Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.86 KB, 88 trang )

Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
I. KHÁI NIỆM CẠNH TRANH:
1. Cạnh tranh
Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các
nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa
vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Thuật ngữ cạnh tranh được sử
dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, thương mại, luật, chính trị,
sinh t hái , thể thao. Cạnh tranh có thể là giữa hai hay nhiều lực lượng, hệ thống, cá
nhân, nhóm, loài, tùy theo nội dung mà thuật ngữ này được sử dụng. Cạnh tranh có
thể dẫn đến các kết quả khác nhau. Một vài kết quả, ví dụ như trong cạnh tranh về tài
nguyên, nguồn sống hay lãnh thổ, có thể thúc đẩy sự phát triển về mặt sinh học, tiến
hoá, vì chúng có cơ hội, được cung cấp lợi thế cho sự sống sót, tồn tại.
2. Cạnh tranh trong kinh doanh
Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà
phân phối, bán lẽ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo
nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các
lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có
thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng
hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh
của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng
một ngành…
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh tranh
phi giá cả (Khuyến mãi, quảng cáo) Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp, một
ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự do và
công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi
của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà
doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận
trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi


(1980).
Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các
đối thủ trong cùng một ngành
1
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
II. QUAN ĐIỂM CẠNH TRANH XƯA VÀ NAY:
1. Quan điểm cạnh tranh khi xưa
Kể từ buổi bình minh của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty thường xuyên
phải cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy trì sự phát triển và tăng lợi
nhuận. Do đó đã có lúc nhà kinh doanh ngộ nhận cạnh tranh thuộc phạm trù tư bản
nên quan điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết các nhà kinh doanh đều nhầm
tưởng “cạnh tranh” với nghĩa đơn thuần và thường bị ám ảnh bởi câu châm ngôn:
“Thương trường là chiến trường” – đây là ngôn ngữ truyền thống của những nhà kinh
doanh. Trong cạnh tranh cần tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ để loại trừ đối thủ cạnh
tranh, giành giật quyết liệt thị phần, khuyến trương thương hiệu sản phẩm, khống chế
nhà cung cấp và khóa chặt khách hàng. Theo quan điểm đó, sẽ luôn có người thắng và
kẻ thua trong kinh doanh. Cách nhìn về một kết cục thắng – thua được Gore Vidal viết
như sau: “Chỉ thành công thôi chưa đủ. Phải làm cho kẻ khác thất bại nữa”.
2. Quan điểm canh tranh ngày nay
Trong bối cảnh thương trường ở đây là một thương trường toàn cầu hóa trong
một thế giới đang đi trên một tiến trình không thể đảo ngược của hội nhập.Thế giới
hội nhập là một thế giới cạnh tranh.Các bức tường bị hạ xuống, các loại rào chắn bị dở
bỏ. Trên một sân chơi “đang được làm phẳng” – nói theo thuật ngữ của Thomas
Friedman, các nguồn lực của thế giới đang tranh nhau để được sử dụng theo cách tốt
nhất, cách tốt nhất nghĩa là phải trả chi phí thấp hơn nhưng có sản phẩm tốt hơn. Đó
chính là ý nghĩa tích cực của một môi trường cạnh tranh tự do trên một sân chơi ngang
bằng. Căn cứ theo những gì người ta hay nói về kinh doanh ngày nay, doanh nghiệp sẽ
không tiếp tục nghĩ theo kiểu truyền thống như vậy. Doanh nghiệp cần phải lắng nghe
khách hàng, hợp tác với các nhà cung cấp, lập ra các nhóm mua hàng và xây dựng
những quan hệ đối tác chiến lược (thậm chí là với đối thủ cạnh tranh).Và tất cả những

điều đó không hề giống như trong một cuộc chiến. Bernard Baruch – một nhà tài phiệt
ngân hàng hàng đầu của thế kỷ XX đã phản đối Gore Vidal bằng những lời như sau:
“Không cần phải thổi tắt ngọn nến của người khác để mình tỏa sáng”.
Mặc dù không nổi danh bằng Gore Vidal song Bernard Baruch đã kiếm được
nhiều tiền hơn rất nhiều.Đây chính là cạnh tranh lành mạnh. Kinh doanh như một
cuộc chơi nhưng không giống như chơi thể thao, chơi bài hay chơi cờ, khi mà phải
luôn có kẻ thua – người thắng (lose – win); trong kinh doanh, thành công của doanh
nghiệp không nhất thiết đòi hỏi phải có những kẻ thua cuộc.
Thực tế là hầu hết các doanh nghiệp chỉ thành công khi những người khác
thành công.Đây là sự thành công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn
nhau. Tình huống này được gọi là “cùng thắng” (win – win).
2
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
3. So sánh giữa 2 quan điểm:
Quan điểm cạnh tranh khi
xưa
Quan điểm canh tranh ngày
nay
Giống nhau:
- Đều mang lại lợi ích cho doanh nghiệp
- Giúp công ty luôn phát triển
Khác nhau - Chưa có chiến lược cạnh
tranh cụ thể
-Phải loại bỏ đối thủ cạnh
tranh mà không quan tâm đến
khách hàng và chất lượng sản
phẩm
- Luôn lấy khách hàng là mục
tiêu
-Quan tâm đến chất lượng sản

phẩm.
- Không nhất thiết phải loại bỏ
đối thủ cạnh tranh
III. ẢNH HƯỞNG CỦA CẠNH TRANH ĐẾN XÃ HÔI, KHÁCH HÀNG,
DOANH NGHIỆP:
1. Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy mở rộng loại hình và phạm vi cung cấp
sản phẩm, dịch vụ
Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, cái được gọi là “
thương trường như chiến trường” đã được định hình từ lâu và trong sự chuyển đổi
sang cơ chế tế thị trường thật sự năng động nên áp lực của việc cạnh tranh ngày càng
sôi nổi và quyết liệt để chiếm giữ thị phần. Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh
sản phẩm, cạnh tranh giá cả hoặc cạnh tranh phi giá (Khuyến mãi, phân phối,quảng
cáo ) và cả cạnh tranh về chất lượng. Theo đó các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh
với nhau bằng cách nào để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng là vấn đề
mà các Doanh nghiệp phải đặt ra?. Bởi nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng ngày
càng đa dạng và phong phú.
Các hoạt động cạnh tranh hiện nay hầu hết nhằm vào chính sách dịch vụ, chính sách
giá cước, kênh phân phối, cạnh tranh về bán hàng. Vì thế, các doanh nghiệp đang cạnh
tranh với nhau chủ yếu thông qua yếu tố giá thành và khuyến mãi mà dường như ít
quan tâm tới công tác chăm sóc khách hàng và chất lượng dịch vụ. Đó là chưa kể đến
càng nhiều những Doanh nghiệp hiện nay đã kinh doanh bất chính bằng mọi cách để
đạt lục tiêu lợi nhuận cao nhất mà không hề quan tâm đến quyền lợi và sức khỏe của
người tiêu dùng và lợi ích xã hội.
3
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Tuy nhiên, chắc chắn sẽ có những đối tượng phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những
sự canh tranh gây gắt này. Đó là bản thân Doanh nghiệp, khách hàng và xã hội.
• “ Cạnh tranh để phát triển” , nếu so sánh giữa Doanh nghiệp với nhau thì :
Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy mở rộng loại hình và phạm vi cung cấp
sản phẩm, dịch vụ, cũng là cơ hội để các doanh nghiệp có những thay đổi

năng động hơn, cải tiến liên tục.
- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhiều phương
thức kinh doanh hiện đại đã ra đời, phát triển và du nhập vào Việt Nam.
Nhà kinh doanh giỏi là phải nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng kịp
thời thì mới đem lại cho họ những sản phẩm hài lòng, kế đó nhà kinh
doanh cần phải làm cách nào để thu hút khách hàng về phía mình. Muốn
làm được điều đó thì Doanh nghiệp phải đi đầu về công nghệ để mang
lại năng suất cao nhất trong thời gian nhanh nhất.
- Trong một thị trường độc quyền, nhà kinh doanh phải đầu tư nâng cấp,
mở rộng hệ thống bán hàng, thay thế các công nghệ cũ. Do sức ép mạnh
mẽ của cạnh tranh, các nhà kinh doanh hiện tại cũng phải cải tiến chất
lượng dịch vụ, mở rộng loại hình Doanh nghiệp và nâng cấp hệ thống
với các công nghệ hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh nếu không muốn
bị các đối thủ mới vượt mặt.
Ví dụ : Nếu không có cạnh tranh thì người dân có thu nhập thấp ở Việt Nam cũng
không thể có khả năng sử dụng dịch vụ điện thoại di động (ĐTDĐ) vốn là dịch vụ
dành cho những khách hàng khá giả và giờ đây liên tục xuất hiện nhiều mặt hàng
ĐTDĐ với những phầm mềm tiên tiến, ứng dụng đa dạng, tính năng, tiện ích không
chỉ ngày càng hướng tới sự hoàn mỹ mà đó cũng là một cuộc chạy đua công nghệ rất
mạnh mẽ không có điểm dừng.
• Mặt khác, trong môi trường cạnh tranh, sau khi đầu tư vào các thị trường hấp
dẫn ở những khu vực đô thị, khu công nghiệp có mật độ sử dụng cao, có thời
gian thu hồi vốn nhanh với lợi nhuận cao thì với cuộc chạy đua này các nhà
kinh doanh cũng phải tự mình từng bước tìm kiếm những khu vực thị trường ít
hấp dẫn hơn như các vùng sâu và mở rộng thị phần, Chính sự cạnh tranh này đã
tạo động lực thúc đẩy Doanh nghiệp phát triển các nhà kinh doanh bắt buộc
phải ứng dụng các công nghệ mới, họ sẽ quan tâm đến việc xây dựng - phát
triển hạ tầng, chăm sóc khách hàng tốt hơn, không ngừng cải tiến phương thức
kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ.
2. Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy các nhà kinh doanh giảm giá để hấp dẫn

khách hàng hơn.
Thật vậy, có thể nhận thấy sự cạnh tranh về giá đã đặt lên kế sách hàng đầu của Doanh
nghiệp. Hầu hết người tiêu dùng luôn muốn sở hữu những sản phẩm tốt nhất mà giá cả
lại không quá đắt.Tại thời điểm khó khăn như hiện nay, hàng giá rẻ được người tiêu
dùng đón nhận. Một phần nguyên nhân là số đông người Việt Nam vẫn còn nghèo, thu
nhập thấp thì hàng giá rẻ sẽ là xu hướng tiêu dùng. Vậy nắm bắt được tâm lý này thì
Doanh nghiệp cần phải có những hành vi cụ thể trong chính sách chiến lược để làm
4
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
sao bảo đảm luôn đưa ra giá cả hợp lý. Nếu không sẽ không đủ năng lực cạnh tranh
kịp với các đối thủ của mình và tất nhiên sẽ mất thị phần một cách nhanh chóng.
• Bên cạnh đó, sự cạnh tranh phải luôn tồn tại sông song những tác hại gây tiêu
cực, những hậu quả có thể sẽ đe dọa đến Doanh nghiệp nếu chính sách kinh
doanh không phù hợp đó là :
- Gánh nặng về chi phí khi phải thuê các chuyên gia, nhân công, máy móc để
kịp thời đáp ứng đúng thời điểm và nhu cầu của người tiêu dùng trong nhiều
giai đoạn .
- Có thể sẽ mất thị phần một cách nhanh chóng nếu nguồn lực Doanh nghiệp
không đủ mạnh trong điều kiện kinh tế ngày nay ( lạm phát, chính trị không ổn
định, suy thoái kinh tế ).
- Có thể không chạy kịp công nghệ và không đủ sức để tiên phong trong
công cuộc chạy đua này mà ở đó luôn có sự đổi mới liên tục, sự phát triển ngày
đa dạng hơn,khi nó ngày càng tiên tiến và càng hướng tới sự hoàn hảo.
-
Xét về khía cạnh khách hàng và xã hội thì những yếu tố trên cũng đã ảnh
hưởng trực tiếp đến thái độ và hành vi sử dụng sản phẩm, tác động lên nhận
thức của toàn xã hội tạo cho người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn với sự tiện
lợi ngày càng gia tăng.
- Cũng chính sự cạnh tranh của các Doanh nghiệp thì người tiêu dùng có quyền
được lựa chọn nhiều sản phẩm đa dạng và phong phú hơn.

- Giá thành cạnh tranh thì họ cũng được hưởng nhiều mức ưu đãi (được giảm
giá, tặng kèm sản phẩm, chiết khấu ) và chính sách chăm sóc khách hàng sẽ
linh hoạt và đặc biệt hơn.
- Khách hàng có cơ hội sử dụng nhiều dịch vụ tiên tiến với chi phí ngày càng
hợp lý.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới lợi ích của chính doanh nghiệp mình mà
ít có sự quan tâm tới lợi ích chung của quốc gia, xã hội.
Cạnh tranh dù diễn ra giữa những người cạnh tranh nhưng có một ảnh hưởng xã hội
rất lớn tác động đến quyền lợi của tất cả mọi người tham gia hoạt động trên thị
trường. bị ảnh hưởng một cách tiêu cực do các hoạt động cạnh tranh dẫn đến nhầm
lẫn, ngộ nhận…, chủ yếu bởi hoạt động thu hút khách hàng không lành mạnh. Hoạt
động đó thể hiện dưới nhiều phương thức như: sử dụng các thông tin, chỉ dẫn gây ngộ
nhận, gây nhầm lẫn, ép buộc khách hàng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, lợi dụng
lòng tin
Ví dụ : Trung tâm đào tạo X quảng cáo rằng : “Chỉ cần 500.000đ bạn đã biết chơi
chứng khoán an toàn”. Chúng ta biết rằng không bao giờ có chơi chứng khoán an
toàn cả. Mọi quỹ đầu tư chứng khoán ngay cả ở Hoa Kỳ hay các nước phát triển khác
mà khi ký hợp đồng với nhà đầu tư đều phải có điều khoản bắt buộc là “Quỹ không
5
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
bảo đảm an toàn về vốn đầu tư” - Nhà đầu tư biết rằng có thể sẽ bị mất hết vốn.
Quảng cáo này nhằm thu hút người học vì làm cho họ tưởng rằng chỉ cần 500.000đ ít
nhất cũng biết cách không bị mất vốn. Và có rất nhiều những quảng cáo tương tự như
vậy cứ tràn lan để làm cho người tiêu dùng ngộ nhận dẫn đến không ít trường hợp sau
sử dụng thì lại có những vụ kiện xâm hại đến quyền lợi, sức khỏe người tiêu dùng
còn những trường hợp như vụ chất lượng sữa tươi của Vinamilk, xăng Aceton, vụ
Vedan
Vậy những trường hợp như trên thì trách nhiệm của nhà Doanh nghiệp đối với người
tiêu dùng và xã hội sẽ như thế nào? Nhà nước có những can thiệp gì về hậu quả của sự
canh tranh đó?

Nói như vậy, để khẳng định Sức ảnh hưởng của Cạnh tranh trong điều kiện kinh tế
hiện nay là rất lớn và khó có thể đo lường được cả trong trường hợp canh tranh lành
mạnh và không lành mạnh.
IV. QUAN ĐIỂM CẠNH TRANH LÀNH MẠNH, CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH:
1. Quan điểm về cạnh tranh lành mạnh:
Là phải mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ
hơn so với các đối thủ cạnh tranh để khách hàng chọn mình chứ không chọn đối thủ
cạnh tranh của mình.
Hay nói cách khác các doanh nghiệp phải tự mình cạnh tranh với mình để mỗi
lúc vượt trội chính mình chính là để tránh việc người khác cạnh tranh và vượt lên
mình
Theo quan điểm phổ biến thì mục đích của cạnh tranh không phải là đánh bại
đối phương mà là thể hiện bản thân mình. Theo quan điểm tâm lý học, cạnh tranh là
nhu cầu tâm lý đòi hỏi xã hội và người khác công nhận mình, thể hiện cái tôi vượt
trội, xuất sắc hơn người khác.
Phần cốt lõi của cạnh tranh chính là ở chỗ phát huy hết năng lực của mình, để
khiến cho bản thân mình có tầm vóc nhất, ưu tú nhất, chứ không phải là nghĩ cách
khiến cho đối thủ gục ngã. Như vậy, cạnh tranh không phải là so sánh cùng người
khác, mà là so sánh với bản thân, là sự tự đánh giá, kiểm tra bản thân. Bất kỳ một sự
cạnh tranh không lành mạnh nào đều là sự phủ định và làm nhục chính mình.
6
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Bởi vậy, cạnh tranh không chỉ thể hiện năng lực của mình, mà còn là thể hiện
nhân cách của mỗi người.
Thái độ cạnh tranh được coi là lành mạnh khi nó thể hiện những đặc điểm sau:
- Ngay thẳng, trung thực với đối thủ.
- Không được xem đối thủ cạnh tranh là kẻ thù.
- Cạnh tranh một cách trung thực (tuyệt đối không là kẻ cản trở, là vật cản đối với sự
thành công của người khác).

2. Quan điểm về cạnh tranh không lành mạnh:
Là luôn tìm cách diệt trừ các đối thủ cạnh tranh bằng mọi thủ đoạn xảo huyệt
từ dựa dẫm thế quyền đến ám hại cá nhân,nhằm tạo cho mình một thế độc tôn trên thị
trường.,để khách hàng không có lựa chọn nào khác.
Kể từ buổi bình minh của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty thường xuyên
phải cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy trì sự phát triển và tăng lợi
nhuận. Do đó đã có lúc nhà kinh doanh ngộ nhận cạnh tranh thuộc phạm trù tư bản
nên quan điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết các nhà kinh doanh đều nhầm
tưởng “cạnh tranh” với nghĩa đơn thuần và thường bị ám ảnh bởi câu châm ngôn:
“Thương trường là chiến trường” – đây là ngôn ngữ truyền thống của những nhà
kinh doanh. Trong cạnh tranh cần tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ để loại trừ đối thủ
cạnh tranh, giành giật quyết liệt thị phần, khuyến trương thương hiệu sản phẩm,
khống chế nhà cung cấp và khóa chặt khách hàng. Theo quan điểm đó, sẽ luôn có
người thắng và kẻ thua trong kinh doanh. Cách nhìn về một kết cục thắng – thua được
Gore Vidal viết như sau: “Chỉ thành công thôi chưa đủ. Phải làm cho kẻ khác thất bại
nữa”.
Cạnh tranh không lành mạnh là bất cứ hành động nào trong hoạt động kinh tế
trái với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng. Và cũng gần
như sẽ không có người thắng nếu việc kinh doanh được tiến hành giống như một cuộc
chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt chỉ dẫn đến một đại dương đỏ đầy
máu của những địch thủ tranh đấu trong một bể lợi nhuận đang cạn dần. Hậu quả
thường thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự sụt giảm mức lợi nhuận ở khắp
mọi nơi.
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi cho
doanh nghiệp mình. Đôi khi đó là sự trả giá của người khác. Đây là tình huống “cùng
thua” (lose – lose).
Từ năm 2004, chúng ta (Việt Nam) đã ban hành Luật cạnh tranh, qui định thế
nào là những hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình
7
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH

tự và thủ tục giải quyết các vụ việc tranh chấp về cạnh tranh … mục đích là bảo đảm
một “sân chơi” lành mạnh giữa các doanh nghiệp có cùng ngành nghề kinh doanh.
Tại Điều 39 qui định về các hành vi được xem là cạnh tranh không lành mạnh, bị
cấm. Chủ yếu gồm 9 hành vi sau :
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
VD:
* Chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng những thông tin chỉ dẫn
(chẳng hạn trên bao bì, nhãn hàng, các pano quảng cáo ) gây ra sự nhầm lẫn về tên
thương mại, logo, chỉ dẫn địa lý để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ của mình.
Ví dụ : Sản phẩm trà chanh Nestea của Nestle và trà chanh Freshtea của Công
ty Thuý Hương.
Sản phẩm trà chanh Nestea hiện được ưa chuộng trên thị trường nhưng không
ít khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh, bị nhầm lẫn với Freshtea của công ty
Thuý Hương.
Theo tài liệu của Công ty sở hữu trí tuệ Banca được công bố công khai trong
cuộc hội thảo do Bộ Công thương tổ chức thì, công ty Thuý Hương (Thanh Trì, Hà
Nội) đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
8
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Cụ thể, Thuý Hương đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa
Freshtea và Nestea. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về

cách trình bày, bố cục, mầu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát hiện hai
gói trà chanh này là do hai công ty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu dùng được
hỏi thì cho rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của công ty Nestle, vì trông
chúng rất giống nhau!
Cùng nằm trong dòng sản phẩm của công ty Nestlé, sản phẩm sữa Milo bị tới
hai hãng khác cạnh tranh không lành mạnh thông qua các chỉ dẫn thương mại gây
nhầm lẫn. Sản phẩm sữa Good Cacao của Cty Mina được sản xuất với những điểm
tương tự sữa Milo như: Tương tự về bao gói sản phẩm, cách thức trình bày, bố cục,
mầu sắc.
Ví dụ về quảng cáo sai chỉ dẫn địa lý, xuất xứ : Một doanh nghiệp bán nước
mắm ghi là "Nước mắm Phú Quốc" nhưng thực chất đóng chai tại TP.HCM.
Nguồn: ( /> * Xâm phạm bí mật kinh doanh là việc doanh nghiệp có các hành vi như tiếp cận,
thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác, tiết lộ, sử dụng
thông tin, bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu chân chính
* Ép buộc trong kinh doanh là việc doanh nghiệp ép buộc, đe dọa khách hàng, đối
tác kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ không cho họ giao dịch hoặc phải ngừng
giao dịch với doanh nghiệp đó.
* Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là việc một doanh nghiệp
có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp “đối thủ”.
* Quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh là việc doanh nghiệp:
- So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác;
Ví dụ;
Ví dụ về nhãn hiệu gây nhầm lẫn : Cà phê Trung Nguyên
9
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Công ty cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 nổi tiếng cũng bị quy vào một
trong những doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Công ty Trung Nguyên đã sử dụng nhãn hiệu ba chiều hình cốc đỏ của Nestlé để so

sánh trực tiếp sản phẩm G7 của họ với sản phẩm Nescafé của Nestles. Đó thực chất là
việc so sánh trực tiếp sản phẩm nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá cả, số lượng,
chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn
sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi
gia công
Nguồn: ( />
* Khuyến mại không lành mạnh là việc :
- Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, không trung thực hoặc gây nhầm
lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
- Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
- Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá
cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng
hàng hóa của mình;
Ví dụ:
Viettel “tố” Mobifone cạnh tranh không lành mạnh
10
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Poster quảng cáo đổi sim mạng khác lấy sim
Mobifone.
(Dân trí) - Tổng Công ty viễn thông Quân đội (Viettel) vừa có văn bản gửi Cục
Quản lý cạnh tranh và Thanh tra Bộ Thông tin - Truyền thông “tố” Mobifone cạnh
tranh không lành mạnh. Thêm 1 cuộc chiến giá cước viễn thông lại bùng nổ.
Theo nội dung đơn của Viettel, thời gian qua tại một số tỉnh miền Tây như Đồng
Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Vĩnh Long
xuất hiện các poster quảng cáo giá cước dịch vụ mới của Mobifone.
Các poster này đã in thông tin từ một bài báo so sánh giá cước của Mobifone thấp hơn
giá cước của Viettel 10 đồng/phút ở tất cả các gói cước tương ứng giữa 2 mạng và ở
cước thuê bao trả sau thì thấp hơn 1.000 đồng/tháng.

Nghiêm trọng hơn Mobifone còn thực hiện chương trình “Đổi sim mạng khác lấy sim
Mobifone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Cụ thể, khách hàng có sim của mạng
khác (cả Viettel) còn tài khoản dưới 15.000 đồng và hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí
1 sim MobiZone của Mobifone có sẵn tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm
15.000 đồng trong 12 tháng.
Với 2 “hành vi” này của Mobifone, Viettel viện dẫn Pháp lệnh Quảng cáo: “…
Nghiêm cấm doanh nghiệp quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực
tiếp dịch vụ của mình với dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác…”.
Ngoài ra theo Viettel, luật Cạnh tranh năm 2004 cũng xác định hành vi so sánh trực
tiếp dịch vụ của mình với dịch vụ cùng loại của đối thủ là hành vi quảng cáo, nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Để khẳng định những điều mình nói, ngày 18/6, Chi nhánh Viettel ở Kiên Giang đã
cùng thanh tra Sở Thông tin - Truyền thông Kiên Giang đi lập biên bản quả tang hàng
chục đại lý của Mobifone có hành vi “cạnh tranh không lành mạnh”.
Chiều 18/6, trao đổi với Dân trí về vấn đề này, ông Đinh Việt Hưng, Trưởng phòng
Giá cước - tiếp thị Mobifone cho biết: “Về việc in poster so sánh giá cước rẻ hơn
Viettel, chúng tôi đã cho kiểm tra và có thể khẳng định đây là hành động tự phát của
các đại lý.
11
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Mobifone không có chủ trương thực hiện việc quảng cáo so sánh trực tiếp về giá cước
với Viettel trên bất kỳ hình thức quảng cáo nào. Hiện tại, chúng tôi đã yêu cầu các đại
lý, điểm bán rà soát và tháo gỡ các poster trên”.
Về vấn đề đổi sim cũ lấy sim mới, ông Hưng thừa nhận: “Đúng là có việc này tại Hải
Dương. Tuy nhiên khi nhận thấy chương trình không hợp lệ chúng tôi đã cho dừng từ
11/6/2009 (diễn ra từ 1 - 10/6/2009), trước thời điểm Viettel có đơn lên Bộ”. Ông
Hưng cho rằng đây chỉ là một hình thức phát triển thuê bao mới mà các mạng di động
khác đã từng áp dụng.
Ông Hưng nói “ẩn ý” như vậy vì bản thân Viettel năm 2006 cũng từng quảng cáo so
sánh giá cước trên báo Bắc Kạn và bị một doanh nghiệp phản ứng. Chưa hết, chính

Viettel cũng từng áp dụng chiêu “đổi số” cho khách hàng mạng di động khác sang
Viettel mà vẫn giữ nguyên số nhưng khi đó Viettel không bị các “đồng nghiệp” tố nên
vẫn tiến hành bình thường.
Tuy nhiên, hiện bằng văn bản của mình, Viettel đề nghị các cơ quan chức năng cần có
hoạt động kiểm tra, xác định và xử lý các vi phạm của Mobifone nhằm đảm bảo sự
cạnh tranh lành mạnh trên thị trường và quyền lợi của các doanh nghiệp viễn thông
khác.
Về phương diện quản lý, trao đổi với PV Dân trí, cả đại diện Cục Quản lý Cạnh tranh
và Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, vẫn đang điều tra làm rõ rồi mới
đưa ra kết luận chính thức.
Chưa biết mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp sẽ đi đến đâu và các cơ quan chức năng
sẽ xử lý thế nào song khi công văn của Viettel đã gửi đến các cơ quan chức năng thì
cũng đồng nghĩa với việc một “cuộc chiến giá cước mới lại được châm ngòi”.
Minh Tuấn - Thanh Ngọc
Đường dẩn: ( />manh/76/2848010.epi)
Bột nêm massan:
Theo một công bố của Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, thì Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể
đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định
là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng
hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại
đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”.
12
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở
Thương mại TP.Hồ Chí Minh. Thanh tra Sở đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ
chương trình khuyến mại.
Nguồn: ( /> * Bán hàng đa cấp bất chính là việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:

1. Yêu cầu người tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu
hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người
tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ
việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham
gia.
Ví dụ về bán hàng đa cấp bất chính: Công ty Nino Vina phân phối sản phẩm nước
trái nhàu ở Việt Nam
Nino Vina là một công ty phân phối sản phẩm nước trái nhàu ở Việt Nam.
Công ty này qui định : Để có thể trở thành thành viên cấp I của mạng lưới phân phối,
các phân phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nước Tahitian Noni Juice với giá gốc là
2,7 triệu đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I giới thiệu thêm
được 3 người khác tham gia vào mạng lưới (mỗi người lại đóng 2,7 triệu đồng) thì sẽ
được hoa hồng 20% tổng số tiền những người này mua sản phẩm. 3 người sau này
được coi là thành viên cấp II. Nếu các thành viên cấp II này giới thiệu thêm được 3
người khác tham gia vào mạng lưới thì thành viên cấp I sẽ tự động được hưởng thêm
5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản phẩm.
Theo tính toán, khi mạng lưới phát triển đến tầng thứ 8 thì số tiền hoa hồng được
chuyển về tài khoản của “người lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù người này
không phải làm gì ngoài việc rủ rê được 3 người mới tham gia vào mạng lưới phân
phối. Như vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập thu được không phải xuất phát
việc bán sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp theo trong mạng
lưới.
13
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Nguồn: ( />Nói thêm là:
Ngoài các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như trên, Luật

Cạnh tranh cũng cấm nhiều hành vi có dấu hiệu “hạn chế cạnh tranh”. Hiểu theo
nghĩa nôm na, là những hành vi đơn lẻ hoặc giữa một nhóm doanh nghiệp cùng
ngành kinh doanh, nhằm mục đích tạo ra những sự “cản trở”, không cho các
doanh nghiệp khác có cơ hội cạnh tranh với mình.
Có 2 dạng hành vi « hạn chế cạnh tranh » gồm :
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, và
- Làm dụng vị trí thống lĩnh hay độc quyền trên thị trường.
Trong một số trường hợp, các hành vi có dấu hiệu « hạn chế cạnh tranh » như trên có
thể bị cấm.
Dưới đây là một ví dụ về việc hai doanh nghiệp đã có hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh.
Công ty phát thanh cáp Atys và cap Seco Nhật Bản
Công ty phát thanh cáp Atys và Công ty phát thanh cáp Seco, là hai nhà cung
cấp hệ thống cáp duy nhất tại một địa phương ở Nhật Bản. Họ thường thu phí sử dụng
truyền hình cáp của người dân địa phương là 300 yên/tháng và những người dân ngoài
địa phương là 400-500 yên/tháng.

Tuy nhiên, từ giữa năm 2003, Atys và Seco đã cùng gửi thư đến những người sử dụng
dịch vụ của họ để thông báo về việc tăng phí. Cả hai đã thừa nhận là do chi phí cho
14
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
các kênh chương trình tăng giá và sự cạnh tranh khốc liệt lãng phí giữa họ nên cả hai
đều phải chịu thua lỗ.

Vì vậy, Atys và Seco đã thỏa thuận với nhau và quyết định chấm dứt cạnh tranh về giá
và xóa bỏ việc giảm giá cho những người sử dụng cư trú ở các khu nhà ở và các khu
liên hợp. Hai bên cũng nhất trí là sẽ điều chỉnh giá dịch vụ.
Theo quyết định Uỷ ban cạnh tranh Nhật Bản, Atys và Seco bị yêu cầu chấm dứt việc
thực hiện hành động trên. Đối với trách nhiệm hình sự của họ, vụ việc này sẽ được
chuyển cho công tố viên để điều tra thêm.


Vụ việc trên của Atys và Seco là một dấu hiệu cảnh báo đối với các doanh nghiệp
muốn dùng cách “thông đồng” để thu lợi nhuận lớn ngay trước mắt thay vì sử dụng
chính năng lực cạnh tranh và khả năng thực tế của mình để thu hút khách hàng.
Nguồn: ( />3. So sánh 2 quan điểm cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh:
Cạnh tranh không
lành mạnh
Cạnh tranh lành mạnh
1. Mục tiêu Tạo thế độc quyền tiêu diệt
đối thủ bằng mọi cách
Tìm cách để phục vụ khách hàng
tốt nhất để khách hàng lựa chọn
sản phẩm dịch vụ của mình chứ
không phải của đối thủ cạnh
2. Bản chất Là vật cản cho sự phát triển
của xã hội.
Thiết lập củng cố cơ chế hành
xử có tính nhân văn trong nền
15
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
kinh tế
3. Đối với
DN
Lợi nhuận cao(gia bán sản
phẩm cao.)
Lợi nhuận cao(do đầu tư phục
vụ khách hàng)
4. Đối với
NTD
Không mang lại lợi ích cho

người tiêu dùng.
Có nhiều lợi ích hàng hóa tốt
hơn, mua hàng rẻ hơn,dịch vụ
tôt…
5. Đối với
xã hội
Không mang lại lợi ích gì tốt
đẹp
Làm cho xã hội ngày càng phát
triển và văn minh
V. NĂNG LỰC CẠNH TRANH, LỢI THẾ CẠNH TRANH:
1. Năng lực cạnh tranh:
a. Khái niệm:
Năng lực cạnh tranh của DN là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên
trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm – dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để
tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường.
Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta đã sử dụng khái niệm năng
lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng
lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của
sản phẩm và dịch vụ Ở đây , sẽ chủ yếu đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố
nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ,
tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh
giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng
một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh

nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối
tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi
doanh nghiệp phải tạo ra và có được các lợi thế cạnh tranh cho riêng mình. Nhờ lợi
thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu
cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh. (Lê Công Hoa, 2006).
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả
16
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có
hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và
cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những
đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp
được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như
marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…
Như vậy có thể thấy, khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động,
được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ
mô. Một sản phẩm có thể năm nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng
năm sau, hoặc năm sau nữa lại không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được
các yếu tố lợi thế.
b. 4 NHÓM YẾU TỐ TẠO NÊN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là gì?
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách
hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
o Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ
tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về
mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận
biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có
để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng.
o Dựa trên cơ sở quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng bù

đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch
vụ trên thị trường, thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xác
định trên 4 nhóm yếu tố sau:
 Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa các yếu tố
đầu vào
 Các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp
 Yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
 Vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.

Yếu tố thứ 1 là Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa các yếu
tố đầu vào:
Đây là yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chúng quyết
định lợi thế cạnh tranh ở độ cao và những công nghệ có tính độc quyền. Trong dài hạn
thì đây là yếu tố có tính quyết định phải được đầu tư một cách đầy đủ và đúng mức.
 Thứ nhất đó là trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Bản thân doanh
nghiệp phải tự tìm kiếm và đào tạo cán bộ quản lý cho chính mình. Muốn có được
đội ngũ cán bộ quản lý tài giỏi và trung thành, ngoài yếu tố chính sách đãi ngộ,
17
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
doanh nghiệp phải xác định được chuẩn mực trong văn hóa doanh nghiệp về
phương châm và việc dùng người như thế nào, phải thiết lập được cơ cấu tổ chức
đủ vững mạnh để độ linh hoạt, thích nghi cao với sự thay đổi.
 Thứ hai là yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm nguồn nhân lực, nguồn
vốn và trình độ khoa học công nghệ Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì
nó đảm bảo nguồn sáng tạo trong mọi tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực thể hiện ở
trình độ quản lý kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh(Kỹ năng
quản trị hiệu quả trong môi trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của nghiệp chủ và
giám đốc DN; kỹ năng quản lý sự thay đổi; kỹ năng thuyết trình, đàm phán, giao
tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý thời gian ) của các cấp lãnh đạo, trình
độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, trong doanh nghiệp Trình độ nguồn

nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong
kết cấu kĩ thuật của sản phảm, mẫu mã, chất lượng và từ đó uy tín, danh tiếng
của sản phẩm sẽ ngày càng tăng, doanh nghiệp sẽ tạo được vị trí vững chắc của
mình trên thương trường và trong lòng công chúng, hướng tới sự phát triển bền
vững.
 Bên cạnh nguồn nhân lực, vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp tới năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là
doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong
những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý, có kế hoạch sử dụng
vốn hiệu quả để phát triển lợi nhuận và phải phân bổ các chi phí rõ ràng để xác
định được hiệu quả chính xác. Nếu không có nguồn vốn dồi dào thì hạn chế rất
lớn tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp như hạn chế việc sử dụng công nghệ
hiện đại, hạn chế việc đào tạo nâng cao trình độ cán bộ và nhân viên, hạn chế
triển khai nghiên cứu, ứng dụng, nghiên cứu thị trường, hạn chế hiện đại hoá hệ
thống tổ chức quản lý Trong thực tế không có doanh nghiệp nào có thể tự có đủ
vốn để triển khai tất cả các mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì
vậy, điều quan trọng nhất là doanh nghiệp có kế hoạch huy động vốn phù hợp và
phải có chiến lược đa dạng hóa nguồn cung vốn.
 Một nguồn lực nữa thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là trình độ
công nghệ: thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công
nghệ, thị trường cho các DN, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều
kiện để các DN này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm.
 Công nghệ là phương pháp , là công thức tạo ra sản phẩm. Để có năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp phải được trang bị bằng công nghệ hiện đại. Công
nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm
ngắn, tiêu hao năng lượng và nguyên liệu thấp, năng suất cao, tính linh
hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, ít gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng
công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá
thành, chất lượng sản phẩm, do đó làm cho năng lực cạnh tranh của sản
phẩm tăng.

 Doanh nghiệp cần lựa chọn công nghệ thích hợp, nắm bắt được chu kì sống
của công nghệ, thời gian hoàn vốn của công nghệ phải ngắn, đào tạo đội
18
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
ngũ nhân viên có đủ trình độ để điều khiển và kiểm soát công nghệ nhằm
phát huy tối đa năng suất thiết kế của công nghệ.
 Nếu doanh nghiệp giữ bản quyền sáng chế hoặc có bí quyết riêng thì thị
trường sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có tính độc quyền hợp pháp. Do đó,
năng lực nghiên cứu phát minh và các phương thức giữ gìn bí quyết là yếu
tố quan trọng tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh
nghiệp tạo môi trường thuận lợi cho từng người lao động phát huy sáng
kiến cá nhân trong công việc của họ.
Yếu tố thứ 2 là Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ: Sự phát triển của doanh
nghiệp không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ như:
• Thị trường tài chính : Bởi vì, mỗi đơn vị kinh doanh đều liên quan đến các hoạt
động tín dụng( DN phải đi vay vốn từ các quỹ tín dụng thì mới tiến hành các hoạt
động), các quyết định về đầu tư vốn kinh doanh, quyết định về chính sách phân
phối nguồn lực tài chính, ( sách CHIẾN LƯỢC VÀ CS KD TRANG 286).
• Công nghệ thông tin: Ngày nay, do sự phát triển của công nghệ thông tin, các
ngân hàng có thể theo dõi và tham gia vào thị trường tài chính 24/24 giờ trong ngày
( TT chứng khoán luôn luôn cập nhật những thông tin mới nhất về tình hình hoạt
động DN thông qua giá trị hiện tại của các công cụ tài chính).
• Marketing : giúp đưa ra chiến lược chính sách giá cả hợp lý, định vị sản phẩm trên
thị trường, thực hiện chiến lược xúc tiến thương mại, quan hệ công chúng

Yếu tố thứ 3 là Nhu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ :
 Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Thực tế cho
thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thõa mãn đầy đủ tất cả những yêu
cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này thì có hạn chế
về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố

gắng phát huy tốt nhất những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất
những đòi hỏi của khách hàng. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh
nghiệp có thể tận dụng được lợi thế theo quy mô, từ đó cải thiện các hoạt động
kinh doanh và dịch vụ của mình.
 Nhu cầu khách hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp để phát triển các loại
hình sản phẩm và dịch vụ mới. Các loại hình này có thể được phát triển rộng rãi ra
thị trường bên ngoài và khi đó doanh nghiệp là người trước tiên có được lợi thế
cạnh tranh.
 Yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó bán
được nhiều và nhanh chóng trên thị trường có sản phẩm tương tự. Nó bị ảnh
19
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
hưởng bởi các yếu tố: chất lượng, giá cả sản phẩm, thời gian cung cấp, dịch vụ đi
kèm, điều kiện mua bán, danh tiếng và uy tín Khi lập kế hoạch sản xuất kinh
doanh của mình, doanh nghiệp cần nhận định đầy đủ về các mức độ của sản
phẩm. Mức cơ bản nhất là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà
khách hàng thực sự mua. Doanh nghiệp phải biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm
chung. Ở mức độ tiếp theo, doanh nghiệp chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là
tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi và chấp
thuận khi họ mua sản phẩm đó. Sau đó doanh nghiệp chuẩn bị một sản phẩm hoàn
thiện thêm với những dịch vụ và ích lợi phụ thêm làm cho sản phẩm khác với sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Yếu tố thứ 4 là Vị thế của doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh:
 Sự phát triển của hoạt động doanh nghiệp sẽ thành công nếu được quản lý và tổ
chức trong một môi trường phù hợp và kích thích được các lợi thế cạnh tranh
của nó. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và
thay đổi nhằm hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ.
 Yếu tố này là khả năng liên kết vả hợp tác với doanh nghiệp khác và hội nhập
kinh tế quốc tế.

 Trong kinh doanh thường xuất hiện nhu cầu liên kết và hợp tác giữa nhiều
đối tác với nhau làm tăng khả năng cạnh tranh. Khả năng liên kết và hợp tác
của doanh nghiệp thể hiện ở việc nhận biết các cơ hội kinh doanh mới, lựa
chọn đúng đối tác liên minh và khả năng vận hành liên minh một cách có kết
quả và đạt hiệu quả cao, đạt được các mục tiêu đặt ra.
 Khả năng liên kết và hợp tác cũng thể hiện sự linh hoạt của doanh nghiệp
trong việc chủ động nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thương trường. Nếu
doanh nghiệp không thể hoặc ít có khả năng liên minh hợp tác với các đối
tác khác thì sẽ bỏ qua nhiều cơ hội kinh doanh và nếu cơ hội đó được đối thủ
cạnh tranh nắm được thì nó sẽ trở thành nguy cơ với doanh nghiệp.
 Yếu tố uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp được hình thành trong cả một quá
trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu và chiến lược đúng đắn.
 Thương hiệu trước hết được xây dựng bằng con đường chất lượng: chất
lượng của hệ thống quản lý, của từng con người trong doanh nghiệp, chất
lượng sản phẩm doanh nghiệp sản xuất cung cấp cho thị trường.
 Hoạt động kinh doanh của họ luôn tồn tại mối liên kết trực tiếp và song song
giữa thương hiệu và khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu tên tuổi thì
phải có một sản phẩm tốt, có chất lượng độc đáo và một thương hiệu mạnh
không chỉ cần có một sản phẩm hoàn hảo về chất lượng phục vụ mà còn
khơi dậy trong khách hàng những cảm xúc, cảm nhận đặc biệt và tích cực về
thương hiệu đó.
20
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
 Thương hiệu của doanh nghiệp còn được xây dựng bằng sự đóng góp của
doanh nghiệp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, của các dịch
vụ đi kèm với sản phẩm, của hoạt động Marketing và quảng cáo trung thực.
 Nếu sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích
thích người mua nhanh chóng đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần
của doanh nghiệp gia tăng. Nhưng đánh giá thương hiệu không chỉ ở số
lượng các thương hiệu mạnh doanh nghiệp đang có mà quan trọng phải đánh

giá được khả năng phát triển của thương hiệu. Khả năng đó cho thấy sự
thành công của doanh nghiệp trong tương lai.
Nguồn : />q=cache: />c. Các chỉ tiêu đánh giá Năng lực cạnh tranh:
• Chỉ tiêu định lương:
– Sản lượng, doanh thu
– Thị phần
– Tỷ suất lợi nhuận
• Chỉ tiêu định tính:
– Chất lượng hàng hoá - dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
– Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
– Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
d. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh:
Các nhân tố môi trường vĩ mô: Nhân tố chính trị - pháp lý, các xu hướng phát triển
trên thế giới, nhân tố văn hoá xã hội
Các nhân tố môi trường vi mô: Đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm
năng, đối thủ cạnh tranh ngẫu nhiên
Các nhân tố thuộc môi trường bên trong DN: Năng lực tài chính, năng lực sản xuất,
nguồn nhân lực,marketing, hoạt động nghiên cứu và phát triển, các chiến lược cạnh
tranh
e. Cộng cụ phân tích năng lực cạnh tranh:
Mô hình 5 tác lực cạnh tranh của Michael Porter
21
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Một doanh nghiệp muốn cạnh tranh thành công trong ngành, nhất thiết phải trả
lời được hai câu hỏi quan trọng, phải nhận ra khách hàng cần gì ở mình? và làm thế
nào doanh nghiệp có thể chống đỡ sự cạnh tranh?
Muốn vậy, trước hết doanh nghiệp phải tập trung vào phân tích môi trường
ngành dựa trên mô hình năm tác lực cạnh tranh của Michael Porter. Việc phân tích
này giúp công ty nhận ra những cơ hội và thách thức, qua đó doanh nghiệp biết mình
nên đứng ở vị trí nào để đối phó một cách hiệu quả với năm lực lượng cạnh tranh

trong ngành. Năm tác lực này không phải là yếu tố tĩnh, mà ngược lại nó vận động
liên lục cùng với các giai đoạn phát triển của ngành. Từ đó sẽ xác định những yếu tố
thành công then chốt được xem như là nguồn gốc bên ngoài của lợi thế cạnh tranh.
Michael Porter đã đưa ra mô hình năm tác lực cạnh tranh gồm (1) Cường độ cạnh
tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành, (2) Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ
tiềm năng, (3) Mối đe dọa từ các sản phẩm có khả năng thay thế, (4) Quyền lực
thương lượng của người mua, và (5) Quyền lực thương lượng của nhà cung ứng.
Hình 2.5. Mô hình 5 tác lực cạnh tranh của Michael Porter
(Nguồn: Michael Porter, “Competitive Strategy”, 1980, trang 4).
+ Nguy cơ xâm nhập từ các đối thủ tiềm năng
Nguy cơ xâm nhập vào một ngành phụ thuộc vào các rào cản xâm nhập thể
hiện qua các phản ứng của các đối thủ cạnh tranh hiện thời mà các đối thủ mới có thể
dự đoán. Nếu các rào cản hay có sự trả đũa quyết liệt của các nhà cạnh tranh hiện hữu
đang quyết tâm phòng thủ thì khả năng xâm nhập của các đối thủ mới rất thấp.
Theo Michael Porter, có 6 nguồn rào cản xâm nhập chủ yếu, đó là lợi thế kinh
tế theo quy mô, sự khác biệt của sản phẩm, các đòi hỏi về vốn, chi phí chuyển đổi, khả
năng tiếp cận với kênh phân phối và những bất lợi về chi phí không liên quan đến quy
22
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
mô.
+ Áp lực cạnh tranh của các đối thủ hiện tại trong ngành
Tính chất và cường độ của cuộc cạnh tranh giữa các công ty hiện tại trong
ngành phụ thuộc vào các yếu tố sau :
- lượng các đối thủ cạnh tranh đông đúc.
- Tốc độ tăng trưởng của ngành.
- Chi phí cố định và chi phí lưu kho cao.
- Sự nghèo nàn về tính khác biệt của sản phẩm và các chi phí chuyển đổi.
- Ngành có năng lực dư thừa.
- Tính đa dạng của ngành.
- Sự tham gia vào ngành cao.

- Các rào cản rút lui.
+ Áp lực từ các sản phẩm thay thế
Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng
cách đặt một ngưỡng tối đa cho mức giá mà các công ty trong ngành có thể kinh
doanh có lãi. Do các loại sản phẩm có tính thay thế cho nhau nên sẽ dẫn đến sự canh
tranh trên thị trường. Khi giá của sản phẩm chính tăng thì sẽ khuyến khích xu hướng
sử dụng sản phẩm thay thế và ngược lại. Do đó, việc phân biệt sản phẩm là chính hay
là sản phẩm thay thế chỉ mang tính tương đối.
+ Áp lực từ phía khách hàng
Áp lực từ phía khách hàng chủ yếu có hai dạng là đòi hỏi giảm giá hay mặc cả
để có chất lượng phục vụ tốt hơn. Chính điều này làm cho các đối thủ chống lại nhau,
dẫn tới làm tổn hao mức lợi nhuận của ngành. Áp lực từ khách hàng xuất phát từ các
điều kiện sau:
- Khi số lượng người mua là nhỏ.
- Khi người mua mua một lượng lớn sản phẩm và tập trung.
- Khi người mua chiếm một tỷ trọng lớn trong sản lượng của người bán.
- Các sản phẩm không có tính khác biệt và là các sản phẩm cơ bản.
- Khách hàng đe dọa hội nhập về phía sau.
- Sản phẩm ngành là không quan trọng đối với chất lượng sản phẩm của người mua.
- Khách hàng có đầy đủ thông tin.
+ Áp lực của nhà cung ứng
Nhà cung ứng có thể khẳng định quyền lực của họ bằng cách đe dọa tăng giá
hay giảm chất lượng sản phẩm/ dịch vụ cung ứng. Do đó, nhà cung ứng có thể chèn ép
lợi nhuận của một ngành khi ngành đó không có khả năng bù đắp chi phí tăng lên
trong giá thành sản xuất.
Những điều kiện làm tăng áp lực từ nhà cung ứng có xu hướng ngược với các
điều kiện làm tăng quyền lực của người mua. Áp lực từ nhà cung ứng sẽ tăng lên nếu :
- Chỉ có một số ít các nhà cung ứng.
- Khi sản phẩm thay thế không có sẵn.
- Khi sản phẩm của nhà cung ứng là yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động của

khách hàng.
- Khi sản phẩm của nhà cung ứng có tính khác biệt và được đánh giá cao bởi các đối
thủ của người mua.
- Khi người mua phải gánh chịu một chi phí cao do thay đổi nhà cung ứng.
- Khi các nhà cung ứng đe dọa hội nhập về phía trước.
23
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Các nội dung chủ yếu cần phân tích về đối thủ cạnh tranh
24
Đề tài: VẤN ĐỀ CẠNH TRANH
Mặc dù những nguyên tắc khung và những câu hỏi được trình bày ở đây nói về những
đối thủ cạnh tranh, nhưng những ý tưỡng này có thể sử dụng để tự phân tích chính
mình.cũng những khái niệm ấy sẽ là những nguyên tắc khung để công ty tự nhìn lại vị
thế của mình trong môi trường của mình. Và cạnh tranh đó , việc tập phân tích mình
như thế có thể giúp một công ty hiểu được những đối thủ cạnh tranh của mình, củng
có thể đã đi đến những kết luận gì về công ty mình. Đây là một phần của việc phân
tích thấu đáo của đối thủ cạnh tranh bởi những kết luận này sẽ hình thành nên những
25

×