Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

người giáy ở xã gia hội huyện văn chấn tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.26 KB, 132 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHAM






ĐỒNG THỊ THUỲ TRANG



NGƢỜI GIÁY Ở XÃ GIA HỘI
HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ










Thái Nguyên – Năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHAM




ĐỒNG THỊ THUỲ TRANG




NGƢỜI GIÁY Ở XÃ GIA HỘI
HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Thị Thu Thuỷ






Thái Nguyên – Năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Tiến sĩ
Hà Thị Thu Thuỷ nhiệt tình chỉ bảo, trực tiếp hƣớng dẫn tác giả trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Đồng thời tác giả cũng chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa
Lịch sử trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, Trung tâm học liệu Đại học
Thái Nguyên….đã chỉ bảo tận tình, động viên khích lệ tác giả trong quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin cảm ơn, Thƣ viện tỉnh Yên Bái, Sở văn hoá thông tin
tỉnh Yên Bái; Huyện ủy huyện Văn Chấn; Phòng văn hóa thông tin huyện
Văn Chấn; Ủy ban nhân dân xã Gia Hội (Văn Chấn) và các cá nhân đã nhiệt
tình giúp đỡ tác giả trong quá trình tìm tài liệu luận văn.
Tác giả xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2012
Tác giả



Đồng Thị Thuỳ Trang


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả



Đồng Thị Thuỳ Trang



















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 7
1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Gia Hội huyện Văn
Chấn tỉnh Yên Bái 7
1.2. Nguồn gốc ngƣời Giáy xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái 10
Chƣơng 2. ĐẶC TRƢNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA
NGƢỜI GIÁY XÃ GIA HỘI HUYỆN VĂN CHẤN 19
TỈNH YÊN BÁI 19
2.1. Các loại hình kinh tế 19
2.1.1. Nông nghiệp 19
2.1.2. Chăn nuôi 40
2.2. Kinh tế khai thác tự nhiên 44
2.2.1. Hái lƣợm 44
2.2.2. Săn bắt 46
2.3. Nghề phụ gia đình 50
2.3.1. Nghề rèn 50
2.3.2. Nghề đan lát 52
Chƣơng 3. ĐẶC TRƢNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI GIÁY XÃ GIA
HỘI HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI 55

3.1. Tín ngƣỡng tôn giáo 55
3.1.1. Các quan niệm trong đời sống tâm linh 55
3.1.2. Thờ cúng gia tiên 58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
3.2. Phong tục tập quán 60
3.2.1. Làm nhà 60
3.2.2. Cƣới hỏi 64
3.2.3. Sinh đẻ 68
3.2.4. Tang ma 75
3.3. Lễ hội, trò chơi dân gian 83
3.3.1. Lễ tết 83
3.3.2. Lễ hội 86
3.3.3. Trò chơi dân gian 89
3.4. Nghệ thuật ngôn từ 91
3.4.1. Dân ca dân tộc Giáy 91
3.4.2. Văn học dân gian Giáy 96
3.5. Y học dân gian 98
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Nƣớc Việt Nam là một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc, với 54
dân tộc anh em cùng sinh sống và tồn tại trên dải đất cong cong hình chữ S.
Cùng với hàng nghìn năm văn hiến hào hùng đã hun đúc nên những giá trị
văn hóa vĩnh hằng. Mỗi dân tộc với những đặc trƣng riêng đã góp phần tạo
nên một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngay từ buổi đầu hình thành và phát triển, văn hóa là một nhu cầu
không thể thiếu đƣợc của xã hội loài ngƣời. Xã hội ngày càng phát triển thì
văn hóa của con ngƣời ngày càng phong phú đa dạng. Trong mối quan hệ với
đời sống xã hội, văn hóa có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Nó là yếu tố
quyết định trong giáo dục nhân cách, bồi dƣỡng đạo đức, phẩm chất năng lực
thẩm mĩ và thoả mãn nhu cầu tình cảm của nhân dân. Trong đó văn hóa
truyền thống của dân tộc là vô cùng quan trọng, góp phần tạo nên những giá
trị đạo đức, tinh thần của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Giang sơn và chính phủ ta là giang
sơn và chính phủ chung của chúng ta, vậy nên tất cả các dân tộc phải đoàn
kết chặt chẽ để giữ gìn nước non, ủng hộ chính phủ ta. Sông có thể cạn, núi
có thể mòn xong lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”. Nhận
định này cho thấy, vấn đề đoàn kết dân tộc là hết sức quan trọng đối với mỗi
đất nƣớc. Hiện nay, đất nƣớc ta đang trên con đƣờng đổi mới, vấn đề văn hóa
dân tộc đƣợc Đảng và Nhà nƣớc coi là nền tảng tinh thần, là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ cùng với đó là sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông
dẫn đến nguy cơ đồng hóa nền văn hóa. Sự khẳng định bản sắc văn hóa dân
tộc cần thiết cho sự nghiệp phát triển dân tộc của mỗi quốc gia.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Yên Bái là tỉnh có đông dân tộc sinh sống. Trong hơn 30 dân tộc trong

tỉnh thì ngƣời Giáy là tộc ngƣời có số lƣợng khá ít, khảo sát thực tế cho thấy,
hiện chỉ có khoảng 2.200 ngƣời, chiếm 0,3% dân số toàn tỉnh. Ngƣời Giáy ở
Yên Bái sinh sống tập trung đông nhất tại xã Gia Hội (huyện Văn Chấn),
chiếm hơn 80% tổng số ngƣời Giáy toàn tỉnh. Đồng bào sống tập trung tại 6
thôn bản là: Chiềng Pằn A, Chiềng Pằn B, Nang Vai, Van Nọi, Nà Kè, Bản
Đồn. Tuy chỉ chiếm một số lƣợng ít, nhƣng ngƣời Giáy ở Yên Bái lại mang
trong mình những nét đặc trƣng riêng biệt. Góp phần làm phong phú thêm
bản sắc văn hóa của toàn tỉnh cũng nhƣ văn hóa chung của cả nƣớc.
Để góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình tìm hiểu những đặc trƣng
tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn:
“Người Giáy ở xã Gia Hội huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái” làm đề tài luận
văn thạc sĩ. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là các đặc trƣng về kinh tế và văn
hóa của ngƣời Giáy ở Gia Hội, nhằm mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị
lịch sử - văn hóa của một tộc ngƣời thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở xã
Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về dân tộc Giáy nói chung là một vấn đề không mới, đã
đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Có thể kể đến các
công trình sau:
- Cuốn “Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam” của Ban dân tộc Tây Bắc
(1975) và cuốn “Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” (1978) của nhà xuất bản
Khoa học xã hội có đề cập đến những đặc trƣng cụ thể của một số dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra đƣợc một số đặc trƣng có
bản của ngƣời Giáy và mối tƣơng quan giữa ngƣời Giáy với các dân tộc thiểu
số khác trong cả nƣớc.
- Cuốn “Văn hóa dân gian Yên Bái” của Sở văn hóa thông tin tỉnh
Yên Bái, xuất bản năm 1990. Đây là một cuốn sách viết về các hình thức văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
hóa dân gian của các tộc ngƣời thiểu số ở Yên Bái. Trong đó, hát “vươn
Giáy” đƣợc coi là một trong những đặc trƣng tiểu biểu nhất còn tồn tại của
ngƣời Giáy nơi đây.
- Cuốn “Truyện cổ tích dân tộc Giáy”, của tác giả Lò Dín Siềng xuất
bản năm 1995, có đề cập tới một số truyển cổ tích tiểu biểu của dân tộc Giáy
nhƣ: “Pảu loọc toó” (Ông khổng lồ), “Lục trá”, “E toi”
- Cuốn “Một số nét đặc trưng các dân tộc tỉnh Yên Bái” của Ban dân
vận và dân tộc tỉnh Yên Bái xuất bản năm 2000. Đây là cuốn sách đầu tiên
của Yên Bái tổng hợp đƣợc những đặc trƣng của hơn 30 dân tộc anh em đang
sinh sống trong tỉnh. Trong đó, ngƣời Giáy là một tộc ngƣời có khá ít (hơn
2000 ngƣời), tuy sống xem kẽ với các dân tộc khác nhƣng họ vẫn giữ đƣợc
những nét văn hóa riêng của mình.
- Cuốn “Dân ca trong đám cưới và trong tiệc rượu người Giáy” (2001)
và “Phong tục tập quán của dân tộc Giáy ở Lao Cai” (2004) của tác giả Sần
Cháng. Sần Cháng đƣợc xem là một trong những nhà sử học ngiên cứu nhiều
nhất về ngƣời Giáy. Trong hai tác phẩm kể trên, ông tập chung đi sâu nghiên
cứu và tìm hiểu những nét đặc trƣng tiểu biểu của ngƣời Giáy ở một địa
phƣơng cụ thể là Lao Cai. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đặt chúng trong mối
tƣơng quan với ngƣời Giáy ở các địa phƣơng khác.
- Cuốn “Địa danh Yên Bái sơ khảo” xuất bản năm 2002 của tác giả
Hoàng Việt Quân. Ở trong tác phẩm này tác giả đã tiếp cận một cách sơ khảo
về tên gọi của địa danh trên toàn địa bàn tỉnh Yên Bái.
- Cuốn “Văn hóa dân tộc Giáy” của tác giả Đỗ Đức Lợi, xuất bản năm
2008. Trong tác phẩm này tác giả đã đƣa ra một số đặc điểm về văn hóa vật
thể và phi vật thể của dân tộc Giáy ở Việt Nam nói chung cũng nhƣ một số
địa phƣơng nói riêng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đếu quan tâm đến đời sống
kinh tế cũng nhƣ văn hóa của dân tộc Giáy trên phƣơng diện rộng (phạm vi cả


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
nƣớc) và phƣơng diện hẹp (phạm vi một tỉnh). Qua đó có thể thấy, đây là vấn
đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong việc lƣu giữ văn hóa
truyền thống dân tộc. Các công trình nghiên cứu trên là tài liệu quý giá để
chúng tôi tham khảo và hoàn thành đề tài này.
3. Mục đích, đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu về đặc trƣng kinh tế và văn hóa của ngƣời Giáy ở xã Gia Hội,
huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái nhằm góp phần tái hiện lịch sử hình thành và
phát triển của một tộc ngƣời ở một địa phƣơng cụ thể.
Làm phong phú thêm những hiểu biết khoa học về đặc trƣng kinh tế
cũng nhƣ bản sắc văn hóa dân tộc Giáy trong sự giao thoa với các dân tộc
khác ở địa phƣơng.
3.2. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu về một số đặc trƣng về kinh tế và văn hóa
của ngƣời Giáy ở xã Gia Hội huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái. Đặc trƣng về
kinh tế bao gồm: kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác tự nhiên và một số nghề
phụ trong gia đình. Đặc trƣng văn hóa bao gồm: tín ngƣỡng tôn giáo, phong
tục tập quán, lễ hội, trò chơi dân gian, văn hóa ẩm thực, nghệ thuật ngôn từ và
y học dân gian.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu những đặc trƣng về kinh tế và văn
hóa của tộc ngƣời Giáy xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái từ năm
1945 đến nay.
Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu nguồn gốc ra đời và phát triển
của dân tộc Giáy trên địa giới xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
ngày nay. Trong đó chủ yếu là 6 thôn bản là: Chiềng Pằn A, Chiềng Pằn B,
Nang Vai, Van Nọi, Nà Kè, Bản Đồn.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
3.4. Nhiệm vụ
- Khái quát về xã Gia Hội, huyện Văn Chấn: Vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, dân cƣ và các thành phần dân tộc…
- Làm rõ nguồn gốc tộc ngƣời Giáy ở xã Gia Hội.
- Những đặc trƣng về kinh tế và đặc trƣng văn hóa của dân tộc Giáy xã
Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
4. Nguồn tƣ liệu
- Nguồn tƣ liệu thành văn
+ Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu lí luận về văn hóa dân tộc:
Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ƣơng Đảng lần thứ 5 (khóa VIII); Chính
sách pháp luật của Đảng, nhà nƣớc về vấn đề dân tộc do nhà xuất bản Văn
hóa dân tộc xuất bản; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng
sản Việt Nam do Ban tƣ tƣởng văn hóa trung ƣơng xuất bản…
+ Các tác phẩm thông sử, chuyên khảo và bài viết đề cập đến lịch sử,
kinh tế văn hóa ngƣời Giáy của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
+ Nguồn tƣ liệu địa phƣơng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái, địa lý xã
Gia Hội…
- Nguồn tƣ liệu thực địa, điền dã: Đây là nguồn tƣ liệu đƣợc chúng tôi
đặc biệt quan tâm. Bao gồm các tài liệu truyền miệng, truyện kể, truyền thuyết,
ca dao tục ngữ, những phong tục tập quán và cả những kinh nghiệm trong cuộc
sống, trong lao động sản xuất của đồng bào Giáy ở Gia Hội. Đó là những
nguồn tƣ liệu cần thiết và quý báu để chúng tôi hoàn thành luận văn này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp
với phƣơng pháp logic, phƣơng pháp khảo sát điền dã, miêu thuật, phân tích tổng
hợp và một số phƣơng pháp khác có liên quan đến đề tài. Đặc biệt là khâu giám

định tƣ liệu, xử lý các tài liệu điền dã đã thu đƣợc trên cơ sở tiếp cận địa lý lịch sử
để đảm bảo tính chính xác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu đề tài này, chúng tôi đã đặt trong mối
quan hệ với các dân tộc khác trong cộng đồng dân cƣ địa phƣơng để rút ra đƣợc cái
nhìn tổng thể, toàn diện về đặc điểm “đa dạng trong thống nhất” của văn hóa
truyền thống ngƣời Giáy ở Gia Hội.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về
đặc trƣng kinh tế và văn hóa của ngƣời Giáy ở xã Gia Hội, huyện Văn Chấn,
tỉnh Yên Bái. Qua đó, có thể thấy đƣợc nét tƣơng đồng và khác biệt trong kinh
tế và văn hóa của ngƣời Giáy ở Gia Hội với các tộc ngƣời khác ở địa phƣơng.
Thông qua đề tài này chúng tôi muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé
trong công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của
ngƣời Giáy ở xã Gia Hội. Đồng thời làm phong phú hơn nguồn tƣ liệu phục
vụ cho công tác nghiên cứu dân tộc và giảng dạy lịch sử văn hóa dân tộc thiểu
số ở địa phƣơng.
7. Cấu trúc của đề tài
Luận văn bao gồm 131 trang, ngoài phần mở đầu (6 trang), mục lục (2
trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (5 trang), phụ lục (16 trang), phần
nội dung (92 trang) đƣợc chia thành ba chƣơng:
Chƣơng 1 : Tổng quan địa bàn nghiên cứu (12 trang)
Chƣơng 2: Đặc trƣng trong hoạt động kinh tế của ngƣời Giáy xã Gia
Hội huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái (34 trang)
Chƣơng 3: Đặc trƣng văn hóa của ngƣời Giáy xã Gia Hội huyện Văn
Chấn tỉnh Yên Bái (46 trang)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

Chƣơng 1
TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Gia Hội huyện
Văn Chấn tỉnh Yên Bái
Là xã thuộc vùng cao của huyện Văn Chấn, Gia Hội nằm ở phía Tây
Bắc của huyện, cách trung tâm huyện lỵ Văn Chấn khoảng 35 km. Gia Hội có
vị trí địa lý khá thuận lợi trong việc giao lƣu và phát triển kinh tế. Phía Bắc
của xã giáp với huyện Văn Yên; phía Đông giáp với xã Nậm Mƣời; phía Tây
giáp với xã Nậm Búng; phía Nam giáp với xã Nậm Lành. Đây chính là cơ sở
cho nhân dân trong xã có điều kiện giao lƣu với huyện khác (huyện Văn Yên)
trong tỉnh, cũng nhƣ giao lƣu với các xã khác để phát triển kinh tế thôn, bản.
Địa hình của Gia Hội tƣơng đối phức tạp, đƣợc chia làm hai loại địa
hình cơ bản: Vùng đồi núi đƣợc bao bọc bởi các dãy núi cao và có hình vòng
cung, có độ cao giảm dần, chạy theo hƣớng từ Đông sang Tây; vùng đồng
bằng, địa hình tƣơng đối bằng phẳng, có độ cao biến thiên từ 410 - 600m. Đây
là khu vực canh tác và phân bố dân cƣ trong toàn xã. Nhìn từ trên cao, Gia
Hội nhƣ một thung lũng lòng chảo.
Gia Hội là xã nằm trong vùng tiểu khí hậu của huyện Văn Chấn, nhiệt
độ trung bình từ 20 - 30 độ C. Với một mùa hè nắng, nóng và một mùa đông
rét đậm, rét hại, nhiệt độ có lúc xuống tới 2 - 3 độ C. Lƣợng mƣa đƣợc phân
hóa theo hai mùa rõ rệt: từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 4 năm sau là mùa ít
mƣa; từ tháng 4 đến tháng 10 năm sau là mùa mƣa nhiều. Lƣợng mƣa trung
bình hàng năm từ 1200-1600mm. Độ ẩm bình quân từ 83-87%, thấp nhất là
50%, lƣợng bốc hơi trung bình từ 770-780 mm/năm. Thời gian chiếu sáng
nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 9, ít nhất từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 3

năm sau. Tổng số giờ nắng trong năm từ 1360-1730 giờ, lƣợng bức xạ thực tế
đến mặt đất bình quân cả năm đạt 45%. Kiểu khí hậu này rất thuận lợi cho cây
cối sinh trƣởng và phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Do xã có đặc điểm địa hình lòng máng theo hƣớng Đông Nam - Tây
Bắc nên hƣớng gió chủ yếu thổi theo độ mở của thung lũng. Gió khô và nóng
thƣờng xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm (tập trung nhiều nhất vào
tháng 5 đến tháng 7), ngày gió nóng nhiệt độ lên tới 35-38 độ C, bình quân
mỗi năm có 20 ngày nóng gió. Sƣơng muối thƣờng xuất hiện từ tháng 12 đến
tháng 2 năm sau, mỗi ngày kéo dài từ 1 đến 2 giờ.
Gia Hội là một xã nhỏ của huyện Văn Chấn, có tổng diện tích đất tự
nhiên là 3804,51ha. Tuy địa hình của xã khá dốc nhƣng đất đai ở Gia Hội
tƣơng đối màu mỡ, thuân lợi cho phát triển nông nghiệp trồng trọt. Đất đai ở
đây đƣợc phân thành hai nhóm sau: Đất Feralit đỏ vàng là nhóm đất chiếm
phần lớn diện tích ở Gia Hội. Đặc điểm của loại đất này là hàm lƣợng mùn và
đạm thấp, có tính chua nhẹ, thích hợp với phát triển cây công nghiệp, cây ăn
quả và trồng rừng. Thứ hai là, nhóm đất dốc tụm, phân bố rải rác ở các thung
lũng, sông suối, thành phần cơ giới thô, lẫn sỏi đá, nghèo mùn, lƣợng đạm ở
mức trung bình. Nhóm đất này có khả năng cải tạo thâm canh cây lƣơng thực,
cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày.
Với hệ thống sông, suối dày đặc, là điều kiện để Gia Hội có một nguồn
nƣớc mặt dồi dào. Nƣớc từ suối Nậm Min, suối Xìn Châu, suối Lụng
Khƣơng, suối Nậm Hàm, suối Huổi Mƣời và các nhánh suối nhỏ đƣợc dùng
để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nƣớc dùng cho sinh hoạt của ngƣời dân ở
đây chủ yếu đƣợc cung cấp thông qua hệ thống các mỏ nƣớc lấy từ các khe
suối nhỏ rất ngọt và trong.
Tuy là một xã nhỏ nhƣng Gia Hội lại có nguồn tài nguyên khoáng sản

khá dồi dào. Tiêu biểu là mỏ Sunfat và mỏ than ở Nà Cại thôn Nang Vai.
Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có mỏ đã vôi ở thôn Chiềng Pằn.
Địa hình và thổ nhƣỡng của Gia Hội rất thích hợp với phát triển lâm
nghiệp. Toàn xã hiện nay có 2449,86 ha đất lâm nghiệp, chiếm 64,56% tổng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
diện tích tự nhiên. Trong đó, đất rừng sản xuất là 1856,45 ha, đất rừng phòng
hộ 593,41ha. Đây là một thế mạnh của địa phƣơng. Tuy nhiên, do rừng tập
trung chủ yếu ở những khu vực có địa hình cao và hiểm trở. Cho nên việc bảo
vệ, khoanh nuôi rừng tái sinh của bà con nơi đây còn gặp nhiều khó khăn.
Trong những năm gần đây, dựa vào tình hình thực tế của địa phƣơng,
xác định việc sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp với chăn nuôi là hƣớng đi
chủ yếu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phƣơng. Xã đã tuyên truyền
vận động nhân đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, đƣa các giống lúa mới có năng
suất, chất lƣợng cao vào gieo trồng, từng bƣớc tạo ra những sản phẩm hàng
hoá, nâng bình quân lƣơng thực đầu ngƣời lên 441 kg/ngƣời/năm. Việc phát
triển cây màu vụ 3 đã đƣợc bà con quan tâm chú trọng. Đặc biệt là việc trồng
rừng và phát triển cây chè đƣợc Đảng ủy xã ƣu tiên đầu tƣ. Hiện nay, toàn xã
có trên 147 ha chè, trong đó có 103 ha chè kinh doanh, năng suất bình quân
đạt 75 tạ/ha, sản lƣợng năm 2010 đạt 786 tấn. Công tác quản lý bảo vệ rừng
của xã đã đƣợc triển khai tốt, hiện có trên 1.928 ha rừng đã đƣợc ngƣời dân
nhận khoán, khoanh nuôi bảo vệ nên không để xảy ra cháy rừng. Đặc biệt
trong cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2010 thực hiện chủ trƣơng của tỉnh và
huyện về phát triển diện tích cây cao su, nhân dân Gia Hội đã tích cực trồng
36 ha theo đúng quy trình hƣớng dẫn.
Xã Gia Hội có 8 thôn, bản với 1.152 hộ, 5.557 nhân khẩu, gồm 6 dân
tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, dân tộc Thái chiếm trên 50%, còn lại
là các dân tộc Kinh, Tày, Mƣờng, Dao, Giáy. Cuộc sống của ngƣời dân nơi

đây chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm, nghiệp và chăn nuôi. Hình thái kinh tế
thị trƣờng chƣa phát triển ở Gia Hội. Mặc dù có nhiều cố gắng nhƣng Gia Hội
vẫn chƣa xoá đƣợc tên khỏi danh sách những xã nghèo của huyện Văn Chấn.
Gia Hội là xã tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc
với những phong tục tập quán riêng đã góp phần hình thành nên một Gia Hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
giàu bản sắc. Tuy nhiên, việc tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống cũng
chính là hạn chế lớn của xã. Trong đời sống sinh hoạt của các dân tộc trong
vùng, nhiều phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại làm kìm hãm sự phát
triển chung của xã.
Hiện nay, bằng những nỗ lực của Đảng ủy và chính quyền địa phƣơng,
Gia Hội đang ngày một khởi sắc. Một số những hủ tục lạc hậu đã đƣợc đẩy lùi
nhƣ: tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; công tác y tế giáo dục
đƣợc chăm lo thƣờng xuyên; các chính sách về an sinh xã hội, xoá đói giảm
nghèo đƣợc triển khai kịp thời, đúng đối tƣợng an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội đƣợc ổn định và giữ vững. Không những thế chính quyền địa
phƣơng còn quan tâm phát triển kinh tế chung của toàn xã, từng bƣớc khắc
phục tình trạng “xóa đói giảm nghèo” trong nhân dân.
1.2. Nguồn gốc ngƣời Giáy xã Gia Hội huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái
Dân tộc Giáy là một trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Hầu hết
ngƣời Giáy không cƣ trú thành làng, bản riêng mà sống xen kẽ với các dân
tộc khác. Theo thống kê dân số năm 2009, dân tộc Giáy ở Việt Nam có
khoảng 49.089 ngƣời, cƣ trú tập trung tại các tỉnh: Lao Cai, Lai Châu, Hà
Giang và Yên Bái. Tỷ lệ dân số ngƣời Giáy các tỉnh nhƣ sau:
Tên tỉnh
Dân số (ngƣời)
Tỉ lệ % trong tỉnh

Lào Cai
24.672
4,5
Hà Giang
13.068
2,2
Lai Châu
9.018
1,5
Yên Bái
1.869
0,3

Tỉnh Lao Cai, ngƣời Giáy sống tập trung tại các huyện Bát Xát, Mƣờng
Khƣơng, Bảo Thắng, Sa Pa, Bắc Hà. Ở Hà Giang, ngƣời Giáy sống ở các
huyện Hoàng Su Phì, Yên Minh, Đồng Văn. Tại tỉnh Lai Châu, đồng bào
sống ở huyện Phong Thổ, xã Bình Lƣ huyện Tam Đƣờng. Ngƣời Giáy sống ở
các huyện Văn Chấn và Văn Yên tỉnh Yên Bái. [33, tr.5]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Ngƣời Giáy tự gọi là “Pú Giáy” hoặc là “Hún Giáy”, hai cách gọi này
đều cùng nghĩa. Từ “Pú” và từ “Hún” có nghĩa là “người” nhƣng cũng mang
nghĩa của mạo từ chỉ định và cũng có ý nghĩa về đơn vị. Ví dụ : “ Pú đeo” hoặc
“Hứn đeo” (một ngƣời) hoặc là “há pú”. “Hú hún”(năm ngƣời) hay “Pú Táy”,
“Hún Táy”(ngƣời Tày); “Pú Miều”, “Hún Miều”(ngƣời Mèo)…
Còn từ “Giáy” không có nghĩa cụ thể. Ngƣời Giáy cũng nhƣ phần lớn
các dân tộc Việt Nam, trong cuộc sống hàng ngày của mình cũng là một dân
tộc “biết ăn, biết để”, không có tiếng là dân tộc sống “hoang phí” hay “keo

kiệt, bủn xỉn”. Phong cách sống đó còn xuất phát từ ý nghĩa sâu xa của nó là
ngƣời Giáy không có “vua”, không “tổ quốc” riêng của mình. Vì thế có tộc
ngƣời gọi ngƣời Giáy là “Xúa cắng kế” (Giáy vệ đƣờng) hay “Dẳng bó mý
nướng” (Dẳng (Nhắng, Giáy) không có mƣờng); và trong cuộc sống thực tế,
ngƣời Giáy thƣờng sống chung một vùng với các dân tộc khác, không có
vùng nào chỉ có riêng ngƣời Giáy cƣ trú. Từ thực tế cuộc sống nhƣ vậy đã dạy
ngƣời Giáy về cách sống là biết tự lo cho cuộc sống của mình [14,tr.8].
Xuất phát từ đặc điểm sinh thái còn xuất hiện một số nhóm ngƣời Giáy
với những tên gọi khác nhau nhƣ: Giáy Lá Tà, để chỉ ngƣời Giáy sống ở ven
sông, ven suối lớn; Giáy Nắm hay còn gọi là “Pú Nắm”, cƣ trú ở một số nơi
thuộc tỉnh Lao Cai và huyện Hoàng Su Phì thuộc Hà Giang; Giáy Pù Nà, là
nhóm ngƣời Giáy cƣ trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và các điểm tụ cƣ đông nhất
thuộc ba xã: San Thàng, Bản Giang và Then Sin thuộc huyện Phong Thổ -
một huyện rẻo cao phía Tây Bắc của nƣớc ta. Tộc Pu Nà còn tự gọi là Quỳ
Chu - một tên địa danh ở Hoa Nam (Trung Quốc) - tức Quý Châu, nơi trƣớc
kia tổ tiên họ từng cƣ trú về sau di cƣ xuống phía Nam, rồi đến Phong Thổ,
Lai Châu. [33, tr.11]
Trong cuốn “Văn hoá dân tộc Giáy” tác giả Đỗ Đức Lợi cũng đề cập
tới cách gọi tên tộc ngƣời Giáy của một số dân tộc khác. Ngƣời Thái ở Tây
Bắc gọi ngƣời Giáy là “Giẳng”. Tên này đã xuất hiện trong sách cổ Thái vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
thế kỉ XVIII. Ngƣời Lào gọi ngƣời Giáy là “Ngang” (Vào những năm 70 của
thế kỉ trƣớc, có ngƣời nói Nhắng là biến âm từ tên gọi “Ngang” của tộc Lào
hoặc đọc lệch từ âm gọi “Nắm” mà ra. Hoàn toàn không có yếu tố miệt thị).
Ngƣời Việt (Kinh) ở miền núi Bắc Bộ gọi ngƣời Giáy là “Nhắng”. Ngƣời
Mông, ngƣời Dao cũng nhƣ ngƣời Hoa (Hán) gọi ngƣời Giáy là “Sa Rén”
(ngƣời Sa) hoặc “Sa rú” (tộc Sa).

Trong lịch sử, tộc Giáy có tên gọi là “Pầu Thỉn”, “Chủng chá” bao
gồm có các tộc ngƣời Giáy, Bố Y và Tu Dí ở Mƣờng Khƣơng (Lào Cai).
Ở Việt Nam, ngƣời Giáy có quan hệ nhiều mặt với các tộc ngƣời Tày,
Nùng, Thái. “Hiện tượng sống hòa vào nhau đang diễn ra ở nhiều địa
phương: ở các huyện Bảo Thắng, Bắc Hà, Bát Xát, Bảo Lạc, Yên Minh, dân
tộc Giáy với các dân tộc Tày; ở các huyện Bảo Yên, Mường Khương, dân tộc
Giáy với dân tộc Nùng; ở các huyện Mường Tè, Phong Thổ, dân tộc Giáy với
dân tộc Thái. Ở những nơi đó, đồng bào Giáy, hoặc giữ được tập quán sinh
hoạt dân tộc, nhưng sử dụng ngôn ngữ dân tộc khác, hoặc giữ được ngôn ngữ
dân tộc Giáy nhưng tiếp thu tập quán sinh hoạt của dân tộc khác. Ở Bản
Giắng (Mường Tè), Nặm Cáy, Tả Chải (Bắc Hà) người Giáy chỉ giữ lại được
cách cúng tổ tiên để nhận ra dân tộc Giáy. Còn ở Bản Lầu (Mường Khương),
Phong Niên (Bảo Thắng) người ta khó phân biệt ngôn ngữ sinh hoạt của hai
dân tộc Giáy và Nùng. Sự giống nhau này không phải là quá trình giao lưu
văn hóa mà là quá trình thống nhất của các nhóm người vốn chung ngồn gốc
lịch sử, ngôn ngữ và những điểm văn hóa khác” [33, tr.13]
Ngƣời Giáy ở Việt Nam là một tộc ngƣời riêng biệt, là một thành
phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, còn ở Trung Quốc ngƣời Giáy
có tên gọi là Sa. Hiện nay, có rất nhiều tài liệu nói về sự ra đời của ngƣời
Giáy ở Việt Nam.“ Sử Thái Tây Bắc còn chép vào thế kỉ XVII-XVIII, họ tràn
sang Tây Bắc đánh chiếm miền Nghĩa Lộ. Một bộ phận sang chiếm miền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Thượng Lào. Người Thái gọi là người Giẳng. Đến đầu thế kỉ XIX, bộ phận ở
Nghĩa Lộ bị người Thái đẩy lùi về miền Yên Bái và Lào Cai và cư trú ở đó cho
đến nay. Một số ít ở lại miền Tú Lệ lâu ngày hòa hợp với dân tộc Thái”. [60]
Theo tƣ liệu dân tộc học điền dã của một số học giả Việt Nam đƣợc
triển khai vào những năm 60 của thế kỉ trƣớc cho biết: “Người Giáy có mặt ở

nước ta trên dưới 200 năm, tức khoàng 10 đời” [58].
Ngƣời Giáy vào nƣớc ta không thành những cuộc di cƣ có quy mô lớn,
không có tổ chức vũ trang tự vệ nhƣ ngƣời Thái Đen mà theo từng nhóm gia
đình, qua nhiều đợt sớm muộn khác nhau, từ những địa bàn khác nhau của
Trung Quốc sang. Theo các cụ ngƣời Giáy ở Lao Cai, quê hƣơng xa xƣa của
ngƣời Giáy từ Vân Nam, Quý Châu, Quảng Xuyên, Quảng Nam (Trung
Quốc), đặc biệt là Quý Châu và hai nơi tiếng Giáy gọi là “Ty Ngần” và “Ty
Hừ”. Trƣớc có ông Hà Lù, là ngƣời chăn vịt, đuổi vịt sang chợ Châu (bản
Lầu) bán. Ông thấy ở đây ruộng đất bỏ hoang nhiều, dễ khai phá, đã về nói
với bà con: “Đất nước Nam tốt, khai phá bao nhiêu cũng được, không có
cấm. Bông lúa dài hơn một gang, quả bông to bằng cái chén, phơi nổ ran như
pháo tết, một cây chàm nặng ba yến; bắp ngô to bằng bắp chân” [23]. Sau
đó, ba mƣơi gia đình đã theo ông sang Việt Nam. Tới Lùng Tiến, Chợ Châu
(Bản Lầu) đã thấy ở đó đã rải rác có ngƣời Hoa Kiều, ngƣời Tày sinh sống.
Họ ở đây đƣợc ba vụ thì về rủ thêm sáu mƣơi bảy gia đình nữa… Sau đó, có
một số gia đình khác tiếp tục di cƣ sang Việt Nam. Dần họ di cƣ xuống lập
bản ở các vùng xa biên giới hơn. Ở Lào Cai, có những bản tụ cƣ là ngƣời
Giáy, có khu ruộng đồng lớn do đồng bào tự khai phá từ lâu, là những bồn địa
mà ngƣời Giáy tụ cƣ lâu đời. Điều này cũng chứng tỏ ngƣời Giáy đã có mặt
sớm tại các khu vực này.[33, tr.15]
Cũng trong tác phẩm “ Văn hoá dân tộc Giáy của tác giả Đỗ Đức Lợi”
có đề cập đến nhóm địa phƣơng của ngƣời Giáy mang tên gọi là Pu Nà chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
yếu cƣ trú ở 3 xã: Sam Thàng, Bản Giang, Thèn Xin thuộc huyện Phong Thổ
(Lai Châu). Đồng bào tự gọi là Quỳ Chu (Quý Châu) - lãnh thổ ban đầu trƣớc
khi di cƣ từ đó sang Phong Thổ. Thời gian có mặt tại đây cách ngày nay
khoảng hơn một trăm năm. Một bằng chứng cho ta biết là trong vài chục năm

về trƣớc họ sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Quan Hóa - một
ngôn ngữ trƣớc khi sang Việt Nam, là phƣơng tiện dùng để giao tiếp với tộc
ngƣời khác sinh sống ở Nam Trung Quốc.
Bộ phận ngƣời Giáy ở Hà Giang, đại bộ phận là từ Vân Nam, cụ thể là
từ huyện Ma Ly Phố (Vân Nam) sang, đây là huyện giáp với Hà Giang. Thời
gian có thể nửa sau thế kỉ XIX. Ngƣời Giáy tới đây cƣ trú xen kẽ trong các
làng bản của ngƣời Tày, Nùng, Lô Lô…
Nguyên nhân di cƣ sang Việt Nam của họ chủ yếu là nguyên nhân kinh
tế, vì bên kia biên giới mật độ dân số tăng trƣởng cao, thiếu đất để khai phá
thành đất trồng trọt, phải tìm kiếm đất làm ăn mới và hơn nữa ngƣời dân bị
giai cấp phong kiến bóc lột nặng nề.
Trải qua một quá trình sinh sống và tồn tại lâu dài trên đất nƣớc ta,
ngƣời Giáy đã hình thành những bản sắc riêng biệt, tiêu biểu cho một tộc
ngƣời. Ngƣời Giáy là cƣ dân lúa nƣớc. Tất cả các ngày tết, lễ hội trong năm
đều theo mùa vụ của lúa nƣớc. Nơi sinh sống của họ thƣờng là vùng bằng
phẳng, có sông suối hoặc một thung lũng nào đó có thể trồng lúa nƣớc đƣợc.
Là cƣ dân lúa nƣớc cho nên việc di chuyển nơi cƣ trú là một điều ít xảy
ra đối với ngƣời Giáy. Vì một lí do nào đó phải di chuyển là rất khó khăn và
cũng vẫn phải có đất làm ruộng cấy lúa. Do đó, quan niệm của ngƣời Giáy về
chỗ ở là phải lâu dài và ổn định. Để đảm bảo đƣợc điều đó thì trƣớc hết là có
đất để trồng cấy và nƣớc phuc vụ cho tƣới tiêu, phục vụ cho sinh hoạt của con
ngƣời, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra, ngƣời Giáy rất sợ mang tiếng
“téo pướng” (bỏ quê). Vì thế đã ở đâu là ở ổn định, lâu dài. Do đó, ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Giáy rất ít di cƣ. Đó vừa là quan niệm nhƣng thực chất là tiêu chí về nơi ở của
họ. Điều không kém phần quan trọng mà ngƣời Giáy lựa chọn là vị trí địa lý
để lập làng. Họ chọn làng ở những nơi có đằng trƣớc thoáng, có thể có sông ,

suối. Đằng sau có thế tựa. Về hƣớng nhà, ngƣời Giáy rất kiêng hƣớng nhà có
núi chắn đằng trƣớc. Theo quan niệm của họ, chọn đƣợc vị trí lập làng tốt sẽ
giúp cho dân bản đƣợc bình yên, no ấm.
Do số lƣợng ít, lại di cƣ đến Việt Nam khá muộn nên hiện tƣợng sống
xen kẽ với các dân tộc khác là khá phổ biến trong các làng, bản của ngƣời
Giáy. Xu thế này ngày càng tăng lên nhất là từ khi có cuộc vận động đồng bào
miền xuôi lên phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi. Từ đó dẫn tới một vấn đề
xã hội mà trƣớc đây làng Giáy rất ít có, đó là sự kết hôn giữa thanh niên nam
nữ ngƣời Giáy với thanh niên nam nữ các dân tộc khác. Tạo nên sự giao thoa,
pha trộn khá lớn trong cộng đồng các dân tộc ở từng địa phƣơng. Tuy nhiên,
để chống trả lại sự giao thoa đó, ngƣời Giáy vẫn giữ đƣợc nền văn hóa riêng
của mình. Ngƣời Giáy tự cho mình là “không có Tổ quốc” [14, tr.8] riêng của
dân tộc mình, cho nên trong cuộc sống luôn sống xen với các dân tộc khác và
dựa vào các dân tộc khác để phát triển. Với tƣ duy và cách sống nhƣ vậy lại
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Ngƣời Giáy đến xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái muộn hơn
nhiều so với các dân tộc khác. Theo Cụ Hoàng Văn Ái, bản Chiềng Pằn A xã
Gia Hội cho biết: “Làng bản của người Giáy nơi đây nằm giữa cánh đồng,
được hình thành cách đây khoảng hơn 200 năm”. Hiện tại, toàn xã có khoảng
bảy họ ngƣời Giáy sinh sống, gồm: họ Hoàng, họ Trƣơng, họ Lục, họ Sầm, họ
Đinh, họ Chu và họ Nông. Truyền thuyết dân gian của dân tộc Giáy ở đây kể
lai rằng: “Trong một cuộc chạy loạn, có tốp đi trước, tốp đi sau, tốp đi sau
bắt được một con tôm và nhóm lửa nướng, nhưng càng nướng tôm càng đỏ.
Họ cho là tôm chưa chín nên vẫn tiếp tục nướng, đến khi tôm cháy hết rồi mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
biết. Sau đó, họ lại tiếp tục đi. Tốp đi trước có nhiệm vụ phát đường, trong số
cây bị chặt đó có cây chuối, cứ chặt xong nõn lại mọc lên. Tốp đi sau thấy vậy

cho rằng tốp đi trước đã đi qua lâu lắm rồi, vì họ chặt cây, cây đã mọc. Nghĩ
là không đuổi kịp nữa, tốp đi sau ở lại ven con suối Nậm Min để định cư, hình
thành nên bản làng của người Giáy xã Gia Hội ngày nay. Vì vậy, người Giáy
nơi đây từ bao đời vẫn sống ở ven suối và có tên gọi Giáy củng đinh (Giáy
tôm đỏ)”.[1]
Ngƣời Giáy ở Gia Hội chiếm 1,48% dân số toàn huyện. Theo số liệu
thống kê năm 2010, tổng số ngƣời Giáy có 1492 ngƣời, sống tại sáu thôn bản
là: Chiềng Pằn A, Chiềng Pằn B, Nang Vai, Van Nọi, Nà Kè, Bản Đồn thuộc
xã Gia Hội, cách thị xã Nghĩa Lộ khoảng 35km (đƣờng biên huyện Văn Chấn
- Mù Căng Chải ). Đây là nơi cƣ trú đông nhất và cũng là điểm quần tụ cuối
cùng sau gần hai trăm năm di cƣ của đồng bào đến Yên Bái. Cũng theo lời cụ
Hoàng Văn Ái kể lại, cách đây 50 năm vùng đất này còn hoang sơ, là những
cánh rừng già nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý, cánh đồng lúa Chiềng Pằn
ngày trƣớc là vùng đất trằm trũng, cây cối rậm rạp. Khi đồng bào Giáy tới đây
cùng với đồng bào dân tộc Thái cải tạo vùng đất này, đã tạo nên những cánh
đồng màu mỡ, phì nhiêu nhƣ ngày nay. Giao thông ngày trƣớc không thuận
lợi, nếu đi từ Gia Hội xuống Nghĩa Lộ phải mất cả ngày đƣờng, do vậy việc
giao lƣu, trao đổi hàng hóa và tiếp thu những kiến thức chăn nuôi, trồng trọt
của đồng bào nơi đây gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, đồng bào sống trong
cảnh nghèo đói, cuộc sống của ngƣời dân trong xã gặp rất nhiều khó khăn.
Trình độ dân trí thấp, toàn xã khi đó rất ít ngƣời biết chữ quốc ngữ, ngôn ngữ
chính trong giao tiếp hàng ngày là tiếng Giáy. Với thành quả của của công
cuộc đổi mới, hiện tại đời sống đồng bào ngƣời Giáy ở Gia Hội đã đƣợc nâng
lên về nhiều mặt cả vật chất lẫn tinh thần. Đồng bào không còn phải lo thiếu
muối, thiếu gạo mà đã có của ăn, của để. Nhờ các chính sách phát triển của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Đảng và nhà nƣớc, hệ thống cơ sở hạ tầng, điện, đƣờng, trƣờng, trạm của xã

đã đƣợc củng cố và xây dựng. Tuy nhiên, do ngƣời Giáy sống quần cƣ với các
dân tộc khác trong vùng, đặc biệt là ngƣời Thái nên đồng bào Giáy xã Gia
Hội đã dần dần bị “Thái hóa”. Cụ thể là việc trong ngôn ngữ hàng ngày rất ít
ngƣời dùng tiếng dân tộc Giáy mà sử dụng hầu hết là tiếng Kinh và tiếng
tiếng Thái. Nhà ở, trang phục, phong tục truyền thống trong đám cƣới, đám
tang đã bị “Thái hóa” gần nhƣ tuyệt đối. Ngƣời Giáy Gia Hội trƣớc đây ở
nhà đất, nay trong vùng chiếm 80% là nhà sàn theo kiểu nhà của ngƣời Thái.
Hiện nay, có khác chăng chỉ là những lời khấn của các ông mo là còn sử dụng
tiếng Giáy
Tiểu kết chương1
Gia Hội là một xã vùng cao của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Địa
hình nơi đây khá hiểm trở, nhiều dốc và đồi núi, không thuận lợi cho trồng
trọt, chăn nuôi song nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nơi hội tụ của
nhiều dân tộc khác nhau sinh sống.
Ngƣời Giáy tỉnh Yên Bái sống tập trung đông nhất ở Gia Hội (chiếm
hơn 80% tổng số ngƣời Giáy toàn tỉnh). Họ có mặt ở nƣớc ta cách đây khoảng
200 năm, từ Trung Quốc di cƣ đến Việt Nam với mong muốn tìm đƣợc môi
trƣờng sinh thái tốt đẹp hơn. Nhận thấy Gia Hội là nơi có điều kiện tự nhiên
giống quê hƣơng của mình nên họ đã chọn Gia Hội là nơi cƣ trú lâu dài. Ban
đầu, cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, giao lƣu
với các vùng , miền còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, đời sống đồng bào
ngƣời Giáy ở Gia Hội đã đƣợc nâng lên về nhiều mặt cả vật chất lẫn tinh thần.
Cùng với ngƣời Thái, ngƣời Kinh, ngƣời Dao, ngƣời Mƣờng, họ cải tạo vùng
đất này để tạo nên những ruộng lúa phì nhiêu, mầu mỡ. Cúng giống nhƣ các
nơi khác, ở Gia Hội, ngƣời Giáy sống xen kẽ với các dân tộc khác. Tuy nhiên,
do quá trình sống quần cƣ, nhất là với ngƣời Thái, đã làm cho quá trình “Thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18

hóa” trong cộng đồng ngƣời Giáy nơi đây diễn ra sâu sắc. Biểu hiện cho điều
đó là trong ngôn ngôn ngữ hàng ngày rất ít ngƣời dùng tiếng Giáy mà hầu hết
là sử dụng tiếng Kinh và tiếng Thái. Nhà ở, trang phục, phong tục truyền
thống trong đám cƣới, đám tang đã bị “Thái hóa” gần nhƣ tuyệt đối. Ngƣời
Giáy Gia Hội trƣớc đây ở nhà đất, nay trong vùng chiếm 80% là nhà sàn theo
kiểu nhà của ngƣời Thái. Điều có khác chăng chỉ là những lời khấn của các
ông mo là còn sử dụng tiếng Giáy.
Có thể thấy, tuy chiếm số lƣợng không nhiều nhƣng ngƣời Giáy ở Gia
Hội nói riêng và ngƣời Giáy ở Yên Bái nói chung lại mang đặc trƣng riêng biệt.
Đã góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

Chƣơng 2
ĐẶC TRƢNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
CỦA NGƢỜI GIÁY XÃ GIA HỘI HUYỆN VĂN CHẤN
TỈNH YÊN BÁI

Hoạt động kinh tế thực chất là hoạt động kiếm sống nhằm duy trì sự tồn
tại của con ngƣời. Đó là quá trình con ngƣời dùng công cụ tác động vào tự
nhiên để làm ra của cải vật chất. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế còn chứa đựng
rất nhiều yếu tố văn hóa xã hội và tinh thần. Cũng nhƣ nhiều dân tộc thiểu số
sinh sống ở miền núi phía Bắc Việt Nam, hoạt động kinh tế của ngƣời Giáy
xã Gia Hội có hai loại hình, kinh tế sản xuất và kinh tế khai thác nguồn lợi tự
nhiên. Ngoài ra, ngƣời Giáy nơi đây còn phát triển thêm một số nghề phụ, góp

phần phát triển kinh tế của gia đình cũng nhƣ địa phƣơng.
Trong quá trình nghiên cứu về ngƣời Giáy ở Gia Hội chúng tôi đã tìm hiểu
những đặc trƣng về kinh tế của đồng bào Giáy nơi đây trên các nội dung sau:
2.1. Các loại hình kinh tế
2.1.1. Nông nghiệp
2.1.1.1. Canh tác lúa nước
Nhƣ đã trình bày ở trên, ngƣời Giáy di cƣ đến Việt Nam với mong
muốn tìm một môi trƣờng sinh thái tốt hơn. Ngƣời Giáy di cƣ đến Gia Hội
cũng với mong muốn tìm một miền đất mới để thoát khỏi cảnh túng quẫn về
kinh tế. Khi tới Gia Hội, họ thấy đây là một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ và
phù hợp về địa lý, phong tục tập quán với nơi cƣ trú trƣớc đây của mình nên
đã quyết định định cƣ ở đây lâu dài.
Gia Hội trƣớc kia vùng là một vùng đất hoang sơ, cánh đồng lúa
Chiềng Pằn ngày trƣớc là vùng đất trằm trũng. Thiên nhiên nhiệt đới ẩm của
xã rất thuận lợi cho cây cối phát triển. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên nhƣ vậy
không cho phép con ngƣời săn bắt nguyên thủy phát triển thành cƣ dân chăn

×