Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Lv thạc sỹ đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại ngân hàng tmcp công thương việt nam- bài học kinh nghiệm từ một số ngân hàng nước ngoài tại việt nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.29 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
----------------------
VŨ THỊ HỒNG ANH
ĐẨY MẠNH DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM-
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NGÂN HÀNG
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
HÀ NỘI-2011
final 14-09.doc
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
1.1 Ngân hàng thương mại (NHTM). ................................................................................. 5
1.1.1 Một số khái niệm. ...................................................................................................... 5
1.1.2 Chức năng của NHTM. ........................................................................................... 10
1.1.3 Phân loại NHTM. .................................................................................................... 11
1.1.4 Các hoạt động ngân hàng cơ bản của NHTM. ....................................................... 13
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các NHTM. .............. 16
1.2.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL) ........................................................ 16
1.2.2 Đặc điểm của dịch vụ NHBL. ................................................................................. 18
1.2.3 Vai trò của dịch vụ NHBL. ..................................................................................... 21
1.3 Các dịch vụ NHBL cơ bản. .......................................................................................... 22
1.3.1 Dịch vụ huy động vốn. ............................................................................................ 22
1.3.2 Dịch vụ cho vay ....................................................................................................... 24


1.3.3 Các dịch vụ khác. ................................................................................................... 26
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ NHBL TẠI NGÂN HÀNG TMCP
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM ............................................................................... 28
2.1 Giới thiệu Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank). .................. 29
2.1.1 Giới thiệu chung về VietinBank. ............................................................................ 29
2.1.2 Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của VietinBank giai đoạn 2006-2010 . 32
2.1.3 Định hướng phát triển của VietinBank giai đoạn 2011-2015 ................................ 39
2.2 Phân tích tình hình hoạt động NHBL tại VietinBank giai đoạn 2006-2010. ......... 42
2.2.1 Kết quả hoạt động NHBL giai đoạn 2006-2010 ..................................................... 42
2.2.2 Sản phẩm dịch vụ NHBL. ....................................................................................... 48
2.2.3 Hệ thống chi nhánh và kênh phân phối. ................................................................. 51
2.2.4 Hoạt động marketing và phát triển thương hiệu. .................................................... 53
2.2.5 Hạ tầng công nghệ thông tin. ................................................................................. 55
2.2.6 Công tác quản trị và phát triển nguồn nhân lực: ................................................... 57
2.3 Hạn chế trong hoạt động NHBL tại VietinBank . .................................................... 58
2.3.1 Hạn chế còn tồn tại. ................................................................................................. 58
2.3.2 Nguyên nhân ............................................................................................................ 61
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ NHBL CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM VÀO ĐẨY MẠNH DỊCH VỤ NHBL TẠI VIETINBANK ....................... 69
3.1 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ NHBL của một số ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam. ..................................................................................................................................... 69
3.1.1 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ NHBL của ngân hàng ANZ Việt Nam. ............... 70
3.1.2 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ NHBL của ngân hàng HSBC Việt Nam. ............ 73
3.1.3 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ NHBL của ngân hàng Citibank Việt Nam. ......... 77
3.2 Giải pháp đẩy mạnh dịch vụ NHBL tại VietinBank. ............................................... 80
3.2.1 Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ NHBL. .................................................... 80
3.2.2 Phát triển sản phẩm dịch vụ NHBL. ...................................................................... 81
3.2.3 Mở rộng hệ thống chi nhánh và kênh phân phối. .................................................. 83
3.2.4 Phát triển nguồn nhân lực. ...................................................................................... 84

3.2.5 Đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ. ....................................................................... 86
3.2.6 Đẩy mạnh hoạt động marketing. ............................................................................. 87
3.2.7 Tăng cường hoạt động quản trị rủi ro. .................................................................... 88
3.2.8 Phát triển dịch vụ chăm sóc khách hàng. ................................................................ 90
3.3 Một số kiến nghị. ......................................................................................................... 91
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ. ........................................................................................ 92
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ...................................................... 94
3.3.3 Kiến nghị với các NHTM. .................................................................................... 96
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 101
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACB Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
ATM Máy rút tiền tự động
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHBB Ngân hàng bán buôn
NHBL Ngân hàng bán lẻ
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTG Ngân hàng trung gian
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
LAN Mạng nội bộ
POS Điểm chấp nhận thẻ
Sacombank Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
Seabank Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
Techcombank Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam
TMCP Thương mại cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
VietinBank Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1
Tăng trưởng về tổng tài sản của VietinBank giai đoạn
2006-2010
32
Bảng 2.2 Tăng trưởng về vốn của VietinBank giai đoạn 2006-2010 33
Bảng 2.3
Tăng trưởng về lợi nhuận của VietinBank giai đoạn
2006-2010
34
Bảng 2.4
Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của VietinBank giai đoạn
2006-2010
34
Bảng 2.5
Tình hình huy động vốn của VietinBank giai đoạn
2006-2010
35
Bảng 2.6
Dư nợ cho vay nền kinh tế của VietinBank giai đoạn
2006-2010
36
Bảng 2.7
Hoạt động thanh toán của Vietinbank giai đoạn
2006-2010
37
Bảng 2.8 Số lượng thẻ VietinBank phát hành giai đoạn 2007-2010 38
Bảng 2.9

Tiền gửi phân theo nhóm khách hàng tại VietinBank giai đoạn
2006-2010
42
Bảng 2.10 Hoạt động thanh toán của VietinBank giai đoạn 2006-2010 45
Biểu đồ 2.1
Cơ cấu tiền gửi của khách hàng tại VietinBank theo kỳ hạn
giai đoạn 2006-2010
43
Biểu đồ 2.2
Dư nợ tín dụng phân theo thành phần kinh tế tại VietinBank
giai đoạn 2006-2010
44
Biểu đồ 2.3
Dư nợ tín dụng phân theo kỳ hạn tại VietinBank giai đoạn
2006-2010
45
Biều đồ 2.4
Doanh số chuyển tiền kiều hối qua VietinBank giai đoạn
2003-2010
47
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trên thế giới, dịch vụ ngân hàng bán lẻ từ lâu đã là một dịch vụ được nhiều
người dân ưa chuộng vì tính hữu dụng, thân thiện, hiện đại và tiện ích. Bên cạnh đó,
dịch vụ ngân hàng bán lẻ còn là dịch vụ giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao năng lực
cạnh tranh, mang lại nguồn thu nhập ổn định, bền vững cho các ngân hàng. Ở Việt
Nam, tuy còn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ, nhưng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế, của hạ tầng công nghệ và sự đi lên của đời sống người dân thì phát triển
dịch vụ ngân hàng bán lẻ đang dần trở thành một xu hướng chung. Đặc biệt, sau thời
điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới

WTO, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng lại càng trở nên gay gắt hơn với sự
tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Tạp chí Stephen Timewell có nhận định:
“Xu hướng ngày nay, ngân hàng nào nắm bắt được cơ hội mở rộng việc cung cấp
dịch vụ ngân hàng bán lẻ cho một số lượng khổng lồ dân cư đang “đói” các dịch vụ
tài chính tại các nước có nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn
cầu trong tương lai”. Nắm bắt xu thế này, một loạt các ngân hàng lớn, có tiềm lực tài
chính, kỹ thuật, công nghệ hiện đại đã bắt đầu thâm nhập vào thị trường dịch vụ ngân
hàng bán lẻ còn nhiều tiềm năng như Việt Nam. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết đây là
thời điểm mà các ngân hàng Việt Nam cần có một cái nhìn toàn diện về thực trạng
hoạt động ngân hàng bán lẻ tại ngân hàng mình và từ đó tìm ra các giải pháp đẩy
mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh, bắt kịp với xu
hướng phát triển chung của lĩnh vực ngân hàng thế giới.
Là một trong những ngân hàng có thương hiệu và uy tín lớn tại Việt Nam, để
luôn giữ vững được thị phần và không ngừng phát triển lớn mạnh Ngân hàng TMCP
Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã lựa chọn phát triển dịch vụ ngân hàng bán
lẻ song song với các sản phẩm dịch vụ truyền thống. Với sự đầu tư khá đồng bộ về
vốn, công nghệ, nhân sự kết hợp với những thế mạnh vốn có về mạng lưới kênh phân
phối, mạng lưới khách hàng, bước đầu VietinBank đã đạt được một số thành công
nhất định trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, bất cập nhất định cần phải sớm khắc phục để có thể đẩy mạnh dịch
vụ ngân hàng bán lẻ ở VietinBank thời gian tới.
Xuất phát từ thực tế nêu trên tác giả quyết định chọn đề tài “Đẩy mạnh
dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam-Bài
học kinh nghiệm từ một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động ngân hàng bán lẻ là vấn đề được nghiên cứu nhiều trên thế giới, tuy
nhiên chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Cho đến nay đã có một số bài viết về
hoạt động ngân hàng bán lẻ như: bài viết Ngân hàng bán lẻ và dịch vụ ATM của các
NHTM ở Việt Nam- Tạp chí Ngân hàng số 3(2004) của tác giả Văn Chiến. Bài viết

này nêu một cách khái quát về hoạt động ngân hàng bán lẻ trong giai đoạn khởi đầu ở
Việt Nam và đi sâu nghiên cứu về mảng dịch vụ ATM của các NHTM.Tuy đã đưa ra
được cái nhìn tổng quan về dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam thời điểm đó
nhưng bài viết chỉ tập trung chủ yếu vào dịch vụ ATM mà chưa nghiên cứu đến các
mảng dịch vụ khác của NHTM. Bên cạnh đó còn có bài viết “ Phát triển các dịch
vụ ngân hàng bán lẻ - một xu hướng phát triển tất yếu của các ngân hàng” đăng trên
Tạp chí Ngân hàng số 7 (2007)- ThS.Vũ Thị Ngọc Dung. Bài viết này đưa ra cái nhìn
tổng quát và đẩy đủ hơn về xu hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ ở các ngân
hàng Việt Nam hiện nay, tuy nhiên không đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động
dịch vụ ngân hàng bán lẻ của cụ thể một ngân hàng nào.
Ngoài ra, còn có một vài đề tài nghiên cứu về hoạt động ngân hàng bán lẻ
như: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ đối với
các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của Mai Văn Sắc-ĐH Kinh Tế
TPHCM (2007),“Giải pháp ứng dụng Marketing trong việc phát triển các dịch vụ
ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng BIDV Hải Dương”của Lê Thị Mai Phương-Học
Viện Ngân Hàng (2009)...Tuy nhiên do mục đích và yêu cầu khác nhau, và đặc thù
riêng của từng ngân hàng mà các nghiên cứu trên chỉ tập trung phân tích, đánh giá và
đưa ra các kiến nghị, đề xuất cho từng ngân hàng cụ thể và gần như không thể áp
dụng các giải pháp đó cho các tổ chức khác.
Trên cơ sở những lý thuyết cơ bản, tác giả sẽ đi sâu phân tích thực trạng hoạt
động ngân hàng bán lẻ tại VietinBank, nghiên cứu áp dụng kinh nghiệm phát triển
hoạt động ngân hàng bán lẻ của một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam để từ đó
đưa ra các giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ tại đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
• Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động ngân hàng bán lẻ tại
ngân hàng thương mại;
• Phân tích, nhận xét, đánh giá về thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam;
• Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ của một số

ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam;
• Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận về hoạt động ngân hàng
bán lẻ từ các nghiên cứu trong thời gian gần đây.
• Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ của các ngân
hàng thương mại và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngân hàng
bán lẻ trong hoạt động ngân hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động ngân hàng bán lẻ.
• Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam và một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
trong giai đoạn 2006 – 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được áp dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng,
sử dụng dữ liệu được thu thập chủ yếu từ các nguồn tư liệu thứ cấp: Báo cáo của
Ngân hàng, nghiên cứu khoa học, tạp chí...
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, tổng
hợp, phân tích, đối chiếu và so sánh để đưa ra các kết luận cho nghiên cứu của mình.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
• Về mặt lý luận: Cung cấp cho người đọc nền tảng lý thuyết về ngân hàng
thương mại và hoạt động ngân hàng bán lẻ tại các ngân hàng thương mại.
• Về mặt thực tiễn: Đã cung cấp được bức tranh toàn cảnh về hoạt động ngân
hàng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam nhằm chỉ ra những
kết quả và những mặt còn tồn tại trong hoạt động ngân hàng bán lẻ tại ngân
hàng. Phân tích kinh nghiệm phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ của một số
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp để
đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ tại ngân hàng TMCP Công Thương
Việt Nam. Dựa trên các giải pháp đề xuất này, mong muốn sẽ giúp ích được

nhiều ngân hàng khác áp dụng cho việc phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ
tại ngân hàng mình.
7. Kết cấu, nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo luận
văn gồm 3 chương:
Chương I: Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại và dịch vụ ngân hàng bán lẻ
của các ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng TMCPCông
Thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp vận dụng kinh nghiệm phát triển dịch vụ NHBL của một số
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam vào đẩy mạnh dịch vụ NHBL tại VietinBank.
Do hạn chế về mặt thời gian, tài liệu cũng như trình độ nhận thức nên luận văn
này không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất mong nhận được sự góp ý
và hướng dẫn chỉnh sửa của các thầy cô.
Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS,TS. Nguyễn Đình Thọ đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại (NHTM).
1.1.1 Một số khái niệm.
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng.
Danh từ ngân hàng (Bank) xuất phát từ chữ La Tinh là Bancus. Bancus có
nghĩa là một chiếc bàn dài có nhiều hộc được những người nhận tiền gửi và cho vay
tiền, tài sản sử dụng để ngồi làm việc, giao dịch, cất giữ tiền, tài sản và sổ sách. Cả
tên gọi và hoạt động ngân hàng bắt đầu phát triển từ đế quốc La Mã (năm 323 trước
Công nguyên)
1
cho đến thế kỷ V sau Công nguyên. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng
sơ khai thật sự đã bắt đầu từ trước đó rất lâu.
Khoảng 3500 năm trước Công nguyên

2
là giai đoạn sơ khai của ngân hàng
dưới dạng tiệm cầm đồ. Vào thời điểm này, lãnh thổ, khu vực của các cộng đồng
chưa được phân định, chiến tranh và cướp bóc xảy ra ở khắp nơi, dân chúng có của
cải thừa từ quá trình sản xuất và trao đổi trở thành mục tiêu của tranh cướp. Người
dân, do đó, chỉ tìm thấy sự an tâm khi mang gửi các tài sản ky cóp được vào nhà thờ,
vào kho các nhà quyền quý hoặc các thợ vàng là những người có lâu đài và lực lượng
bảo vệ. Một cách tự nhiên, những người này trở thành những người giữ của cải và tài
sản cho công chúng. Công chúng gửi tài sản vào đầu kỳ, các đối tượng nói trên nhận
lấy, vào sổ, xuất biên nhận và chỉ việc cất thật kỹ cho đến cuối kỳ. Đến ngày hẹn,
hoặc khi cần đột xuất, chủ nhân đến nhận lại tài sản, trả biên nhận cho nhà thờ hoặc
lãnh chúa kèm theo khoản thù lao tiền công đã cất giữ, bảo quản. Những hoạt động
này mang hình thức như hoạt động của một tiệm cầm đồ.
Khoảng năm 1800 trước Công nguyên
3
, có 2 phát kiến quan trọng đã biến
những tiệm cầm đồ nói trên và những người giữ của trở thành các ngân hàng và chủ
ngân hàng sơ khai.
Thứ nhất: những người vẫn gửi tài sản, sản vật và sau này là tiền nhận thấy
rằng trong một số thanh toán, thay vì họ phải mang biên nhận đến nơi gửi để đổi trở
lại thành tài sản phục vụ cho việc thanh toán, họ có thể giao cho người bán biên nhận
nói trên. Người bán hàng mang biên nhận đến nơi gửi để đổi lấy lại phần tài sản mà
người mua hàng đã gửi trước đó. Việc thanh toán bằng biên nhận của tiệm cầm đồ
1
TS. Lê Vinh Danh, 2009
2
TS. Lê Vinh Danh, 2009
3
TS.Lê Vinh Danh, 2009
này đầu tiên được chấp nhận một cách dè dặt nhưng dần dần nó được chấp nhận rộng

rãi hơn, bởi nhiều lý do: Thứ nhất, người nhận thanh toán thấy rằng họ hoàn toàn có
thể đến các tiệm cầm đồ để đổi lại ra tiền khi họ xuất trình biên nhận gửi tài sản.
Việc thanh toán bằng biên nhận càng thuận lợi hơn nếu cả hai bên mua bán đều gửi
tiền hay tài sản ở cùng một nơi. Thứ hai, việc cất giữ hoặc mang theo biên nhận
thuận tiền, dễ dàng và an toàn hơn các loại tiền hoặc tài sản khác.
Thứ hai: các chủ tiệm cầm đồ thông minh trong giai đoạn ấy nhanh chóng nhận
thấy rằng: trong mỗi đơn vị thời gian, chẳng hạn một ngày, có nhiều người đến rút
tài sản, trả lại biên nhận, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều người mới đến gửi tài
sản vào. Sự chênh lệch giữa tổng khoản ký gửi và tổng khoản được rút ra thường
không lớn, và về mặt dài hạn, thí dụ như một tuần hoặc một tháng, các khoản gửi và
rút thường cân bằng nhau. Do vậy, tài sản được cất giữ trong kho hầu như không đổi
trong những khoảng thời gian rất dài. Điều này trở nên thật phí phạm, trong lúc có
nhiều thương nhân rất cần vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu dùng…Nhận
thức được điều đó nên một số chủ tiệm cầm đồ bắt đầu dùng tiền của công chúng
gửi để cho vay. Nếu người chủ tiệm cầm đồ có thể điều chỉnh khối lượng cho vay
mỗi ngày không vượt quá một giới hạn nào đó, nhằm đảm bảo rằng luôn luôn có
những khoản tiền mặt dự trữ tối thiểu trong kho, nhằm đáp ứng việc rút tiền bất ngờ
của người gửi, thì tiệm cầm đồ vẫn bảo vệ được uy tín của mình.
Như vậy, hoạt động cầm đồ đơn giản giữa hai bên, người gửi tiền và chủ tiệm
cầm đồ, đã chuyển thành hoạt động phức tạp hơn giữa ba bên, người dư thừa tiền của
có nhu cầu gửi tiền, chủ tiệm cầm đồ làm trung gian lấy tiền của người gửi cho vay
lại lấy lời, và những thương nhân có nhu cầu về vốn để kinh doanh. Lúc này tiền
không còn nằm một chỗ trong kho mà đã được luân chuyển hợp lý từ nơi thừa vốn
sang nơi thiếu vốn. Hơn nữa, với việc mạnh dạn cho vay, các tiệm cầm đồ đã tạo ra
các khoản tiền mới trong lưu thông, nghĩa là đã tham gia vào hoạt động cung ứng
tiền. Không chỉ có vậy, bằng việc phát hành biên lai xác nhận số tiền gửi, chủ tiệm
cầm đồ đóng vai trò trung gian đã cung cấp thêm một phương tiện thanh toán góp
phần thúc đẩy hoạt động thanh toán phát triển.Với hai phát kiến trên hình thức tiệm
cầm đồ ban đầu đã chuyển thành hình thức ngân hàng sơ khai và các chủ tiệm cầm
đồ đã trở thành các chủ ngân hàng đầu tiên.

Các hoạt động ngân hàng sơ khai tiếp tục tồn tại và phát triển cùng với sự phát
triển của giao thương buông bán, tuy nhiên tên gọi “ngân hàng” (bank) chỉ chính
thức ra đời vào năm 323 trước Công nguyên khi đế quốc Hy Lạp tan rã, mở đầu cho
thời kỳ La Mã thống trị Hy Lạp
4
. Nghệ thuật ngân hàng sơ khai cũng được mang
theo về La Mã và trước Thiên Chúa giáng sinh, hoạt động này đã được một số
người gọi tên chính thức là “ngân hàng”. Tên gọi này được tiếp tục giữ và phát triển
cho đến ngày nay.
Như vậy, thông qua lịch sử phát triển lâu đời và nguồn gốc tên gọi của ngân
hàng có thể hiểu một cách đơn giản ngân hàng là một tổ chức trung gian cung cấp
các dịch vụ tài chính (như huy động vốn, cho vay vốn, cung cấp dịch vụ thanh toán)
để kiếm lời.
Tuy nhiên theo thời gian, bên cạnh sự tồn tại của ngân hàng cũng xuất hiện
những tổ chức đóng vai trò trung gian tài chính như các công ty bảo hiểm, các công
ty kinh doanh chứng khoán hay các qut y hỗ tương…Khi đó để có thể phân biệt các tổ
chức này khái niệm chung chung “ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính” đã
dần được thay thế bởi những quy định cụ thể hơn trong luật quốc gia và luật quốc tế.
Về cơ bản, các tổ chức này được phân biệt với nhau bởi danh mục các dịch vụ mà
chúng cung cấp.
Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã xác định: “Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.” (Khoản 2-Điều 20). Trong đó các
“hoạt động ngân hàng” được quy định là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán” (Khoản 7- Điều 20).
Như vậy có thể hiểu, ngân hàng là một tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt
động bao gồm: kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia làm hai bộ phận chính: ngân hàng

trung ương và các ngân hàng trung gian.
4
TS.Lê Vinh Danh, 2009
Ngân hàng trung ương (NHTW): Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới dù
lớn hay nhỏ dều có một NHTW. Các ngân hàng này đảm nhận nhiều vai trò rất quan
trọng như: Chủ ngân hàng của chính phủ; Chủ ngân hàng cho các ngân hàng trung
gian hoặc các tổ chức tài chính, Điều hòa sự phát hành tiền tệ; Quản lý dự trữ quốc
gia, Quản lý hệ thống tài chính quốc gia, Điều tiết kinh tế vĩ mô .
Ngân hàng trung gian (NHTG): Hầu như ở tất cả các quốc gia, bộ phận lớn nhất
trong hệ thống ngân hàng hiện đại là hệ thống NHTG và các chi nhánh của nó. Chức
năng trung gian của các ngân hàng này thể hiện ở hai khía cạnh. Trước hết là trung
gian giữa NHTW và công chúng, theo đó NHTG một mặt giao dịch với NHTW, một
mặt giao dịch với công chúng. Thứ hai, chức năng trung gian thể hiện ở việc môi giới
giữa người gửi tiền và người vay tiền. Ngân hàng trung gian bao gồm các loại sau:
ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng đặc biệt và ngân
hàng có mục đích xã hội.
Vì sự liên đới mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều tổ
chức không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động vay, cho vay và
kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các
quỹ tiền tệ... được nhiều nước xem là bộ phận thứ ba của hệ thống ngân hàng.
1.1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM):
Bộ phận lớn nhất trong nhóm các NHTG là hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM). Mặc dù chỉ có một biên giới rất mỏng manh giữa các NHTM với các tổ
chức tiết kiệm khác, người ta vẫn tách NHTM ra thành một nhóm riêng vì những lý
do đặc biệt của nó. Một trong những lý do này là tổng tài sản của NHTM luôn luôn là
khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, khối lượng séc
(Check) hay tài khoản gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra, cũng là bộ phận quan
trọng trong tổng cung tiền tệ của cả nền kinh tế.
Cho đến cuối thập niên 60, điểm đặc thù để phân biệt một NHTM với các
NHTG khác là: NHTM là đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản gửi không kỳ hạn

cho công chúng. Có nghĩa người ta phân biệt nó dựa trên các thành phần của tài sản
nợ. Vào lúc ấy, tiền gửi không kỳ hạn bị cấm trả lãi. Tuy nhiên vì nhu cầu giao dịch
thông qua séc vẫn tăng gấp đôi hàng năm, cho nên khối lượng séc có thể viết từ các
khoản tiền gửi không kỳ hạn tiếp tục là bộ phận mạnh nhất sau tiền mặt pháp định.
Từ những năm 80, sau khi tiền gửi không kỳ hạn đã được phép trả lãi, các ngân
hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cũng bắt đầu mở tài khoản gửi không kỳ
hạn, cho phép công chúng sử dụng séc một cách rất đa dạng dưới nhiều hình thức từ
sổ séc cho đến thẻ tín dụng bằng nhựa... Với việc nhiều ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác NHTM cùng được quyền mở tài khoản gửi không kỳ hạn, việc phân biệt
NHTM với các ngân hàng và tổ chức tài chính khác trở nên phức tạp. Do vậy, các
nhà Ngân hàng học Tây phương bắt đầu quay về phân biệt NHTM dựa trên tài sản
có (Assets). Với cách phân biệt này, NHTM được hiểu là một ngân hàng trung gian
mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp chiếm đa số trong tài
sản có của nó.
Từ sự chuyển hướng phân biệt vào tài sản có, NHTM được hiểu là một ngân
hàng có những đặc trưng sau:
NHTM là một trung gian tài chính, một doanh nghiệp hoạt động bằng các
nguồn vốn sau: Tiền gửi của công chúng (có kỳ hạn, không có kỳ hạn và tiết kiệm);
Vốn tự có của các ngân hàng do các cổ đông đóng góp; Vốn vay của các tổ chức kinh
doanh, NHTG khác, NHTW, Kho bạc hoặc nước ngoài; Vốn vay của công chúng
bằng cách phát hành phiếu nợ (cổ phiếu, trái phiều); Vốn hoặc tài sản do các đơn vị
đem lại cầm cố...
Đối tượng cho vay của NHTM chủ yếu là: Thương mại, sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp...Đầu tư hoặc hùn hạp xây dựng xí nghiệp, khu công nghiệp
rồi bán lại cổ phần.
Ngoài ra NHTM vẫn được quyền tạo ra lợi nhuận bằng cách đầu tư vào các loại
hình tài sản sinh lợi khác như mua chứng khoán, bất động sản hay chiết khấu thương
phiếu, hối phiếu hoặc đầu tư vào các loại hàng hóa khác... Tuy nhiên, thông thường
có đến khoảng 2/3 vốn hoạt động của NHTM là những khoản vốn ngắn hạn xuất phát
từ những khoản vay ngắn ngày, tiền gửi có kỳ hạn thời gian ngắn và tiền gửi không

kỳ hạn. Cho nên việc quản lý tài sản có sao cho hợp lý với vốn huy động là một vấn
đề hết sức tinh tế của các NHTM.
Cụ thể trong luật ngân hàng của các quốc gia, NHTM được định nghĩa là:
Theo định nghĩa của Luật ngân hàng Mỹ: ngân hàng thương mại là công ty
kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt
Nam xác định “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của
xã hội.
1.1.2 Chức năng của NHTM.
Là một trong các loại ngân hàng trung gian nên ngân hàng thương mại có đầy
đủ ba chức năng chủ yếu là: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian
thanh toán, chức năng tạo tiền.
1.1.2.1Chức năng trung gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng cơ bản nhất, phản ánh rõ
nét nhất bản chất của một NHTM, là cơ sở để thực hiện các chức năng khác. Khi
thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người
thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là
người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh

lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay. Với vai trò là trung gian tín dụng,
NHTM đã đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, người đi vay
tiền, NHTM và qua đó góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực
hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi
của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM
cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…Tùy theo nhu cầu, khách
hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể
kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải
thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực
hiện các khoản thanh toán. Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi
phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế.
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM, tạo ra
sự khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. Với mục tiêu
là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình,
các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên
cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được
để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh
toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn
được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh
toán dịch vụ…Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.

1.1.3 Phân loại NHTM.
1.1.3.1 Phân loại dựa vào hình thức sở hữu:
Dựa vào hình thức sở hữu, các NHTM được chia ra thành các loại gồm: ngân
hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng tư nhân:
Ngân hàng thương mại quốc doanh: là ngân hàng được thành lập từ vốn thuộc
Ngân sách Nhà nước, là trụ cột của nền kinh tế. Ở Việt Nam, ban đầu những ngân
hàng này là những ngân hàng chuyên doanh, đến năm 1992 thì đổi tên và trở thành
ngân hàng kinh doanh đa năng. Ví dụ: Ngân hàng TMCP VietinBank.
Ngân hàng thương mại cổ phẩn (TMCP): là ngân hàng được thành lập từ vốn
góp của các cổ đông, kinh doanh đa năng. Hệ thống ngân hàng TMCP bao gồm hai
loại: ngân hàng TMCP đô thị và ngân hàng TMCP nông thôn. Hiện nay, tất cả các
NHTM tại Việt Nam đều là ngân hàng TMCP và được thực hiện đầy đủ các nghiệp
vụ kinh doanh của ngân hàng. Ví dụ: ngân hàng TMCP SeaBank, Ngân hàng TMCP
ACB, ngân hàng TMCP SacomBank, ngân hàng TMCP Techcombank
Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng do các bên liên doanh góp vốn, tỷ lệ đóng
góp của các đối tác nước ngoài không quá 50% vốn điều lệ. Ví dụ: Ngân hàng liên
doanh ShinhanVina, Ngân hàng liên doanh Indovina, Ngân hàng liên doanh Viet Lao,
Ngân hàng liên doanh Viet Nga
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật
Việt Nam do chủ sở hữu nước ngoài cấp 100% vốn; được quyền cung cấp đầy đủ các
dịch vụ ngân hàng cho thị trường Việt Nam; thời gian hoạt động không vượt quá 99
năm. Ví dụ: ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân hàng HSBC Việt Nam, Ngân hàng
Standard Chartered Việt Nam…
Ngân hàng tư nhân: Do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân đó. Loại hình
ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp; thường có mối quan hệ tốt với
khách hàng. Tuy nhiên, loại hình ngân hàng tư nhân theo cách tiếp cận này chưa xuất
hiện tại Việt Nam
1.1.3.2 Phân loại dựa vào chiến lược kinh doanh:
Dựa vào chiến lược kinh doanh các NHTM được chia ra thành ngân hàng

thương mại bán buôn, ngân hàng thương mại bán lẻ, ngân hàng thương mại vừa bán
buôn vừa bán lẻ.
Ngân hàng thương mại bán buôn: là NHTM tập trung nhắm đến đối tượng
khách hàng là các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các xí nghiệp
lớn. Danh mục sản phẩm ngân hàng loại này cung cấp cho khách hàng thường không
đa dạng tuy nhiên giá trị của từng giao dịch thường là rất lớn.
Ngân hàng thương mại bán lẻ: là ngân hàng tập trung khai thác nhóm đối tượng
khách hàng là cá nhân hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng loại này
thường chú trọng đến việc đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng được các nhu cầu của
nhiều khách hàng. Tuy giá trị của từng sản phẩm không lớn nhưng bù lại là một lực
lượng khách hàng rất lớn. Hoạt động của ngân hàng này chủ yếu là huy động vốn từ
mọi thành phần kinh tế, và cho vay để giải quyết vấn đề tiêu dùng hoặc các dự án sản
xuất với quy mô nhỏ và vừa.
Ngân hàng thương mại vừa bán buôn, vừa bán lẻ: Là ngân hàng thực hiện song
song cả hai hoạt động bán buôn và bán lẻ. Ngân hàng này nhắm vào tất cả các dạng
khách hàng từ cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến các tổng
công ty, các tập đoàn lớn. Ví dụ: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
(VietinBank), Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (Seabank)
1.1.4 Các hoạt động ngân hàng cơ bản của NHTM.
1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động sau đó cho vay, đầu tư
và thực hiện các nghiệp vụ khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn tạo nguồn
cho ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển và chất
lượng hoạt động của ngân hàng. Yêu cầu đối với hoạt động huy động vốn phải là vừa
duy trì cơ cấu Nợ - Vốn hợp lý để ngăn ngừa rủi ro, đồng thời phải đảm bảo thu nhập
cho ngân hàng trên cơ sở an toàn thanh khoản với chi phí tối thiểu. Hoạt động huy
động vốn bao gồm các hoạt động cơ bản sau:
• Hoạt động tạo vốn tự có:
Về cơ bản, vốn chủ sở hữu của một ngân hàng gồm nguồn vốn hình thành ban
đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ hoặc nguồn vay nợ có thể

chuyển đổi thành cổ phần. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có thể gia tăng
vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau: tăng từ nguồn lợi nhuận ròng, phát
hành thêm cổ phần, góp thêm vốn…
• Hoạt động tạo vốn tiền gửi:
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường tài chính
– ngân hàng, để gia tăng nguồn tiền gửi cả về số lượng và chất lượng buộc ngân hàng
phải đưa ra nhiều hình thức huy động vốn khác nhau.
• Nguồn đi vay và nghiệp vụ nợ :
Trong một số trường hợp cấp bách, ngân hàng thường phải đi vay từ ngân hàng
nhà nước (NHNN). Đây là khoản vay để giải quyết nhu cầu chi trả trong khi ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay dự trữ thanh toán. Bên cạnh đó, các NHTM
còn có thể vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường tiền tệ để bổ sung hoặc thay
thế nguồn vay từ NHNN.
• Nguồn huy động vốn khác:
Ngoài các nguồn vốn đã nêu trên, các NHTM còn có một số nguồn vốn khác
như nguồn uỷ thác gồm uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngân và thu
hộ…theo đó NHTM nhận vốn người uỷ thác sau đó chuyển vốn cho người dân nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Ngoài nguồn uỷ thác, ngân hàng còn có các
nguồn trong thanh toán, nguồn phải trả Nhà nước, các bộ nhân viên…
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn hay còn gọi là nghiệp vụ Tài sản Có, là hoạt động đem
lại phần lớn thu nhập, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Yêu cầu đặt
ra đối với hoạt động sử dụng vốn là phải duy trì một cơ cấu tài sản hợp lí, nhằm đạt
được mức lợi nhuận tối đa mà vẫn đảm bảo tính an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn bao gồm một số hoạt động cơ bản sau:
• Hoạt động ngân quỹ:
Ngân quỹ của một ngân hàng bao gồm tiên mặt tại quỹ và tiền gửi của ngân
hàng tại NHNN và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, các
tổ chức tín dụng khác, một số loại chứng khoán có tính thanh khoản cao như Trái

phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc…cũng được coi là một khoản mục của ngân
quỹ.
• Hoạt động tín dụng:
Tín dụng là hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng tài sản và đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro tín
dụng là rủi ro lớn nhất, phổ biến nhất mà ngân hàng nào cũng phải đối mặt. Thông
thường, các NHTM có tỷ trọng tín dụng ngắn hạn cao hơn so với tín dụng trung-dài
hạn thì rủi ro tín dụng càng thấp do rủi ro tỷ lệ thuận với thời hạn của khoản tín dụng.
Nhìn chung, tỉ lệ giữa tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung-dài hạn phụ thuộc vào kì
hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lí thanh khoản, khả năng dự báo
và dự phòng rủi ro của ngân hàng.
• Hoạt động đầu tư:
Có thể nói hoạt động đầu tư đã và đang đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập
quan trọng thứ hai sau hoạt động tín dụng. Đối tượng đầu tư của ngân hàng có thể là
các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao hoặc là các chứng khoán có kì
hạn dài để hưởng lợi tức cao hơn. Các ngân hàng thực hiện hoạt động này nhằm mục
tiêu đa dạng lợi tức, lợi ích về thuế, mặt khác hỗ trợ cho việc đảm bảo an toàn thanh
khoản.
1.1.4.3 Hoạt động thanh toán và các hoạt động khác.
Cùng với sự phát triển kinh tế, hoạt động trung gian thanh toán của ngân hàng
ngày càng trở nên quan trọng. Với những dịch vụ cung cấp cho khách hàng, ngân
hàng sẽ thu một khoản phí nhưng quan trọng hơn đó là việc tạo điều kiện để thu hút
khách hàng, nhằm cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Một số dịch vụ
thanh toán phổ biến mà các NHTM cung cấp đó là: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
chuyển tiền trong nước và quốc tế, nhờ thu séc, mở hoặc thanh toán L/C,thanh toán
DA, DP
Ngoài ra, các ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác như dịch vụ thẻ (phát
hành thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ nội địa và quốc tế) tư vấn tài chính, bảo hiểm, cho thuê
két sắt, bảo quản tài sản quý, các giấy tờ có giá…
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các NHTM.

1.2.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL)
1.2.1.1 Khái niệm
Thị trường bán lẻ là một cách nhìn hoàn toàn mới về thị trường tài chính, qua
đó phần đông những người lao động nhỏ lẻ sẽ được tiếp cận với các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, tạo ra một thị trường tiềm năng đa dạng và năng động. Hiện nay có
nhiều khái niệm về dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL) theo nhiều cách tiếp cận khác
nhau.
Tiếp cận theo đối tượng khách hàng, dịch vụ NHBL được định nghĩa là
“những hoạt động giao dịch của ngân hàng với khách hàng là cá nhân và các doanh
nghiệp vừa và nhỏ” (Tài liệu hội nghị “Chiến lược phát triển dịch vụ NHBL Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam” – 11/2003). Ngoài ra các chuyên gia của Ngân hàng
Ngoại thương cũng chỉ ra rằng “dịch vụ NHBL là những hoạt động giao dịch trong
phạm vi giá trị từ vài trăm nghìn đến vài chục triệu đồng”.
Tiếp cận theo đặc trưng ở kênh phân phối sản phẩm dịch vụ, thuật ngữ “bán lẻ ”
trong thương mại vốn được hiểu là việc cung cấp các sản phẩm đến tận tay người tiêu
dùng cuối cùng qua các đại lí phân phối. Đối với ngân hàng, thuật ngữ “ngân hàng
bán lẻ” có thể hiểu là: “Việc cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân
riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới các chi nhánh hoặc là
khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thông qua các
phương tiện công nghệ thông tin, điện tử viễn thông” (Học viện công nghệ Châu Á –
AIT).
Theo “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” (David Cox-1997) thì ngân hàng bán lẻ
được hiểu là loại hình ngân hàng “chủ yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh
nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu theo cách phổ biến nhất, dịch vụ ngân hàng bán
lẻ là dịch vụ ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính cho khách hàng là
các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.1.2 Phân biệt dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ ngân hàng bán buôn.
• Khái niệm dịch vụ ngân hàng bán buôn (NHBB)
Về khái niệm dịch vụ ngân hàng bán buôn (NHBB), tùy từng điều kiện phát

triển tài chính quốc gia, người ta có những định nghĩa khác nhau.
Tại Mỹ, dịch vụ NHBB nghĩa là dịch vụ ngân hàng giữa ngân hàng thương mại
(Merchant Bank) và các định chế tài chính. Trong đó, Merchant Bank được định
nghĩa là ngân hàng kinh doanh chủ yếu (nhưng không bị giới hạn bởi) các dịch vụ
như là tài trợ thương mại quốc tế, cho vay dài hạn cho các công ty và bảo lãnh phát
hành. Merchant Bank không cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho công chúng nói
chung.
5

Từ điển Ngân hàng và Tài chính của Anh định nghĩa dịch vụ NHBB là dịch vụ
ngân hàng giữa ngân hàng tài trợ thương mại và các định chế tài chính khác, ngược
lại so với “dịch vụ ngân hàng bán lẻ”...
Tại Việt Nam, trong vốn từ vựng tiếng Việt chỉ có khái niệm bán buôn tức là
bán cho người kinh doanh trung gian, chứ không bán thẳng cho người tiêu dùng, đối
lại với bán lẻ là bán với số lượng ít và bán trực tiếp cho người tiêu dùng.
Sau khi xem xét việc sử dụng khái niệm này tại các nước khác nhau trên thế
giới và việc sử dụng nó trong điều kiện hệ thống ngân hàng Việt Nam, ta có thể đi tới
một khái niệm NHBB sát với cách hiểu thông dụng như sau:
Dịch vụ NHBB là dịch vụ ngân hàng dành cho các định chế tài chính và là
những dịch vụ ngân hàng được cung ứng với số lượng lớn.
Các hoạt động ngân hàng thỏa mãn nội hàm của khái niệm này có thể bao gồm
hoạt động bán buôn tín dụng ODA, những giao dịch lớn trên thị trường liên ngân
hàng, các giao dịch lớn trên thị trường công cụ nợ chính phủ, hoạt động đồng tài trợ
và một số hoạt động khác.
• Phân biệt dịch vụ NHBL và dịch vụ NHBB
Xuất phát từ khái niệm dịch vụ NHBB và dịch vụ NHBL chúng ta có thể phân
biệt hai loại hình dịch vụ trên chủ yếu dựa vào những đặc điểm sau:
Đối tượng khách hàng: Dịch vụ NHBB nhắm đến đối tượng khách hàng là các
tổ chức tài chính khác, các NHTM hoặc các công ty, tổng công ty lớn. Chính vì vậy
5

ThS. Nguyễn Văn Nguyên, 2005
số lượng khách hàng của dịch vụ NHBB thường không đa dạng và không nhiều.
Trong khi dịch vụ NHBL nhắm đến đối tượng phục vụ là các khách hàng cá nhân,
các hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy chủng loại cũng như số lượng
khách hàng của các dịch vụ NHBL là rất nhiều và đa dạng.
Giá trị các giao dịch: Giá trị các giao dịch bán buôn thường lớn trong khi giá trị
các giao dịch bán lẻ thường nhỏ. Mặc dù vậy, các giao dịch bán lẻ vẫn mang lại một
nguồn doanh thu lớn và ổn định cho ngân hàng nhờ vào số lượng các giao dịch
thường nhiều hơn và thương xuyên hơn các giao dịch bán buôn.
1.2.2 Đặc điểm của dịch vụ NHBL.
1.2.2.1 Đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình, các DNVVN
Đặc điểm đầu tiên và cũng dễ nhận biết khi tiếp cận dịch vụ NHBL, đó là đối
tượng của dịch vụ này là khách hàng cá nhân, thể nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN). Nhóm khách hàng này có một đặc điểm dễ nhận thấy nhất là thị trường
không đồng nhất. Sự không đồng nhất được thể hiện trước hết ở chỗ: khách hàng của
dịch vụ NHBL bao gồm cả đối tượng khách hàng cá nhân và khách hàng doanh
nghiệp trong khi đối tượng khách hàng của dịch vụ NHBB chỉ là khách hàng doanh
nghiệp. Thứ hai, các khách hàng của dịch vụ NHBL trong cùng một nhóm cũng
không đồng nhất với nhau. Đối với nhóm khách hàng cá nhân, các cá nhân khác
nhau về mức thu nhập, mức tiêu dùng, vị trí xã hội, lối sống, lứa tuổi, dân tộc, thói
quen, sở thích…sẽ có những phản ứng riêng cũng như nhu cầu riêng với các sản
phẩm trên thị trường nói chung và sản phẩm dịch vụ ngân hàng nói riêng. Đối với
nhóm khách hàng là các thể nhân hoặc các DNVVN khác nhau về lĩnh vực hoạt
động, quy mô doanh nghiệp, địa bàn hoạt động thì nhu cầu đối với các dịch vụ
NHBL cũng rất khác nhau. Chính vì vậy, để có thể thành công trên thị trường này đòi
hỏi các ngân hàng cũng như tất cả các nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ khác trên thị
trường phải có sự phân đoạn thị trường một cách cẩn thận đồng thời phải nhận biết
được một cách sâu sắc quá trình cũng như các yếu tố tác động đến – hành vi mua sản
phẩm của khách hàng.
1.2.2.2 Số lượng nhu cầu lớn nhưng quy mô nhu cầu nhỏ.

Do đối tượng khách hàng của dịch vụ NHBL là cá nhân, hộ gia đình, các
DNVVN nên số lượng khách hàng của loại hình dịch vụ này là rất lớn dẫn đến số
lượng các giao dịch NHBL là rất nhiều và thường xuyên. Tuy vậy, giá trị của mỗi
giao dịch thường nhỏ hơn giá trị các giao dịch NHBB, chỉ tương ứng, phù hợp với
nhu cầu của một cá nhân, một DNVVN.
Chính đặc điểm này mang lại lợi thế cho dịch vụ NHBL so với dịch vụ NHBB.
Sự thường xuyên và ổn định trong các giao dịch bán lẻ góp phần mang lại một nguồn
thu nhập đáng kể và sự tăng trưởng bền vững của ngân hàng. Bên cạnh đó, chính vì
giá trị các giao dịch bán lẻ không quá lớn nên rủi ro chứa đựng trong bản thân các
giao dịch cũng không nhiều, góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
1.2.2.3 Danh mục sản phẩm đa dạng:
Với đặc trưng về nhóm khách hàng của dịch vụ NHBL là nhu cầu đa dạng,
không đồng nhất, phụ thuộc nhiều vào yếu tố giới tính, tuổi tác, văn hóa, địa điểm cư
trú… nên một ngân hàng muốn phát triển được dịch vụ NHBL phải có một danh mục
sản phẩm đa dạng và không ngừng phát triển cải tiến. Cùng là sản phẩm tín dụng
nhưng phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, các hộ gia đình, ngân hàng đưa ra một
danh sách các sản phẩm như: cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô, cho vay mua
sắm…Nhắm đến đối tượng học sinh sinh viên, ngân hàng đưa ra sản phẩm cho vay
du học. Nhắm đến đối tượng các DNVVN ngân hàng đưa ra sản phẩm cho vay phát
triển kinh doanh. Cùng là sản phẩm huy động tiền gửi nhưng với những kỳ hạn khác
nhau, điều kiện rút gốc và lãi khác nhau lại có những sản phẩm khác nhau. Ví dụ: sản
phẩm tiền gửi không kỳ hạn, sản phầm tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng rút lãi cuối kỳ, sản
phẩm tiền gửi kỳ hạn một năm lãi suất đặc biệt. v.v.
1.2.2.4 Mạng lưới chi nhánh, kênh phân phối rộng khắp.
Vì nhóm khách hàng của dịch vụ NHBL là các cá nhân, hộ gia đình, các
DNVVN phân bố rải rác trên một phạm vi rộng lớn (trên cả nước, hoặc ra phạm vi
quốc tế) nên để có thể tiếp cận tới mọi đối tượng khách hàng các ngân hàng phải
không ngừng mở rộng thêm mạng lưới các chi nhánh, các phòng, các điểm giao dịch,
các trạm ATM. Ngân hàng nào có mạng lưới chi nhánh càng nhiều, phân bố càng
rộng thì càng có điều kiện tiếp xúc nhiều với các đối tượng khách hàng, nâng cao

năng lực cạnh tranh so với các ngân hàng khác.
Không chỉ chú trọng phát triển các kênh giao dịch truyền thống, các kênh giao
dịch mới sử dụng công nghệ hiện đại như kênh giao dịch ngân hàng trực tuyến, ngân

×