Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Ngân hàng quốc tế CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.14 KB, 16 trang )

CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Bối cảnh hình thành
1.1 Giai đoạn trước 1990, trước khi có sự ra đời của pháp lệnh Ngân hàng
Trước khi người Pháp đặt chân lên Việt Nam vào năm 1858, Việt Nam chưa có tổ chức ngân hàng và tín
dụng. Đến cuối thế kỷ thứ 19, khi nền đô hộ đã được thiết lập trên toàn cõi Đông Dương thì Việt Nam trở thành
một thị trường độc chiếm của Pháp. Do các hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương bành trướng mạnh
nên chính phủ phải lập các ngân hàng để hổ trợ các hoạt động ấy. Lúc đầu có 2 ngân hàng được hình thành có
trụ sở đặt tại Pháp, nhưng các chi nhánh được thiết lập tại các thành phố lớn ở Đông Dương là :
 Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine): Là một công cụ hữu hiệu của chính quyền
thuộc địa, Ngân hàng Đông Dương là cơ quan tài chính lớn nhất của chính quyền và tài phiệt Pháp. Ngoài độc
quyền phát hành tiền tệ như một Ngân hàng Trung ương, nó còn là một ngân hàng kinh doanh thương mại lớn
nhất. Ngân hàng Đông Dương cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương như Công ty
Hỏa xa Hải Phòng-Vân Nam, Công ty Than Hòn Gai-Cẩm Phả, Công ty Rượu Đông Dương, Công ty đường
Hiệp Hòa, Công ty Cao su Đất Đỏ.
 Pháp-Hoa Ngân hàng (Banque Franco-Chinoise): được thành lập với mục đích hỗ trợ các giao
dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung Hoa cũng như với một vài nước khác ở Á Đông như Nhật,
Thái Lan.
Ngoài hai ngân hàng trên, các nước có quyền lợi kinh tế trong vùng cũng có thiết lập các ngân hàng ở
Việt Nam như The Chartered Bank, The Hong Kong and Shanghai Banking Corporation của Anh, Trung Quốc
ngân hàng và Giao thông ngân hàng của Trung Quốc.
Từ cuối thế kỷ 19 đến 3 thập niên đầu thế kỷ 20, các hoạt động ngân hàng đều ở trong tay người nước
ngoài. Mãi đến năm 1927, một số tư bản người Việt Nam mới thành lập một ngân hàng lấy tên là An Nam ngân
hàng (sau đổi tên là Việt Nam ngân hàng) với vốn hoàn toàn của người Việt, chủ yếu hỗ trợ cho các hoạt động
nông nghiệp. Cho đến năm 1954, người Việt có ngân hàng thứ hai là Việt Nam công thương ngân hàng.
Giai đoạn từ 1954 – 1990:
Sau Hiệp định Geneve, chính phủ Pháp ký một loạt hiệp định với Nam Việt Nam, Campuchia và Lào,
chính thức công bố sự phá vỡ tình trạng hợp nhất tiền tệ và quan thuế giữa ba nước Đông Dương, giải thể các
định chế bốn bên do Pháp khống chế, khẳng định nguyên tắc mỗi quốc gia được quyền tự do phát hành và kiểm
soát tiền tệ, ấn định hối suất, độc lập đề ra các chính sách tiền tệ, ngoại hối và ngoại thương. Do đó, ngày 31-12-
1954, với dụ số 48 của Bảo Đại, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, thay thế viện phát hành Đông
Dương, chính thức phát hành giấy bạc cho cả miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng của hệ thống ngân


hàng Pháp vẫn còn đè nặng trên những hoạt động kinh tế của Sài Gòn. Theo thói quen dân chúng và giới kinh
doanh vẫn ưa chuộng các ngân hàng Pháp còn hoạt động: Vẫn thích ký thác tiền và sử dụng những dịch vụ của
ngân hàng này. Giới kinh doanh người Hoa, do những quan hệ thị trường với Hong Kong, Đài Loan, Malaysia
và Singapore, vẫn tiếp tục sử dụng các ngân hàng Anh, Hong Kong, Đài Loan. Những quyền lợi kinh tế của
người Pháp ở miền Nam vẫn còn nhiều và hoạt động về ngân hàng của họ cũng khá mạnh. Vào cuối năm 1953,
khi Ngân hàng Đông Dương chấm dứt các hoạt động thương mại của nó thì một phần nhiệm vụ của nó được
Page 1 of 16
chuyển qua Ngân hàng Việt Nam Thương tín và một phần được chuyển qua Ngân hàng kế nghiệp của người
Pháp ở miền Nam là Pháp Á ngân hàng-ngân hàng tư lớn nhất hoạt động trong thời kỳ này, qui tụ giới tư bản
kinh doanh của Pháp đang tiếp tục kinh doanh khai thác các đồn điền cao su, cà phê, trà và các nhà kinh doanh
công nghiệp của các hãng Dumarest, Oligastre, Alcan etCie Denis Freres, BGI, Mitac, Caric Ngoài ra còn có
các Ngân hàng của một số nước khác như Bangkok bank, thiết lập 1961, The Bank of Tokyo, thiết lập năm
1962.
1.2 Giai đoạn từ năm 1990 cho đến nay
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép thành lập từ năm 1990 khi Việt Nam thực hiện mở cửa kinh tế
với sự ra đời 2 pháp lệnh về ngân hàng là pháp lệnh về ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân hàng
hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp
sang 2 cấp:
Ngân hàng cấp 1: Ngân hàng nhà nước, thực thi nhiệm vụ của 1 ngân hàng trung ương, là ngân hàng
duy nhất được phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng.
Ngân hàng cấp 2: Bao gồm ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân, công ty
tài chính, kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong
nền kinh tế quốc dân do các định chế tài chính ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Các ngân hàng chuyên
doanh cấp 2
Tuy nhiên, đến năm 1992 thì các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài mới thực sự vào Việt Nam, đầu tiên là
Ngân hàng Credit Agricole-CN TP.HCM được cấp phép ngày 01/04/1992, Bangkok Bank–CN TP.HCM cấp
phép ngày 15/04/1992, Credit Agricole- CN Hà Nội cấp phép ngày 27/05/1992, Natixis (Pháp) cấp giấy phép
ngày 12/06/1992, ANZ (Úc)- CN Hà Nội thành lập ngày 15/06/1992.
Số lượng các chi ngân hàng nước ngoài tăng liên tục từ năm 1990 đến 1997 và từ 1998 có khuynh

hướng chững lại về số lượng ngân hàng, quy mô cũng như thị phần hoạt động và từ khi Việt Nam có triển vọng
trở thành thành viên chính thức của WTO thì số lượng lại có khuynh hướng tăng lên.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Theo văn bản cam kết của Việt Nam với WTO, đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, phân ngành dịch vụ ngân
hàng, bắt đầu từ ngày 1/4/2007, Việt Nam đồng ý cho thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, các
ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam dưới các hình thức
như: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại liên doanh với nước
ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính liên doanh, các công ty tài chính
cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài , nhưng đến 8/9/2008, Ngân hàng nhà
nước mới cấp phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Trong năm 2008 Ngân hàng Nhà
nước đã cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam đó là Ngân
hàng HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong. Trước đó các ngân hàng này đã thành lập các
văn phòng, chi nhánh tại Việt Nam sau khi có văn bản chính thức cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn
nước ngoài thì các ngân hàng này đã tiến hành thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tại Việt Nam,
Ngân hàng Standard Chartered đã có lịch sử hoạt động từ năm 1904 - khi Ngân hàng lập chi nhánh đầu tiên tại
Page 2 of 16
Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi nhận được giấy phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước
ngoài từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2009, Ngân hàng Standard Chartered đã
chính thức khai trương hoạt động của ngân hàng con với tên gọi là Ngân hàng TNHH Một thành viên Standard
Chartered (Việt Nam). Việc thành lập ngân hàng con đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát
triển của ngân hàng tại Việt Nam. Hiện tại, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam có ba chi nhánh tại Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2011 trở đi, các ngân hàng nước ngoài được hưởng chế độ đối xử quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam
vẫn giữ được hạn chế về việc mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài là không quá 30%.
Tính đến ngày 30/06/2013, tại Việt Nam có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 50 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đang hoạt động. Kể từ khi Việt Nam mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đến nay, các ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam luôn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. các ngân
hàng nước ngoài và văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đóng vai trò là cầu
nối thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các tổ chức này là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của các
ngân hàng thương mại trong nước, nhưng cũng là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng

hiện đại, những thông lệ quốc tế về quản trị tốt nhất và là nguồn tài chính không nhỏ bổ sung cho thị trường tài
chính của Việt Nam.
2 Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
2.1 Các văn bản cụ thể :
• Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2008 quy định “Về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức
tín dụng nước ngoài tại Việt Nam”
• Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 ngày 16/7/2009 quy định “Về tổ chức và hoạt động của
ngân hàng thương mại”.
• Luật số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 Luật các Tổ chức tín dụng.
• Thông tư số 40/2011/TT-NHNN Thông tư Quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của
ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, vănphòng đại diện của tổ chức tín dụng nước
ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Vệt Nam
• Ngoài ra, còn các văn bản quy định, điều chỉnh cụ thể khác như Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày
20/5/2010,….
2.2 Chi tiết một số quy định :
2.2.1 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng theo quy định của Mục 2 Chương IV (Điều 98 đến Điều 107) Luật các tổ chức tín dụng số
47/2010/QH12 như :
• Hoạt động của ngân hàng thương mại : nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán
thông qua tài khoản.
• Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
Page 3 of 16
• Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính
• Mở tài khoản
• Tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán
• Góp vốn, mua cổ phần
• Tham gia thị trường tiền tệ

2.2.2 Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài : Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện

các hoạt động theo quy định tại mục 2.2.1, trừ các hoạt động sau đây:
a) Hoạt động quy định tại Điều 103 của Luật các TCTD : Góp vốn, mua cổ phần.
b) Hoạt động mà ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện tại nước nơi ngân hàng nước ngoài
đặt trụ sở chính.
c) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được cung ứng một số dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế
cho khách hàng tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về ngoại hối.
d) Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể nội dung hoạt động trong Giấy phép cấp cho chi nhánh ngân
hàng nước ngoài theo quy định của Luật này, phù hợp với quy mô, loại hình, lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
nước ngoài.
2.2.3 Về việc tổ chức, cấp phép, hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện theo TT
40/2011/TT-NHNN. Chẳng hạn :
• Để thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, cổ đông sáng lập – chủ sở hữu là
TCTD nước ngoài phải có tổng tài sản có ít nhất tương đương 10 tỷ đôla Mỹ vào cuối năm liền kề năm
nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và một số điều kiện khác theo quy định Điều 10 thông tư này.
• Để thành lập Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng mẹ có tổng tài sản có ít nhất tương đương 20
tỷ đôla Mỹ vào năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép và
một số quy định khác theo Điều 11 thông tư này.
2.2.4 Các quy định về an toàn hoạt động : Thực hiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
và các quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.
2.2.5 Định nghĩa và giải thích một số thuật ngữ
• “Ngân hàng nước ngoài” là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài, có hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là hoạt động ngân hàng.
• Ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức tổ chức sau đây :
 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài;
 Ngân hàng liên doanh;
Page 4 of 16
 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp
nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

• Ngân hàng liên doanh là ngân hàng thương mại được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của Bên
Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân
hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh; là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
Ngân hàng liên doanh được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên nhưng không quá 05 thành viên, trong đó một thành viên và người có liên quan không được
sở hữu vượt quá 50% vốn điều lệ.
• Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là ngân hàng thương mại được thành lập tại Việt Nam với 100% vốn
điều lệ thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng nước ngoài; là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt
Nam. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên có chủ sở hữu là một ngân hàng nước ngoài hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu 50% vốn điều lệ.
3 Sản phẩm dịch vụ
3.1 Sản phẩm huy động vốn
Mảng dịch vụ huy đống vốn không phải là thế mạnh của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi
nhánh ngân hàng nước ngoại, vì nếu một đặc trưng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước những năm gần
đây là các cuộc đua lãi suất huy động, thì chiến lược khối ngoại dường như chỉ thực sự tập trung ở các nghiệp
vụ ngân hàng bán lẻ, các dịch vụ tài chính toàn cầu, ngoại hối và thanh toán quốc tế … Đồng thời các rào cản về
pháp lý khiến các ngân hàng này chiếm thị phần không nhiều trong huy động vốn.
Ví dụ:
Sản phẩm tiền gửi của ngân hàng nước ngoài thường yêu cầu số tiền gửi tối thiểu lớn.
- ANZ: tiền gửi tối thiểu 50tr đồng cho tài khoản tiền đồng, 2.500 đô la Mỹ hoặc tương đương cho tài
khoản ngoại tệ.
- Citibank: tiền gửi tối thiểu ban đầu là 20.000.000 VND hoặc 3.000USD hoặc tương đương.
3.2 Sản phẩm tín dụng và tài trợ thương mại
Hầu hết các ngân hàng nước ngoài tập trung cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp 100% vốn FDI,
doanh nghiệp liên doanh và một số tổng công ty Nhà nước có ngành nghề kinh doanh phù hợp với mục tiêu và
chiến lược của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hầu hết đây là những doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài
chính đủ mạnh, đây cũng là hoạt động chính và thế mạnh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trước đây, khi mới bước đầu kinh doanh tại Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài trọng tâm vào hình
thức bán buôn. Trong thời gian gần đây, hình thức bán lẻ đã được chú trọng hơn.

Page 5 of 16
Hiện nay, các ngân hàng trong nước vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong thị phần bán lẻ ở Việt Nam. Thế nhưng,
các ngân hàng ngoại đang nỗ lực thu hẹp thị phần này bằng cách tung ra những tiện ích, dịch vụ công nghệ cao,
mà nhiều ngân hàng nội không có.
Mặc dù, cho dù chiếm thị phần không lớn, nhưng các ngân hàng ngoại đang chiếm được phần bánh tốt
nhất trên thị trường bằng việc tập trung vào đối tượng khách VIP cá nhân, là bộ phận khách hàng có thu nhập
khá và cao (khoảng 10 triệu đồng/tháng trở lên).
Ví dụ:
Sản phẩm tài trợ thương mại của HSBC gồm có: cho vay nhập khẩu, cho vay xuất khẩu, chiết khấu tín
dụng thư xuất khẩu, chiết khấu hối phiếu xuất khẩu, chiết khấu hóa đơn, chiết khấu miễn truy đòi, tài trợ những
khoản phải thu.
3.3 Dịch vụ thanh toán
Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường đến từ những nước phát
triển nơi mà hệ thống ngân hàng tài chính cũng đạt đến trình độ phát triển tương đối cao nên hoạt động của các
chi nhánh này tại Việt Nam cũng được thừa hưởng những ưu thế đó. Điều này được thể hiện rõ qua các loại
hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, chất lượng dịch vụ cũng như thái độ phục vụ khách hàng. Các ngân
hàng nước ngoài thường tiên phong trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, giới thiệu sản phẩm dịch vụ mới. Do
vậy có thể nói các ngân hàng nước ngoài thường chiếm ưu thế trong các dịch vụ thanh toán và hoạt động phi tín
dụng.
Ví dụ:
Dịch vụ Chuyển khoản Quốc Tế Citibank giúp chuyển tiền nhanh chóng giữa các tài khoản Citibank các
nước Dịch vụ sử dụng dễ dàng, nhanh chóng và chi phí thấp hơn so với dịch vụ chuyển tiền quốc tế truyền
thống. Chuyển khoản nhanh chóng từ Việt Nam đến các nước: Úc, CH Séc, Malaysia, Philippines, Đảm Guam,
Singapore, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Đức, Hàn Quốc, Bỉ, Nhật.
3.4 Sản phẩm dịch vụ bảo lãnh
Một số ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã phát hành các loại bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh bảo hiểm cho các công ty nước ngoài tại Việt Nam cũng
như các công ty Việt Nam để giúp họ đấu thầu các dự án quốc gia và quốc tế tại Việt Nam. Với uy tín của ngân
hàng mẹ cũng như tiềm lực tài chính vững mạnh, nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng nước ngoài ở VN ngày
càng phát triển, mở rộng cả với doanh nghiệp trong nước đặc biệt là bảo lãnh các dịch vụ liên quan đến thư tín

dụng, kinh doanh ngoại hối và các sản phẩm tín dụng ngắn và dài hạn của các ngân hàng thương mại nội địa.
Ví dụ:
Page 6 of 16
HSBC cung cấp các dịch vụ bảo lãnh: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán trả trước, bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thanh toán thuế nhập khẩu/VAT, bảo lãnh bảo hành.
Shinhan Việt Nam cung cấp các loại bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
ứng trước, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành.
3.5 Dịch vụ tài chính phái sinh
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng
của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hóa, lãi suất, tỷ giá trên thị trường tài chính là
những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi
ro thua lỗ có thể xảy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng
tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở.
Hiện nay, tại Việt Nam các ngân hàng trong nước chưa chú trọng nhiều đến dịch vụ tài chính phái sinh.
Còn đối với các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các sản phẩm phái sinh
đã được nghiên cứu rất lâu và đưa vào sử dụng.
Ví dụ:
- HSBC cung cấp sản phẩm quyền chọn tiền tệ, hoán đổi ngoại tệ, hoán đổi lãi suất.
- ANZ cung cấp công cụ phái sinh lãi suất
- Citibank chi nhánh TPHCM được phép cung cấp các giao dịch hối đoái dưới hình thức giao dịch giao
ngay, kỳ hạn, hoán đổi.
3.6 Dịch vụ tư vấn
Một trong những hoạt động thường xuyên của các ngân hàng nước ngoài là cung cấp dịch vụ tư vấn cho
khách hàng, ngân hàng mẹ và các chi nhánh ngân hàng khác những thông tin về tình hình phát triển kinh tế ở
Việt Nam, về cơ hội kinh doanh và các đối tác Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài, thông tin về các giao
dịch tín dụng thư với các ngân hàng Việt Nam, …
Ngoài các sản phẩm dịch vụ thông thường, các ngân hàng nước ngoài thường có các sản phẩm dịch vụ
đặc trưng riêng của ngân hàng như:
- Citigold của Citibank
- HSBC Premier của HSBC

- Dịch vụ ngân hàng ưu tiên của Standard Charter’s
4 Vị thế cạnh tranh
4.1 Vị thế cạnh tranh về năng lực tài chính
Xét về năng lực tài chính và tài sản của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài so với các ngân hàng lớn ở
Việt Nam thì các ngân hàn hầu như chỉ đầu tư vốn điều lệ ở mức 3000 tỷ đồng theo quy định về mức vốn
điều lệ tối thiểu theo lộ trình của Việt Nam. Các ngân hàng lớn ở Việt Nam đều đã dừng nâng mức vốn điều
Page 7 of 16
lệ của mình và đặc biệt là các ngân hàng hàng đầu Việt Nam thì vốn điều lệ đã lên đến hàng chục ngàn tỷ
vào năm 2012 (chi tiết theo bảng thông kê bên dưới).
Như vậy về vị thế cạnh tranh về năng lực tài chính thì các ngân hàng 100% vốn nước ngoài còn thua xa các
ngân hàng lớn trong nước và tương đương với các ngân hàng phổ thông. Trong thời gian tới nếu việc đầu tư
trực tiếp nước ngoài được thông thoát và có sức thu hút hơn đặt biệt là trong lĩnh vực ngân hàng thì có thể
các ngân hàng nước ngoài sẽ tăng vốn điều lệ lên để cạnh tranh với các ngân hàng trong nước. Tiềm lực của
các ngân hàng nước ngoài là rất lớn vì vậy mà các ngân hàng trong nước cũng không nên quá chủ quan về
năng lực cạnh tranh về tài chính của mình. So sánh vốn điều lệ của một số ngân hàng nội và ngân hàng
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam đến 31/12/2012.
Đơn vị: tỷ đồng
STT Tên viết tắt Vốn điều lệ STT Tên viết tắt Vốn điều lệ
NHTMVN 31/12/2012
NH 100% vốn
nước ngoài
31/12/2012
1 Vietcombank 23.174 1 ANZ 3.000
2 Vietinbank 26.218 2 HSBC 3.000
3 Agribank 29.154 3
Standard
Chartered
3.000
4 BIDV 23.012 4 Hong Leong 3.000
5 Sacombank 10.740 5

Shinhan Viet
Nam
7.5417,1
6 Eximbank 12.355
7 Techcombank 8
788
Nguồn: Website ngân hàng nhà nước Việt Nam
Xét về tổng tài sản của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 31/7/2012
Page 8 of 16
Nguồn: Website ngân hàng nhà nước
Xét về thị phần tổng tài sản thì đến 31/07/2012 thì thị phần của các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm tỷ
trọng khoản 10,66%, trong khi thị phần của các ngân hàng TMCP chiếm đến 44,25% và các ngân hàng TM
nhà nước chiếm đến 40,86%. Như vậy tổng tài sản của các ngân hàng nước ngoài chỉ bằng ¼ các ngân hàng
trong nước. Điều này chứng minh năng lực cạnh tranh về tài chính của các ngân hàng nước ngoài còn kém
so với các ngân hàng trong nước .
Tuy nhiên, tính đến 30/06/2013, tài sản của khối ngân hàng liên doanh, nước ngoài tăng 14,8%, trong khi
mức tăng của khối ngân hàng cổ phần lại không đáng kể.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
4.2 Cạnh tranh về thị phần :
Cơ cấu thị phần huy động (đơn vị: %)

Page 9 of 16


Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Xét về cơ cấu thị phần huy động thì qua các năm, các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm thị phần từ 6,6% đến
8,8%. Trong khi đó các ngân hàng trong nước chiếm thị phần trên 80%. Có thể các ngân hàng nước ngoài còn
xa lạ với người dân Việt Nam nên thị phần huy động vốn còn thấp. Tuy nhiên, khoảng 80 ngân hàng và phần
lớn thị phần tập trung vào các ngân hàng dẫn đầu nên rất có thể các ngân hàng nước ngoài lại có sức thu hút vốn
hơn các ngân hàng nhỏ trong nước.

Tương tự như vậy thị phần tín dụng của các ngân hàng nước ngoài cũng chỉ chiếm từ 8% đến 11%. Điều này
cũng dễ hiểu là do thị phần huy động thấp nên dẫn đến khả năng cho vay cũng thấp, đó là chưa kể đến việc xét,
cấp hạn mức tín dụng của các ngân hàng nước ngoài có thể khó khăn hơn các ngân hàng trong nước. Hiện tại
các ngân hàng nước ngoài còn bị cản trở bởi một số chính sách bảo hộ ngân hàng trong nước của chính phủ nên
việc cạnh tranh còn chưa công bằng, sắp đến Việt Nam buộc phải tháo dần các rào cản thì có thể các ngân hàng
nước ngoài sẽ có chiến lược cạnh tranh và hiệu quả cạnh tranh được nâng cao hơn.
Cơ cấu thị phần tín dụng (đơn vị: %)
Page 10 of 16
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
4.3 Cạnh tranh về thu hút nguồn nhân lực
Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi
chung là ngân hàng nước ngoài) luôn có lợi thế trong thu hút nguồn nhân lực so với các ngân hàng trong nước,
bởi họ có rất nhiều yếu tố hấp dẫn nguồn lao động trẻ.
Thứ nhất, môi trường làm việc chuyên nghiệp: Trong một tổ chức, mỗi nhân viên được quyền độc lập,
tự chủ trong phạm vi công việc của mình. Do đó, họ có cơ hội để thể hiện bản thân, cạnh tranh với người khác
một cách công bằng để có được cơ hội thăng tiến trong tương lai.
Đây là điểm mà không phải ngân hàng trong nước nào cũng có được, ngay cả những ngân hàng tầm cỡ như
Vietcombank, BIDV…thì việc thăng tiến cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác không rõ ràng ngoài năng
lực của nhân viên. Ngoài ra, cách thức làm việc theo đội nhóm rất hiệu quả, giúp phát huy được khả năng của
mỗi người cũng như giúp họ học hỏi được từ đồng nghiệp cũng như cấp trên của mình.
Thứ hai, một lý do khá quan trọng giúp ngân hàng nước ngoài chiếm ưu thế hơn hẳn so với ngân hàng trong
nước đó là mức lương khá cao, thường là gấp 2-3 lần mức trung bình của ngân hàng trong nước. Lương là một
yếu tố quan trọng để người lao động quyết đinh có nên chấp nhận
một công việc hay không. Do đó, với mức lương cao thì bước đầu ngân hàng nước ngoài đã có thể thu hút được
ứng viên ứng tuyển vào vị trí, thêm vào đó họ thường có chế độ đãi ngộ ngoài lương rất tốt như chương trình
đào tạo nước ngoài cho nhân viên, du lịch nước ngoài hay mua bảo hiểm cho nhân viên ở mức cao nên có thể
giữ chân được nhân viên lâu dài. Có thể nói đây là điểm nổi trội của các ngân hàng nước ngoài.
Thứ ba, môi trường làm việc thân thiện: Mỗi người độc lập với nhau và cơ hội thăng tiến là công bằng nên các
nhân viên thường cởi mở với nhau. Hơn nữa, quản lý trong những ngân hàng nước ngoài thường là những
người mang phong cách chuyên nghiệp, rất biết trân trọng giá trị của nhân viên nên tạo ra được một môi trường

thân thiện, thoải mái trong công việc cũng như trong quan hệ đồng nghiệp.
Thứ tư, đây là môi trường mà người lao động có thể nâng cao khả năng ngoại ngữ cũng như khả năng giao tiếp
của mình
4.4 Cạnh tranh về công nghệ
Các ngân hàng nước ngoài thường đi đầu trong lĩnh vực công nghệ vì họ đến từ các quốc gia phát triển, có thế
mạnh về công nghệ. Hiện tại, một số ngân hàng nội dẫn đầu về công nghệ như ngân hàng TMCP Kỹ Thương,
để thực hiện thành công chiến lược công nghệ, cũng đã mời nhiều chuyên gia cao cấp từ các ngân hàng hàng
đầu trên thế giới như HSBC, Citibank… về gia nhập đội ngũ phát triển công nghệ của mình. Cho thấy được vị
thế đi đầu của các ngân hàng này trong ngành tại thị trường Việt Nam. Điển hình là Citibank, ngân hàng này đã
trang bị công nghệ Ngân hàng thông minh (Smart banking) cung cấp cho khách hàng thông tin cập nhật về tình
hình trong nước và quốc tế, trong đó bao gồm thông tin thời tiết, kinh doanh, thể thao và tin tức thị trường
Bên cạnh đó, Citi bank còn là ngân hàng đi đầu về giới thiệu hệ thống ngân hàng điện tử tại Việt Nam cụ thể là
vào năm 2009, giúp khách hàng có thể quản lý tài khoản và thực hiện giao dịch ở cơ quan hay tại nhà mà không
cần phải tới Ngân hàng, chỉ cần có kết nối Internet. Trong khi đó, các ông lớn của Việt Nam như Ngân hàng
TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIM) ra mắt dịch vụ này vào tháng 04/2011, Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) ra mắt vào tháng 6/2012. Ứng dụng Citi Mobile hiện đang được triển khai trên các
sản phẩm điện thoại thông minh như Iphone, Android, Blackberry và các duyệt trình web trên di động khác.
Thống kê cho thấy có trên
Page 11 of 16
95% các giao dịch của Citi tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương được Khách hàng thực hiện bên ngoài các
trung tâm giao dịch truyền thống. Điều đó cho ta thấy được vai trò của công nghệ mà Citibank ứng dụng trong
giao dịch. Một ông lớn khác đi đầu về công nghệ phải kể đến là Ngân hàng Hong Kong và Thượng Hải Việt
Nam (HSBC Việt Nam), Ngân hàng này đã đạt giải “Ngân hàng quản lý tiền tệ tốt nhất trong nước” ba năm liên
tiếp trong cuộc bình chọn của EuroMoney – một tạp chí danh tiếng về kinh tế - tài chính có trụ sở đặt tại
Vương quốc Anh. Dịch vụ này được đánh giá thông qua nhiều tiêu chí trong đó có tiến bộ của hệ thống công
nghệ và an ninh của ngân hàng. Điều này là một minh chứng cho sự vận dụng công nghệ tiên tiến của HSBC
trong hoạt động của mình và thế mạnh của HSBC trên thị trường Việt Nam.
4.5 Cạnh tranh về mở rộng và phát triển dịch vụ :
Chi nhánh các ngân hàng nước ngoài luôn đi tiên phong trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ hiện
đại, các sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam. Nhiều ngân hàng nước ngoài đã có những chiến lược mở rộng

và xây dựng mạng lưới khách hàng khá tốt và đa dạng. Nếu như trước kia hầu hết các ngân hàng này chỉ tập
trung vào một số dịch vụ như huy động vốn và cho vay (phần lớn bán buôn), tài trợ thương mại ( bao gồm mở
tài khoản nội và ngoại tệ ),…liên quan nhiều đến các doanh nghiệp lớn thì gần đây các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã mở rộng phạm vi hoạt động hơn đa dạng hoá các sản phẩm
dịch vụ như: cho vay tiêu dùng (mua nhà , mua ô tô ), cho vay hạn mức thấu chi có đảm bảo, dịch vụ thanh
toán và chuyển tiền ….
- Hoạt động tín dụng:
Hiện các ngân hàng ngoại đang ra sức tiếp thị, nới lỏng các chính sách tín dụng nhằm cạnh tranh với các ngân
hàng trong nước. Cụ thể, về đối tượng cho vay, các NH trong nước hướng tới người có thu nhập cao (tối thiểu
10 triệu/tháng), cán bộ, công nhân viên đang làm việc trong Nhà nước, Cty liên doanh, Cty 100% vốn nước
ngoài, CTCP, các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam Hạn mức và điều kiện vay của các NH nội tùy thuộc vào
tài sản đảm bảo.
Trong khi đó, so với điều kiện khá ngặt nghèo của các NH nội, nhiều NH ngoại đưa ra điều kiện cho vay tiêu
dùng dễ hơn, thậm chí không cần tài sản đảm bảo. Thời gian giải quyết hồ sơ vay vốn tại NH nước ngoài được
rút ngắn tối đa để đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng.
Tại NH Standard Chartered Việt Nam, quy trình thủ tục và tốc độ giải ngân cũng được tạo thuận lợi nhanh gọn
nhằm tăng tính cạnh tranh . Hiện NH Standard Chartered cho phép khách hàng đăng ký vay tiêu dùng trực tuyến
và đảm bảo gửi kết quả xét duyệt hồ sơ trong vòng 24 giờ, giá trị khoản vay lên tới 500 triệu đồng.
Còn đối với HSBC, khách hàng không cần thế chấp tài sản hay bảo lãnh Cty, thủ tục đơn giản, nhanh gọn.
Khoản vay lên đến 250 triệu VND, giải ngân nhanh trong vòng 48 giờ, thời hạn vay linh hoạt từ 12 đến 48
tháng.
Trong khi đó, NH ANZ thu hút khách hàng bằng chương trình cho vay tiêu dùng cá nhân với khoản vay lên đến
500 triệu đồng, thủ tục cho vay được xét duyệt trong vòng 48 giờ, kỳ hạn vay linh hoạt lên đến 60 tháng. Thời
gian giải ngân nhanh, không cần thế chấp tài sản hay bảo lãnh của Cty, dễ dàng tăng hạn mức vay tiêu dùng.
Mục đích cho vay tại các NH nội vẫn chủ yếu tập trung vào mua nhà dự án, mua ôtô, sửa chữa nhà ở Trong
khi đó, các NH nước ngoài quy định đối tượng rộng hơn. Ví dụ, điều kiện NH Standard Chartered đưa ra là
khoản vay tiêu dùng cá nhân được sử dụng cho mọi mục đích tiêu dùng cá nhân, ngọai trừ việc đầu tư CP, vàng
và ngoại tệ.
Page 12 of 16
Tuy nhiên, trong khi lãi suất cho vay tiêu dùng được hầu hết các NH nội áp dụng là khoảng 14% - 17%/năm thì

mức lãi suất cho vay của các NH nước ngoài ở mức khá cao. Cụ thể, HSBC cho vay tiêu dùng cá nhân với lãi
suất tính trên dư nợ giảm dần 22%/năm. NH ANZ công bố lãi suất hiện hành là 20%/năm. Nguyên nhân khiến
các NH nước ngoài cho vay với lãi suất cao như vậy vì họ coi đây là lĩnh vực cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro. Lãi
suất cao để bù đắp phòng ngừa rủi ro do một số khách hàng không trả nợ.
- Hoạt động huy động vốn:
Bên cạnh việc nhờ vào vốn được cấp từ ngân hàng mẹ, có thể nói trong những năm gần đây chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đã có chính sách huy động vốn đúng đắn và chính nhờ chính sách này các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài có tính thanh khoản tốt hơn các ngân hàng thương mại khác. Đặc biệt hơn chi nhánh ngân
hàng huy động được USD tại thị trường nước ngoài với lãi suất thấp hơn Việt Nam, sau đó cho các ngân hàng
Việt Nam vay lại đem lại lợi nhuận đáng kể.
- Dịch vụ thanh toán:
+ Tài trợ thương mại (mở tài khoản nội tệ và ngoại tệ): là sản phẩm tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp có nhu cầu
bổ sung vốn lưu động sản xuất kinh doanh. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tài trợ thương mại qua nhiều
hình thức khác nhau như cho vay xuất nhập khẩu, chiết khấu tín dụng thư, chiết khấu hóa đơn. Hiện nay hầu hết
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tập trung cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp 100% vốn FDI, doanh
nghiệp liên doanh và một số tổng công ty Nhà nước có ngành nghề kinh doanh phù hợp với mục tiêu và chiến
lược của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hầu hết đây là những doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính
đủ mạnh, đây cũng là hoạt động chính và thế mạnh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
+ Các loại dịch vụ khác: Nếu như thế mạnh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là hàng loạt các hoạt
động bán buôn thì gần đây xu hướng xâm nhập vào thị trường nội địa bán lẻ đã dần phát triển . Cho đến bây
giờ, các NHTM nội địa vẫn cho rằng NHNg chỉ có ưu thế trong bán buôn, không thể cạnh tranh trong bán lẻ vì
thiếu nhân lực, mạng lưới, hiểu biết về tâm lý khách hàng nội địa Hiện nay, các NHNg, đặc biệt là HSBC,
ANZ, Standard Chareted và một số Cty tài chính nước ngoài khác đang chào mời các sản phẩm tài chính cá
nhân một cách mạnh mẽ. Gói sản phẩm này bao gồm: Tài khoản và tiền gửi; sản phẩm cho vay; Sản phẩm cho
vay cá nhân của các NHNg hiện tập trung vào, phần trăm giá trị tài sản bảo đảm và lên đến 5 tỉ đồng. Giữa
tháng 10/2010, Citibank chính thức khai trương dịch vụ bán lẻ tại Hà Nội. Trước đó không lâu, Ngân hàng
Standard Chartered Bank cũng đã có động thái tương tự. Vào cuối tháng 9/2010, Ngân hàng HSBC cũng đã
khai trương chi nhánh thứ 5 tại Việt Nam Hàng loạt các sản phẩm dịch vụ bán lẻ của ngân hàng nước
ngoài mới ra đời đa dạng hơn như : bảo lãnh, tư vấn khách hàng,… Đồng thời các NHNg sẽ triển khai cung cấp
các sản phẩm hiện đại như: Giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế; thực hiện các giao

dịch hoán đổi (lãi suất, hoán đổi các đồng tiền) và các công cụ phái sinh khác để giúp khách hàng giảm rủi ro
trong hoạt động tài chính; tín dụng hàng hoá
5 Triển vọng phát triển
5.1 Các nhân tố khách quan góp phần thúc đẩy phát triển các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong
tương lai
5.1.1 Pháp lý
Sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO thì việc mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đã sâu
rộng hơn nhiều so với trước đây. Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân
hàng đã cho phép các ngân hàng nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, mở
Page 13 of 16
rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng.
Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính,
kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ tài chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài
sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính.
Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và
pháp nhân nước ngoài tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần trong nước không được vượt quá 30% vốn điều lệ
của ngân hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam.
Có thể thấy, khi những rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài được tháo bỏ sẽ mở ra một sân chơi
lành mạnh hơn cho các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phát triển tự do hơn trên mảng tài chính
ngân hàng trong khi các ngân hàng nội sẽ không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao dịch vụ của mình để
cùng cạnh tranh. Đây cũng được coi như “cú hích” về cạnh tranh để các ngân hàng thương mại Việt Nam đi lên.
5.1.2 Kinh tế Việt Nam
Trong thông cáo báo chí được phát đi ngày 23/1/2014, cơ quan xếp hạng tín nhiệm có trụ sở tại Mỹ
khẳng định tiếp tục giữ nguyên mức xếp hạng tín nhiệm nợ dài hạn của Việt Nam ở mức B+. Mức xếp hạng các
trái phiếu phát hành bằng nội tệ và ngoại tệ không bảo đảm của Việt Nam cũng được giữ ở mức xếp hạng B+.
Ngoài thông báo trên, Fitch đã điều chỉnh nâng triển vọng dài hạn của Việt Nam từ “ổn định” lên
“tích cực”, mức triển vọng cao nhất trong thang đánh giá của cơ quan này.
Theo cơ quan này, triển vọng xếp hạng thể hiện xu hướng một mức xếp hạng có khả năng tăng hoặc giảm trong

giai đoạn từ 1-2 năm. Triển vọng cho thấy những biến động tài chính và các biến động khác chưa đủ để làm
thay đổi thứ bậc xếp hạng, nhưng có thể khiến mức xếp hạng thay đổi nếu tiếp tục đi theo hướng này.
Lý giải về quyết định nâng triển vọng xếp hạng của Việt Nam lên mức “tích cực”, Fitch đưa ra các
nguyên nhân chính bao gồm: Sự ổn định kinh tế vĩ mô được cải thiện, nguồn tài trợ bên ngoài của Việt Nam đã
được củng cố, nhưng ngành ngân hàng vẫn là một điểm yếu trong hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam do mức độ nợ
xấu chưa rõ ràng, và chính sách tài khóa đã chuyển hướng sang mở rộng hơn trong năm qua.
Cụ thể, hãng xếp hạng tín nhiệm của Mỹ này khẳng định kinh tế Việt Nam đã bắt đầu phục hồi sau
một giai đoạn khó khăn, với các biện pháp thắt lưng buộc bụng được triển khai đầu năm 2011 theo Nghị quyết
11 (Nghị quyết 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô – NV).
GDP thực đã tăng 5,4% trong năm 2013, so với 5,2% của năm 2012, nhờ cả sức cầu trong nước và
nước ngoài tăng lên. Fitch cũng dự báo GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng lần lượt 5,7% trong năm 2014 và
5,9% trong năm 2015. Trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng đã bình ổn, chỉ còn tăng 6,6% trong năm 2013, so với
Page 14 of 16
mức 9,1% năm 2012 và 18,7% của năm 2011.
Về nguồn tài trợ nước ngoài, cơ quan này ước tính Việt Nam đã lại có một năm thặng dư tài khoản
vãng lại lớn, tương đương 5% GDP trong năm 2013, sau khi thặng dư 5,8% năm 2012. Việc dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào mạnh, tương đương 6,8% GDP trong năm 2013, tiếp tục khẳng định sự mở
rộng trong lĩnh vực sản xuất/xuất khẩu.
Fitch dự báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam tại thời điểm cuối năm 2013 đạt 28,6 tỷ USD, cao hơn
mức 26,1 tỷ USD cuối năm 2012, và tương đương 2,4 tháng nhập khẩu so với tốc độ hiện tại. Theo cơ quan này
thì đây là “vùng đệm” không quá lớn nhất là khi Việt Nam từng chứng kiến sự biến động mạnh của dòng vốn
những năm gần đây.
Về ngành ngân hàng, Fitch cũng ghi nhận việc chính phủ đã cho ra đời công ty quản lý tài sản quốc
gia VAMC nhằm giải quyết tình hình nợ xấu.
Trong khi đó, áp lực về nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng được khẳng định đã giảm bớt do sự lệch
pha trong tiền gửi và cho vay. Hiện tỉ lệ dư nợ cho vay/huy động của toàn ngành ngân hàng đến cuối quý
2/2013 đã giảm xuống còn 91,6%, thấp hơn mức 94,8% cuối năm 2012.
Về chính sách tài khóa, Fitch cho rằng Việt Nam đã nới lỏng chính sách tài khóa trong năm qua, với
mức thâm hụt ngân sách năm 2013 ước tính ở mức 5,8% GDP, so với mức 4,8% GDP năm 2012.
Do đó, nợ công của Việt Nam đến cuối năm qua được ước tính ở mức 42,6% GDP. Theo ghi nhận

của Fitch, các nước có mức xếp hạng “B” trung bình có tỉ lệ nợ công ở 42,4%, trong khi nhóm xếp hạng “BB”
có tỉ lệ nợ công bằng 35,1% GDP.
Những dự báo trên là bằng chứng minh hoạ tốt nhất cho ta thấy dấu hiệu khả quan về sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam trong tương lai. Sự phát triển của nền kinh tế là nhân tố đi đầu thu hút ngân hàng nước
ngoài có chính sách và lên kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
5.1.3 Môi trường kinh doanh tại Việt Nam
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách trong những năm qua để cải thiện môi trường kinh doanh. Sự mở cửa
hệ thống ngân hàng với những quy định nới lỏng và một lộ trình giảm dần sự bảo hộ của Chính phủ đang và sẽ
tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài tham gia, mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
Thứ nhất, về cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô. Kiểm soát lạm phát là trọng tâm đúng đắn. Việc tiếp
tục giới hạn tăng trưởng tín dụng có thể phân bổ sự tăng trưởng cho các tổ chức tài chính lớn, chứ không đơn
giản là các tổ chức tài chính lớn nhất. Do đó, cải thiện kinh tế vĩ mô cần được thúc đẩy nhanh hơn khi lạm phát
được kiềm chế và sự ổn định quay trở lại nền kinh tế.
Thứ hai, về cấp phép đầu tư. Việt Nam có những cải cách trong việc cấp phép để đảm bảo tốt hơn cho
các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Page 15 of 16
Thứ ba, về kết cấu hạ tầng cơ sở, kĩ thuật công nghệ. Việt Nam đã phát triển nhiều công nghệ mới trong
lĩnh vực ngân hàng.
Thứ tư, về phát triển nguồn nhân lực. Lực lượng lao động của Việt Nam có kỹ năng chuyên môn, Việt
Nam cần cải thiện và nâng cao chất lượng lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong
và ngoài nước đang thay đổi một cách nhanh chóng.
Thứ năm: năm 2013 tiếp tục thực hiện các chỉ tiêu phấn đấu đã thông qua tại Quốc hội như phấn đấu
GDP tăng 5,5%; tốc độ tăng giá tiêu dùng CPI khoảng 8%, tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động. Với mục
tiêu đó, môi trường kinh tế tạo cho ngân hàng những cơ hôi kinh doanh.
5.2 Chiến lược phát triển của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong tương lai
Nhìn chung, các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đóng vai trò là cầu nối thu hút đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Các tổ chức này là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của các ngân hàng thương
mại trong nước, nhưng cũng là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng hiện đại, những
thông lệ quốc tế về quản trị tốt nhất và là nguồn tài chính không nhỏ bổ sung cho thị trường tài chính của Việt
Nam.

Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường tiên phong trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, giới thiệu sản
phẩm dịch vụ mới. Do vậy, có thể nói các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường chiếm ưu thế trong các dịch
vụ thanh toán và hoạt động phi tín dụng.
Không chỉ thâu tóm hàng loạt khách hàng lớn, ngân hàng nước ngoài còn đang lên kế hoạch chiếm lĩnh khối
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như khối khách hàng cá nhân. Tiếp tục đa dạng hóa các dịch vụ bán lẻ. Các
ngân hàng nước ngoài có chiến lược đầu tư vào Việt Nam an toàn – phát triển bền vững
- Mở rộng mạng lưới, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ và công nghệ, sản phẩm dịch vụ.
- Các ngân hàng nước ngoài đa dạng về chủng loại sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, sản phẩm mới nhiều, chất
lượng dịch vụ và tính tiện ích cao, định hướng theo nhu cầu khách hàng; vấn đề bảo mật thông tin đáp ứng được
yêu cầu.
- Có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt động ngân hàng bán lẻ, đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị
dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tỷ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng cao.
Page 16 of 16

×