nhà kinh tế tính toán tổng thu nhập của một quốc gia
như thế nào. Tính toán tất nhiên chỉ là điểm khởi đầu. Phần lớn kinh tế vĩ mô tập trung
vào việc tìm ra các nhân tố quyết định tổng sản phẩm trong nước của một quốc gia trong
cả ngắ
n hạn và dài hạn. Ví dụ, tại sao GDP ở Mỹ và Nhật lại cao hơn GDP ở Ấn độ và
Nigêria? Chính phủ ở những nước nghèo nhất có thể làm gì để thúc đẩy sự tăng trưởng
nhanh chóng của GDP? Tại sao GDP của Mỹ lại tăng nhanh trong một số năm và giảm
trong một số năm khác? Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có thể làm gì để giảm
những bi
ến động nghiêm trọng này của GDP? Đây là những câu hỏi mà chúng ta sẽ giải
quyết trong các chương tiếp theo.
Vào lúc này, điều quan trọng là chúng ta phải nhận thức được vai trò quan trọng của việc tính
toán GDP. Qua kinh nghiệm cuộc sống của mình, tất cả chúng ta đều hiểu đôi chút về
phương thức vận hành của nền kinh tế. Song các nhà kinh tế, những người nghiên cứu sự
biến động trong nền kinh t
ế, và các nhà hoạch định chính sách, những người hoạch định các
chính sách kinh tế, không chỉ dừng lại ở những hiểu biết mơ hồ này - họ cần có những số liệu
cụ thể để đưa ra các đánh giá của mình. Do vậy, việc lượng hóa hoạt động của nền kinh tế
bằng các chỉ tiêu thống kê như GDP là bước đầu tiên để phát triển khoa kinh tế vĩ mô.
TÓM TẮT

Do mọi giao dịch đều có một bên mua và một bên bán, nên tổng chi tiêu phải bằng tổng
thu nhập trong nền kinh tế.
• Tổng sản phẩm trong nước (GDP) phản ánh tổng chi tiêu của nền kinh tế về những hàng

hóa và dịch vụ mới sản xuất ra và tổng thu nhập tạo ra từ việc sản xuất ra chúng. Nói
chính xác hơn, GDP là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất ra trong phạm vi một nước, trong một thời kỳ nhất định.
• GDP được phân làm 4 thành tố chi tiêu: tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu của chính phủ và
xuất khẩu ròng. Tiêu dùng bao gồm tất cả các khoản chi tiêu để mua hàng hóa và
dịch vụ của các hộ gia đình, trừ các khoản chi tiêu để mua nhà mới. Đầu tư bao gồm



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 10 – Đo lường thu nhập của một Quốc gia 14



các khoản chi tiêu để mua máy móc, trang thiết bị và nhà xưởng mới, bao gồm cả
các khoản chi tiêu để mua nhà mới của các hộ gia đình. Chi tiêu của chính phủ bao
gồm các khoản chi tiêu để mua hàng hóa và dịch vụ của các cấp chính quyền địa
phương, bang và liên bang. Xuất khẩu ròng bằng giá trị của những hàng hóa và dịch
vụ sản xuất ở trong nước và bán ở nước ngoài (xuất khẩu) trừ đi giá trị của những
hàng hóa và dị
ch vụ sản xuất ở nước ngoài và bán ở trong nước (nhập khẩu).
• GDP danh nghĩa sử dụng giá hiện hành để tính sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền
kinh tế. GDP thực tế sử dụng giá của năm gốc để tính sản trị lượng hàng hóa và dịch vụ
của nền kinh tế. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ s
ố giữa GDP danh nghĩa và
GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá của nền kinh tế.
• GDP là chỉ tiêu tốt về phúc lợi kinh tế, bởi vì mọi người thường muốn có thu nhập cao
hơn. Tuy nhiên, nó không phải là chỉ tiêu hoàn hảo về phúc lợi. Ví dụ, GDP bỏ sót giá
trị của thời gian nghỉ ngơi và môi trường trong sạch.
CÁC THUẬT NGỮ CƠ BẢN

Chi tiêu của chính phủ Government expenditure
Chỉ s
ố điều chỉnh GDP GDP deflator
Đầu tư Investment
GDP danh nghĩa Nominal GDP
GDP thực tế Real GDP
Kinh tế vi mô Microeconomics
Kinh tế vĩ mô Macroeconomics
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) Gross domestic product
Tiêu dùng Consumption
Xuất khẩu ròng Net export

×