Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

Cơ sở hình thành và giá trị văn hóa của múa rối nước Việt Nam ( toàn văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.68 MB, 187 trang )

0

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI




LÊ THỊ THU HIỀN



CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC







HÀ NỘI - 2014
0

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI


LÊ THỊ THU HIỀN



CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Trần Trí Trắc
2. PGS.TS. Đoàn Thị Tình


HÀ NỘI - 2014

1

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ GIÁ TRỊ
VĂN HÓA CỦA MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM là của riêng tôi và chƣa công bố.
Các dẫn chứng trong luận án là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Lê Thị Thu Hiền









2


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU


MỞ ĐẦU
4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM
11
1.1.
Một số khái niệm liên quan
11
1.2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
16
1.3.
Khái quát về Múa rối nƣớc trong tiến trình lịch sử văn hóa
Việt Nam
26

Tiểu kết chƣơng
40
Chƣơng 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM
42
2.1.
Cơ sở tự nhiên
44
2.2.
Cơ sở xã hội
53

Tiểu kết chƣơng
67
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM

71
3.1.
Giá trị nhận thức
71
3.2.
Giá trị giáo dục
79
3.3.
Giá trị giải trí
83
3.4.
Giá trị thẩm mỹ
85

Tiểu kết chƣơng
97
Chƣơng 4: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM
99
4.1.
Thực trạng Múa rối nƣớc Việt Nam hiện nay
99
4.2.
Quan điểm, định hƣớng bảo tồn và phát huy
120

Múa rối nƣớc Việt Nam

4.3.
Giải pháp bảo tồn và phát huy Múa rối nƣớc Việt Nam
122


Tiểu kết chƣơng
140
KẾT LUẬN
142
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
148
TÀI LIỆU THAM KHẢO
149
PHỤ LỤC
159

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

ASEAN : Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á (Asociation of South East Asian)
BCH : Ban chấp hành
CSVN : Cộng sản Việt Nam
Festival : Đại hội liên hoan, Ngày hội, Hội diễn
GS.TS : Giáo sƣ, Tiến sĩ
HN : Hội nghị
NGND : Nhà giáo nhân dân
NGƢT : Nhà giáo ƣu tú
NSND : Nghệ sĩ nhân dân
NSƢT : Nghệ sĩ ƣu tú
Nxb : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó giáo sƣ, Tiến sĩ

ThS. : Thạc sĩ
Tr. : Trang
TW : Trung ƣơng
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
(United Nations Educational Scientific and Cultural Organization)
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với đặc điểm tự nhiên giàu tài nguyên “nƣớc”, nghề nông là nghề chính và
quan hệ sản xuất gắn kết các thành viên trong cộng đồng sinh sống theo các làng, hình
thành nền văn hoá làng, nên Việt Nam đƣợc biết đến nhƣ cái nôi của nền văn hoá lúa
nƣớc. Châu thổ sông Hồng là một vùng đất rộng lớn nằm quanh khu vực hạ lƣu sông
Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, đƣợc bao quanh bởi sông và biển, có đất đai trù phú.
Bởi vậy, đời sống văn hoá làng của cƣ dân vùng châu thổ sông Hồng rất phong phú, đa
dạng về lễ hội truyền thống - là cơ sở để cha ông ta sáng tạo nên các loại hình nghệ
thuật dân gian, mà độc đáo nhất là Múa rối nƣớc, một di sản văn hoá phi vật thể đặc
sắc, hiện nay chỉ còn có ở Việt Nam.
Từ “trò chơi” mang yếu tố diễn xƣớng dân gian, Múa rối nƣớc đã trở thành bộ
môn nghệ thuật truyền thống mang đậm sắc thái, tâm hồn ngƣời Việt, giữ vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần, ảnh hƣởng sâu sắc trong giáo dục đạo đức và thẩm mỹ
đối với cƣ dân nông nghiệp vùng châu thổ sông Hồng. Múa rối nƣớc mang giá trị phản
ánh sinh động, chân thực về đời sống văn hoá của nông dân, nông thôn vùng châu thổ
sông Hồng, thể hiện mối quan hệ tƣơng tác giữa con ngƣời Việt với thiên nhiên.
Qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, cùng với những giai đoạn biến thiên
của lịch sử, Múa rối nƣớc truyền thống cũng trải qua những thăng trầm, lúc phát triển
rực rỡ, khi lại trầm lắng, rơi vào nguy cơ mai một. Do đặc điểm hoạt động theo các
phƣờng hội với bí quyết giữ nghề, khép kín, nên Múa rối nƣớc có nguy cơ thất truyền

theo thời gian (đã có nhiều trò diễn, ngón nghề Múa rối nƣớc vì nhiều nguyên nhân
đến nay không còn nữa). Vì thế, đòi hỏi cần phải tìm ra giải pháp cho các đơn vị nghệ
thuật chuyên nghiệp, các phƣờng, hội có phƣơng thức hoạt động phù hợp, để phát
triển, bảo tồn và phát huy Múa rối nƣớc, cả hiện nay và trong thời gian tới, góp phần
thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về bảo tồn, phát huy nghệ thuật
truyền thống và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giao lƣu văn hóa diễn ra nhƣ một tất yếu, vấn đề
5

bản sắc văn hóa là yếu tố quan trọng để một dân tộc khẳng định mình. Nghị quyết
HN lần thứ 5 BCH TW Đảng (khoá VIII) đã xác định phải xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Múa rối nƣớc Việt Nam đƣợc thế
giới ngày càng quan tâm, yêu chuộng, nhìn nhận nhƣ một giá trị đặc biệt, góp phần
làm nên văn hóa Việt Nam, trong khi khán giả trong nƣớc không mặn mà, thậm chí
thờ ơ. Vậy giải pháp nào phù hợp cho Rối nƣớc Việt Nam và các đơn vị nghệ thuật
múa rối nƣớc phát triển trong điều kiện hiện nay để giải quyết đƣợc nghịch lý trên?
Cùng là nghệ thuật sân khấu truyền thống, nhƣng có lẽ Múa rối nƣớc là thể loại
nghệ thuật đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm muộn màng nhất. Trong thực tế, có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về các thể loại nghệ thuật sân khấu truyền
thống nhƣ Chèo, Tuồng , nhƣng cho đến nay, chƣa có công trình khoa học nào
nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá trong Múa rối nƣớc với những tiền đề văn hóa
trong nguồn gốc, sự hình thành, đúc rút các giá trị văn hoá của thể loại nghệ thuật này,
để từ đó có những định hƣớng trong quản lý và bảo tồn, phát triển nghệ thuật, gìn giữ
cho mai sau, gắn kết nó với công tác giáo dục thẩm mỹ và truyền thống trong học
đƣờng, giới thiệu về văn hoá Việt Nam với bạn bè thế giới và phát triển du lịch.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài Cơ sở hình thành và giá trị văn hoá
của Múa rối nước Việt Nam làm luận án để giải quyết các vấn đề đặt ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ cơ sở văn hóa và giá trị văn hóa
của Múa rối nƣớc Việt Nam, từ đó định hƣớng, đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát

huy Múa rối nƣớc trong văn hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một cách chọn lọc và có phát triển ở mức độ nhất định những
khái niệm về Múa rối, Múa rối nƣớc và những vấn đề lý luận về giá trị văn hóa để làm
tiền đề cho việc tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu.
- Tổng quan đƣợc tình hình nghiên cứu về Múa rối nƣớc.
- Khái quát đƣợc Múa rối nƣớc trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.
6

- Phân tích cơ sở văn hóa và đúc rút những giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc
Việt Nam.
- Đánh giá, nêu ra các thành tựu, những hạn chế tồn tại, chỉ ra đƣợc nguyên
nhân và đặt ra những định hƣớng, giải pháp bảo tồn, phát huy Múa rối nƣớc phù hợp
với vị trí, vai trò của nó trong nền văn hóa Việt Nam cũng nhƣ trong quá trình phát
triển của đất nƣớc hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là Múa rối nƣớc và môi trƣờng sinh thái -
nhân văn vùng châu thổ sông Hồng. Cụ thể: Điều kiện địa lý, môi trƣờng tự nhiên, xã
hội, đặc điểm cƣ dân, văn hóa làng vùng châu thổ sông Hồng; các đặc điểm, yếu tố
cấu thành trò diễn rối nƣớc nhƣ buồng trò, sân khấu, nơi xem, hệ thống điều khiển,
quân rối, nhân vật, trò và tích trò, văn học và âm nhạc, diễn xuất; một số trò diễn rối
nƣớc truyền thống và các nghệ nhân biểu diễn của các phƣờng, hội rối nƣớc tiêu biểu;
hoạt động biểu diễn của các phƣờng, hội rối nƣớc truyền thống, các nhà hát múa rối
nƣớc chuyên nghiệp; phƣơng thức tổ chức, hoạt động, quản lý múa rối nƣớc.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hƣởng của môi trƣờng tự nhiên,
xã hội của vùng châu thổ sông Hồng đến sự ra đời và tồn tại, phát triển của Múa rối
nƣớc. Tìm hiểu đặc trƣng nghệ thuật cũng nhƣ phƣơng thức tổ chức hoạt động biểu
diễn Rối nƣớc để thấy đƣợc cơ sở hình thành của nghệ thuật, rút ra những giá trị văn
hóa của thể loại nghệ thuật này.

Trong tiến trình lịch sử, văn hóa Việt Nam đã có nhiều tiếp biến, giao lƣu văn
hóa với nƣớc ngoài trên nhiều phƣơng diện khác nhau của đời sống xã hội. Đề tài này,
tập trung nghiên cứu khía cạnh giao lƣu, tiếp biến văn hóa thể hiện trong Múa rối nƣớc
đặt trong mối quan hệ với một số loại hình nghệ thuật sân khấu du nhập vào Việt Nam
nhƣ Kịch, Múa, Xiếc (tiếp biến văn hóa với nƣớc ngoài) Đồng thời, đề tài cũng
nghiên cứu mối quan hệ giữa Múa rối nƣớc với loại hình nghệ thuật sân khấu truyền
thống khác có nguồn gốc từ Việt Nam nhƣ Chèo (tiếp biến văn hóa vùng, tiểu vùng ở
7

Việt Nam), ở hai mặt nội dung và hình thức, để thao tác nghiên cứu, so sánh, đối
chiếu, phân tích một cách khái quát, tìm ra những nét riêng của Múa rối nƣớc dƣới góc
nhìn văn hóa học, mà không đi vào những chi tiết của nghệ thuật.
- Về không gian: Đề tài tập trung khảo sát Múa rối nƣớc khu vực châu thổ
sông Hồng, bao gồm 07 phƣờng rối nƣớc truyền thống và đơn vị nghệ thuật múa rối
nƣớc chuyên nghiệp. Đề tài lựa chọn nghiên cứu trƣờng hợp năm phƣờng rối nƣớc
truyền thống ở các địa phƣơng khác nhau: Đào Thục (Đông Anh, Hà Nội), Phú Đa
(Thạch Thất, Hà Nội), Nguyên Xá, Đông Các(Đông Hƣng, Thái Bình), Nhân Hòa
(Vĩnh Bảo, Hải Phòng) và hai đơn vị nghệ thuật múa rối nƣớc chuyên nghiệp: Nhà hát
Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối Thăng Long.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu Múa rối nƣớc trong sự phát triển văn hóa của
thời kỳ phong kiến Đại Việt (từ thế kỷ XI cho đến nay) để khái quát về nguồn gốc và
sự hình thành, phát triển của Múa rối nƣớc Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Tuy
nhiên, để phục vụ mục đích nghiên cứu cơ sở và giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc, đề
tài tập trung vào Múa rối nƣớc ở thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI cho đến nay, vì thời kỳ
này, văn hóa Việt Nam đã xuất hiện đình làng và thủy đình; qua đó hƣớng tới đề xuất
giải pháp cho việc bảo tồn, phát huy Múa rối nƣớc Việt Nam cho những năm tiếp theo.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án quán triệt chủ trƣơng, các quan điểm của Đảng CSVN; các văn bản
của Nhà nƣớc về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, về kế thừa di sản văn
hóa.

Để thực hiện mục tiêu đặt ra, đề tài sử dụng hệ thống các phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Phƣơng pháp liên ngành: Văn hóa học, Nghệ thuật học, Sử học. Vì nghệ thuật
sân khấu Múa rối nƣớc không chỉ là một loại hình văn học nghệ thuật, mà còn là một
thành tố của văn hóa. Do đó, với phƣơng pháp liên ngành, trong đó, phƣơng pháp Văn
hóa học là chủ đạo, ngƣời viết không chỉ tiếp cận đƣợc đối tƣợng nghiên cứu ở góc
nhìn hẹp của loại hình, mà còn thấy đƣợc nguồn gốc hình thành, tạo nên bản sắc, nét
riêng biệt trong thành tố cấu thành và đặc trƣng của nghệ thuật sân khấu Múa rối nƣớc,
8

cũng nhƣ thấy đƣợc sự vận động, tồn tại, phát triển và thích ứng của nó theo tiến trình
lịch sử đặt trong không gian văn hóa của chính nó ở Chƣơng 1 của luận án.
- Phƣơng pháp luận của lí thuyết tiếp cận địa - văn hóa, vùng văn hóa. Văn hóa
là một thực thể có sự vận động trong không gian và thời gian. Sự vận động của nó là
một tiến trình lịch sử và qua các vùng/miền khác nhau, với những điều kiện tự nhiên,
xã hội, lịch sử Từ một hiện tƣợng văn hóa, nếu đƣợc đặt trong nền cảnh không gian
mà nó nảy sinh, tồn tại, phát triển và đặt nó trong sự tƣơng tác với môi sinh sinh thái
(địa lý là một phần trong môi trƣờng), đồng thời với các hiện tƣợng văn hóa khác để từ
đó có quan hệ tƣơng đồng hay hội tụ (trong trƣờng hợp các nền văn hóa mặc dù ở cách
xa nhau, nhƣng lại nằm trong điều kiện tự nhiên và xã hội tƣơng đồng) và khuếch tán,
lan tỏa (nếu các tộc ngƣời chủ thể cũng nhƣ ngôn ngữ của họ xuất phát từ một gốc),
phát triển thành nghệ thuật có thể thấy đƣợc nguồn gốc và “nhân lõi” sâu xa ẩn chứa
bên trong.
Múa rối nƣớc là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian thể hiện đậm chất nhất
“sản phẩm” của nền văn hóa lúa nƣớc. Từ địa bàn sinh sống, điều kiện canh tác, sinh
hoạt, phong tục, tập quán, tâm linh của cƣ dân ngƣời Việt, cho đến nghệ thuật tạo hình
quân rối, cách thức tổ chức, quản lý và hoạt động Múa rối nƣớc cũng thể hiện bản
sắc của “văn hóa làng”. Xác định đƣợc lý thuyết, đề tài nghiên cứu văn hóa vùng châu
thổ sông Hồng, về những đặc điểm tự nhiên - xã hội với những yếu tố cụ thể nêu trên
để làm rõ cơ sở hình thành, nguồn gốc ra đời, chủ thể sáng tạo ra nghệ thuật Múa rối

nƣớc Việt Nam; đi sâu nghiên cứu văn hóa tiểu vùng, cụ thể là khu vực Đông Anh, Hà
Nội; Phú Đa, Thạch Thất, Hà Nội; Đông Hƣng, Thái Bình, Vĩnh Bảo, Hải Phòng,
những nơi có phƣờng rối nƣớc tiêu biểu trong các phƣờng hội rối nƣớc của các tỉnh
khu vực châu thổ sông Hồng. Trong đề tài, đặt ra một số câu hỏi sau để làm rõ các vấn
đề nghiên cứu về văn hóa của Múa rối nƣớc:
+ Múa rối nƣớc và sự ra đời của nó là kết quả của quá trình thích ứng, chinh phục,
tƣơng tác giữa cƣ dân Việt với thiên nhiên, môi trƣờng sống? Cơ sở văn hóa hình thành
của Múa rối nƣớc là gì?
+ Giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc thể hiện nhƣ thế nào?
9

+ Múa rối nƣớc cần đƣợc định hƣớng, phát triển ra sao để vừa bảo tồn, lƣu giữ,
phát huy giá trị của môn nghệ thuật truyền thống, vừa phát huy giá trị văn hóa thông
qua nhận thức, giáo dục con ngƣời, góp phần quảng bá đất nƣớc Việt Nam và phát
triển du lịch trong thời kỳ giao lƣu, hội nhập quốc tế hiện nay?
- Phƣơng pháp điền dã: Nhằm thu thập, chuẩn bị nguồn tƣ liệu xác thực, cập
nhật nhất. Vì vậy, quan sát, phỏng vấn, trao đổi ý kiến để thu thập thông tin về những
vấn đề liên quan đến Múa rối nƣớc đƣợc đặc biệt chú trọng. Đến các cơ sở múa rối
truyền thống, tìm hỏi các nghệ nhân cao tuổi, hay còn gọi là khai thác tài liệu sống
nhằm tìm hiểu về nguồn gốc, các tục lệ, về đặc điểm nghệ thuật Múa rối nƣớc ở
phƣờng hội mà các nghệ nhân đã biết hoặc còn giữ, đã có từ bao giờ? Cách thức tổ
chức quản lý hoạt động của phƣờng hội, thực trạng nhƣ thế nào?
- Phƣơng pháp nghiên cứu chọn mẫu: Múa rối nƣớc là nghệ thuật dân gian,
một hiện tƣợng văn hóa mang đậm dấu ấn văn hóa vùng của cả khu vực châu thổ sông
Hồng, đồng bằng Bắc bộ. Vì vậy, việc lựa chọn những nghiên cứu trƣờng hợp, chọn
mẫu nghiên cứu giúp nghiên cứu sinh có thể đi sâu vào từng điểm khảo sát trọng tâm,
để rút ra nhận định về bản chất vấn đề nghiên cứu, đó là xác định cơ sở văn hóa,
những giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc cũng nhƣ thực trạng hoạt động của các đơn vị
Múa rối nƣớc. Trong đề tài, chúng tôi chọn nghiên cứu trƣờng hợp phƣờng rối nƣớc
Đào Thục, (Đông Anh, Hà Nội), phƣờng Phú Đa (Thạch Thất, Hà Nội), và các phƣờng

Nguyên Xá, Đông Các (Đông Hƣng, Thái Bình), Nhân Hòa (Vĩnh Bảo, Hải Phòng),
Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối Thăng Long.
- Phƣơng pháp khảo tả, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp đƣợc dùng để nhận
thức và phân tích đối tƣợng nghiên cứu.
7. Đóng góp của luận án
7.1. Về mặt lý luận
- Lý giải sự hình thành, tồn tại, phát triển của Múa rối nƣớc trong tiến trình lịch
sử xuất phát từ cơ sở văn hóa Việt Nam, đã tiếp nhận, thích ứng, ảnh hƣởng của văn
hóa vùng châu thổ sông Hồng nhƣ thế nào.
10

- Phân tích, hệ thống những giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc Việt Nam để
khẳng định vai trò, vị trí của Múa rối nƣớc Việt Nam trong đời sống văn hóa cƣ dân
vùng châu thổ sông Hồng và trong văn hóa Việt Nam.
- Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ngƣời nghiên cứu tiếp
theo, những ngƣời quan tâm khi muốn nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề văn hóa của
nghệ thuật Múa rối nƣớc.
7.2. Về mặt thực tiễn
- Thông qua thực trạng mà luận án đã đánh giá, tổng kết những quan điểm,
định hƣớng, giải pháp và khuyến nghị trong việc bảo tồn, phát huy Múa rối nƣớc, giúp
cho các đơn vị nghệ thuật Múa rối nƣớc, các nghệ sĩ có đƣợc những suy nghĩ, lựa chọn
đúng đắn về đƣờng lối phát triển của nghệ thuật, cho công việc sáng tạo, đổi mới của
mình trong hoạt động Múa rối nƣớc, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nƣớc.
- Luận án sẽ là tƣ liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong việc nghiên cứu
quan điểm, lựa chọn giải pháp cho vấn đề bảo tồn và phát huy Múa rối nƣớc trong văn
hóa Việt Nam.
8. Bố cục của Luận án
Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang),
Phụ lục (25 trang), nội dung chính của luận án gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan về Múa rối nƣớc Việt Nam.

Chƣơng 2. Cơ sở hình thành Múa rối nƣớc Việt Nam.
Chƣơng 3. Giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc Việt Nam.
Chƣơng 4. Bảo tồn và phát huy Múa rối nƣớc Việt Nam.
11

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ MÚA RỐI NƢỚC VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Giá trị văn hóa
Các quan niệm về văn hóa đều cho thấy, lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi
điểm của văn hóa. Nhƣng sáng tạo đó phải hƣớng về các giá trị nhân bản, và kết tinh
thành giá trị, nhằm hoàn thiện con ngƣời thì mới trở thành văn hóa đích thực. Có nghĩa
là, nói văn hóa là đề cập đến giá trị, hệ giá trị trở thành yếu tố thực thể của văn hóa.
Bàn về giá trị, cho đến nay, cũng có không ít những định nghĩa, những quan
niệm khác nhau về giá trị, xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Giá trị đƣợc
xác định không phải bởi bản tính của thuộc tính tự nhiên, mà bởi tính chất cuốn hút
của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con ngƣời.
Theo sự giải thích của một số từ điển trong và ngoài nƣớc thì “giá trị” dùng để
chỉ phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con ngƣời; là cái
làm cho sự vật trở nên có ích, đáng quý; là ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể
đối với con ngƣời đƣợc phản ảnh trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, lý
tƣởng, tâm thế, mục đích.
Gần gũi với quan niệm này, T. Makiguchi - ngƣời sáng lập ra Hội giáo dục giá
trị của Nhật Bản, cho rằng “Giá trị là sự thể hiện có tính định hƣớng về mối quan hệ
giữa chủ thể đánh giá và đối tƣợng của sự đánh giá” [126,tr. 48].
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giá trị, nhƣng điểm gặp gỡ
chung của các định nghĩa này ở chỗ: Tất cả đều xem giá trị nhƣ là kết quả của hoạt
động đánh giá từ phía chủ thể (con ngƣời), có thể tựu chung lại nhƣ sau: 1) Giá trị là ý
nghĩa của những hiện tƣợng vật chất hay tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tích
cực của con ngƣời, là những thành tựu đóng góp vào sự phát triển của xã hội; 2) Giá

trị có tính lịch sử khách quan, tức là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào
đó, không phụ thuộc vào ý thức của con ngƣời mà do yêu cầu của từng thời đại lịch
sử, trong đó con ngƣời sống và hoạt động; 3) Giá trị đóng vai trò quan trọng trong đời
12

sống con ngƣời. Cách thức và hành động của con ngƣời trong xã hội đƣợc chỉ đạo của
các giá trị. Nó là cái mà con ngƣời dựa vào để xác định mục đích, phƣơng hƣớng cho
hoạt động của mình.
Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã
bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến
khả năng thôi thúc con ngƣời ta hành động và nỗ lực vƣơn tới. Có hai loại giá trị: giá
trị vật chất (thỏa mãn những nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (thỏa mãn những
nhu cầu tinh thần). Trong các giá trị tinh thần, ngƣời ta thƣờng nói đến giá trị khoa
học (cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính nghĩa, cái cách mạng), giá trị pháp luật
(cái hợp pháp), giá trị đạo đức (cái thiện, cái tốt), giá trị thẩm mỹ (cái đẹp). Mỗi giá
trị bao giờ cũng có một phản giá trị tƣơng ứng để làm thành một cặp hiện tƣợng đối
lập, tƣơng phản: Cái chân lý, cái thật, cái đúng và cái vô lý, cái giả, cái sai; cái chính
nghĩa và cái phi nghĩa; cái hợp pháp và cái phi pháp; cái thiện và cái ác; cái đẹp và cái
xấu; cái thành thần và cái ma quỷ… Trên bình diện khác, ngƣời ta có thể chia các lĩnh
vực giá trị thành giá trị kinh tế, giá trị chính trị, giá trị xã hội, giá trị khoa học, giá trị
đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử…
Nhƣ vậy, giá trị là một phạm trù rất rộng, bao quát một phạm vi rộng lớn trong
các quan hệ của con ngƣời với tự nhiên, với xã hội, với dân tộc, với thời đại, với giai
cấp. Giá trị với tƣ cách là thành tố quan trọng của các quan hệ văn hóa vì các hoạt
động nhận thức, ứng xử, sáng tạo đƣợc đánh giá bởi cộng đồng.
Trong văn hoá học, giá trị cùng với các khái niệm giá trị văn hóa, truyền
thống, bản sắc tạo nên một hệ thống các khái niệm khác nhau nhƣng có mối liên hệ,
giao thoa với nhau. Do vậy, khi tìm hiểu giá trị văn hoá, không thể không đề cập tới
các khái niệm liên quan.
Giá trị văn hóa là những tƣ tƣởng bao quát đƣợc tin tƣởng mạnh mẽ chung cho

mọi ngƣời về cái gì là đúng là sai, là thiện là ác, là đẹp là xấu, là hợp lý là phi lý, là
mong muốn và không mong muốn. Tuy nhiên, theo GS. Trần Văn Giàu thì: “Cái tốt cơ
bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hƣớng dẫn nhất định,
đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái
13

niệm giá trị truyền thống” [42, tr.51].
Giá trị văn hoá truyền thống đƣợc hiểu nhƣ là văn hoá và giá trị gắn với xã hội,
đƣợc hình thành trong quá trình lịch sử nhất định, là một bộ phận trong hệ giá trị tinh
thần của dân tộc. Nhờ những tính chất cơ bản về tính giá trị, tính lƣu truyền, tính ổn
định mà văn hóa truyền thống, để chỉ những cái gì đã hình thành từ lâu đời, đƣợc trao
truyền tiếp nối qua nhiều thế hệ, mang giá trị bền vững, đƣợc lịch sử thừa nhận. Do đó:
Theo thời gian, truyền thống ấy không phải lặp lại nguyên gốc mà có gạn
lọc, đổi mới, cách tân, phát triển thành một hệ giá trị mới, để rồi lại gia nhập
vào truyền thống. Truyền thống và cách tân là hai chiều ngang dọc dệt nên
bức tranh văn hóa đa sắc, làm nên giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam [42, tr.61].
Nhƣ vậy, truyền thống đƣợc hiểu nhƣ là các thành tố, các mặt của văn hóa, đặc
trƣng bởi tính ổn định, kế thừa và đƣợc trao truyền qua các thế hệ. Truyền thống hình
thành dần dần qua các hoạt động lịch sử của con ngƣời, bắt nguồn từ lịch sử. Tuy
nhiên, không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là truyền thống, mà chỉ những gì đƣợc
gìn giữ, kế thừa, mới gọi là truyền thống. Vì vậy, ở mỗi dân tộc, truyền thống thƣờng
đƣợc gắn liền với bản sắc. Văn hóa truyền thống là trở thành những khuôn mẫu đƣợc
cố định hóa dƣới dạng nghệ thuật, phong tục tập quán, nghi lễ, pháp luật
Nói đến những giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc là nói tới hệ giá trị văn hóa
truyền thống trong Múa rối nƣớc truyền thống của Việt Nam.
1.1.2. Múa rối
Bàn về nghệ thuật Rối, nhiều nƣớc trên thế giới, đều sử dụng khái niệm Sân
khấu Rối hoặc Rối mà phƣơng tiện biểu đạt là những con rối. Điều dễ hiểu khi sử dụng
khái niệm Sân khấu Rối hoặc Rối ở chỗ, từ khi ra đời, phát triển, cho tới hôm nay, con

rối chỉ là phƣơng tiện để biểu diễn những tích, những trò nhời rồi dần phát triển
thành sân khấu Kịch Rối Còn ở Việt Nam thì gọi nghệ thuật Rối là Múa rối.
Cho đến nay, ở Việt Nam, chƣa có một khái niệm chính thức mang tính học
thuật về khái niệm Múa rối. Căn cứ vào một số đặc điểm về quân rối, về kỹ thuật tạo
14

hình, lắp ráp quân rối, sân khấu và nghệ thuật biểu diễn Múa rối, các nhà nghiên cứu
đã đƣa ra một số khái niệm về Múa rối.
Nhà nghiên cứu Tô Sanh là ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm về Múa rối nhƣ
sau:
Múa rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một
cách cao độ, là sự phối hợp tài tình giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình với
kỹ thuật và nghệ thuật điều khiển, lấy con rối làm phƣơng tiện chủ yếu để
hoàn thành nhiệm vụ thể hiện mọi mặt phong phú của trí tƣởng tƣợng loài
ngƣời của hiện thực khách quan. Nó có khả năng tập trung hoà hợp nhiều
hình thức nghệ thuật, không gian và thời gian kể cả các loại hình sân khấu
khác. Nó phục vụ mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thiếu nhi. Múa rối có
rất nhiều loại. Nhân vật rối là trung tâm. Ngƣời diễn viên điều khiển thƣờng
che dấu kín, sân khấu của nó và bản thân nó cần phù hợp với kích thƣớc với
tính chất của ngƣời và rối, chứ không phải cơ bản do hoá trang ngƣời thật
hoặc máy móc quyết định [91, tr.17].
Trong từ điển Văn học, Nxb Khoa học xã hội - 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn
Huy Hồng cũng đƣa ra khái niệm về Múa rối:
Một loại hình sân khấu truyền thống của hầu khắp các dân tộc thế giới,
chuyên thể hiện nhân vật bằng diễn viên mang mặt nạ, đội lốt hay điều
khiển các con nộm, con giống … (quen gọi chung là con rối) làm trò, đóng
kịch. Con rối đƣợc sáng tạo, mô phỏng tự nhiên (động vật, thực vật) hay do
tƣởng tƣợng (nhƣ thần, tiên, ma, quỷ, rồng, phƣợng …) bằng mọi chất liệu
(gỗ, vải, giấy, bông, da, chất dẻo…) thành mọi kiểu (tƣợng, tròn, hình bẹt,
hình bông…) và cử động nhờ phƣơng tiện: Tay (rối tay), que (rối que), dây

(rối dây), máy (rối máy), gió (rối gió), hơi pháo (rối pháo), sức nƣớc (rối
nƣớc). Nghệ sĩ Rối luôn luôn giấu kín mình, điều khiển con rối thể hiện
hành động sân khấu cử động của thân hình nó và lời nói mƣợn ngƣời “lồng
tiếng” tạo nên sự kỳ diệu của vật chết “sống dậy”, tái hiện chuyện đời thực
và tƣởng tƣợng. Trong lịch sử văn hoá nhân loại, con rối đƣợc phát hiện có
15

mặt từ trong nền văn hoá Harappa (Ấn Độ), ở Việt Nam năm 1121 bia Sùng
Thiện Diên Linh đã ghi rõ rối nƣớc, rối cạn
1.1.3. Múa rối nước
Về khái niệm Múa rối nước, nhà nghiên cứu Tô Sanh cho rằng:
Múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối mà chỗ diễn của
con rối là mặt nƣớc ao, hồ hay bể rộng. Buồng trò của ngƣời điều khiển là
một cái nhà cất giữa ao hồ hoặc sát một mé hồ. Ngƣời điều khiển, ngâm
mình dƣới nƣớc nấp sau bức mành điều khiển con rối, thông thƣờng bằng
gỗ hoặc bằng chất liệu không thấm nƣớc, bằng cách giật dây hoặc khua sào
có đính con rối ở dây và đầu sào. Nƣớc che kín các loại que, dây, máy
điều khiển bên dƣới nƣớc. Có nhiều loại rối nƣớc, rối ao, rối bể (ngƣời đứng
ngoài bể cho tay vào điều khiển rối) rối nƣớc phối hợp với rối cạn Sân
khấu hoặc nhà hát cố định của Múa rối nƣớc là một cái nhà hai tầng tám
mái xây cất bằng gạch ngói, có từ lâu đời. Múa rối nƣớc là một bộ môn
nghệ thuật sân khấu nƣớc kỳ lạ chỉ còn thấy ở Việt Nam [91, tr.37].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng cũng quan niệm:
Rối nƣớc là loại nhà hát ngoài trời, lấy ao hồ làm nơi dựng buồng trò che
giấu nghệ thuật điểu khiển và mặt nƣớc làm sàn diễn cho quân rối làm trò
đóng kịch. Ngƣời xem ngồi đứng trên bờ bãi phía trƣớc và hai bên sân khấu.
Quân rối nƣớc là loại rối máy điều khiển ngầm từ xa bằng hai kiểu máy dây
và máy sào [47, tr.231].
Có thể nói, các khái niệm nêu trên của hai nhà nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh
vực nghệ thuật Múa rối, đều khẳng định Múa rối nói chung và Múa rối nước nói riêng

là một thể loại sân khấu truyền thống, làm trò và đóng kịch. Ngoài ra, còn rất nhiều
những khái niệm về Múa rối, song nhìn chung khái niệm về Múa rối ở Việt Nam là
tƣơng đối thống nhất, bổ sung cho nhau.
Múa rối nước là một trong những thể loại của nghệ thuật sân khấu truyền thống
Việt Nam, một trong những thành tố của văn hóa. Nghiên cứu Múa rối nước có thể
16

phác thảo diện mạo văn hóa, đặc trƣng văn hóa vùng của cƣ dân vùng châu thổ sông
Hồng.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Múa rối nƣớc xuất hiện và căn cứ vào lịch sử hình thành, có thể xác định là
môn nghệ thuật dân gian ra đời sớm nhất trong số các bộ môn nghệ thuật dân gian của
dân tộc Việt Nam, nhƣng so với các bộ môn nghệ thuật sân khấu truyền thống chuyên
nghiệp lại là bộ môn “có tuổi đời trẻ nhất”. Có lẽ do quan niệm là trò chơi dân gian
của ngƣời nông dân, nên công sức nghiên cứu dành cho Múa rối nƣớc đến nay thực sự
chƣa nhiều, và khá muộn màng. Các công trình nghiên cứu về Múa rối nói chung, Múa
rối nƣớc nói riêng, chỉ thực sự bắt đầu từ sau khi đƣợc công nhận là bộ môn nghệ thuật
truyền thống, cụ thể vào những năm 60 của thế kỷ XX và chủ yếu hƣớng nghiên cứu
nó dƣới góc nhìn nghệ thuật, theo thời gian, phải kể đến các công trình nhƣ sau:
1.2.1. Những nghiên cứu chung về Múa rối
Từ hƣớng tiếp cận về nghệ thuật Múa rối, đã có một số công trình nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc:
- A.Phêdôtôp với công trình Múa rối đƣợc xuất bản năm 1964 do Tô Kỳ Hoàng
dịch. Công trình này tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật múa
rối; giới thiệu một số thể loại rối: Rối nửa mình, rối dây, rối bóng.
- Vì một nền nghệ thuật Múa rối Việt Nam Xã hội chủ nghĩa là tổng hợp nghiên
cứu của nhiều tác giả do Ban nghiên cứu sân khấu xuất bản năm 1974, trong đó nghiên
cứu chuyên sâu về con rối, tạo hình trong nghệ thuật rối, lời của nhân vật trong trò rối,
động tác của rối, trang trí, nghệ thuật biên kịch rối
- Công trình Nghệ thuật Múa rối Việt Nam xuất bản năm 1974 của Nhà nghiên

cứu Nguyễn Huy Hồng là một tài liệu chuyên khảo cho bộ môn nghệ thuật truyền
thống này. Công trình nghiên cứu giúp tiếp cận một cách tổng quan những vấn đề khi
bƣớc đầu tìm hiểu về nghệ thuật Múa rối truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trong
phạm vi của một công trình mang tính đại cƣơng nên tác giả chƣa giải quyết đƣợc vấn
đề nghiên cứu, đó là nguồn gốc của Múa rối và lịch sử hình thành nghệ thuật Múa rối
17

Việt Nam. Tác giả khẳng định nghệ thuật tạo hình là cơ sở hình thành nghệ thuật Múa
rối, lấy đó làm căn cứ để lý giải quá trình hình thành nghệ thuật Múa rối. Đóng góp
lớn của tác giả ở công trình này là trình bày một cách hệ thống, logic về quá trình phát
triển của nghệ thuật Múa rối Việt Nam.
- Nghệ thuật Múa rối và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em, của Hoàng Kim
Dung (1992), là công trình nghiên cứu về nghệ thuật Múa rối trong phạm vi giáo dục
thẩm mỹ cho lứa tuổi nhỏ. Tác giả nhấn mạnh và phân tích vai trò của con rối - yếu tố
cơ bản chi phối tất cả các nghệ thuật tham gia tạo thành nghệ thuật của sân khấu Múa
rối. Dƣới góc độ tâm lý học, tác giả đƣa ra nhận định Múa rối là loại hình phù hợp tâm
lý thiếu niên, nhi đồng. Công trình nhìn nhận dƣới góc nhìn mới mẻ, tạo hƣớng mở
cho những ngƣời nghiên cứu tiếp theo tìm hiểu sâu hơn về đề tài này. Tuy nhiên, do
công trình mới dừng lại ở mức giới thiệu nên chƣa thể gợi ra đƣợc những vấn đề sâu
sắc để ngƣời đọc cùng suy ngẫm.
- Múa rối Việt Nam những điều nên biết (1997) là công trình đƣợc Hoàng Kim
Dung tập hợp các bài nghiên cứu, thể hiện một cách có hệ thống về hoạt động nghệ
thuật Múa rối Việt Nam đƣơng đại, về một số đơn vị nghệ thuật múa rối chuyên
nghiệp và một số gƣơng mặt nghệ sĩ múa rối tiêu biểu trong các vai trò đạo diễn, nghệ
sĩ biểu diễn, họa sĩ, nhà nghiên cứu. Công trình mang tính giới thiệu, chƣa thể hiện
đƣợc luận điểm nghiên cứu và giải quyết những bức xúc trong thực trạng đặt ra.
- Lịch sử nghệ thuật Múa rối Việt Nam (2005) là công trình mà ở đó nhà
nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng đã căn cứ vào những hiện vật và các tƣ liệu sử sách,
sƣu tầm đƣợc để suy luận về nguồn gốc, thời điểm ra đời của nghệ thuật Múa rối
truyền thống Việt Nam: “Có thể manh nha từ thời nhà Thục, khoảng thế kỷ III trƣớc

Công nguyên trở về trƣớc và từ các trò nhỏ phục vụ cho phƣơng thuật, tôn giáo, tín
ngƣỡng”. Tuy nhiên, con rùa – thần Kim Quy giúp An Dƣơng Vƣơng xây thành Cổ
Loa chỉ là truyền thuyết nên chƣa đủ cơ sở khoa học để khẳng định Múa rối nƣớc có
từ thế kỷ III trƣớc Công nguyên.
- Nghệ thuật Rối và một số đặc trưng của sân khấu Rối Việt Nam (2006) là một
chuyên khảo của tác giả Nguyễn Thành Nhân, nghiên cứu sâu dƣới góc nhìn nghệ
18

thuật. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các nhà nghiên cứu đi trƣớc và kết quả khảo cứu
của bản thân về một số nền nghệ thuật sân khấu Rối, một số trƣờng phái cùng đặc
trƣng cơ bản của nghệ thuật sân khấu Rối trên thế giới, công trình đã làm sáng tỏ
những đặc trƣng cơ bản của nghệ thuật sân khấu Rối Việt Nam, cùng những đặc điểm
mỹ học của Rối nƣớc Việt Nam. Cuốn sách là nguồn tƣ liệu tham khảo hữu ích cho
những ngƣời nghiên cứu tiếp theo về nghệ thuật Múa rối của Việt Nam. Tuy nhiên, dù
đặt ra một số câu hỏi về nguồn gốc, lịch sử hình thành của Múa rối nƣớc , nhƣng
cuối cùng tác giả cũng đành chấp nhận rằng: “Rối đã hình thành và phát triển từ rất lâu
rồi, từ xa xƣa”.
- Sơ thảo lịch sử sân khấu Việt Nam (2006) do Nhà xuất bản Sân khấu xuất bản
là tập hợp các công trình của nhiều tác giả về lịch sử sân khấu Việt Nam, phân tích bối
cảnh lịch sử xã hội để xác định thời điểm ra đời của sân khấu Việt Nam. Cuốn sách đã
đề cập đến diện mạo chung của nền sân khấu Việt Nam ở từng giai đoạn và đi vào các
thể loại sân khấu, trong đó có nghệ thuật Múa Rối. Tuy nhiên, vấn đề nêu ra dƣới góc
độ lịch sử mới dừng lại ở mức độ khái quát, sơ thảo, chƣa thể hiện đƣợc lịch sử sân
khấu Việt Nam một cách đầy đủ.
- Diễn xướng dân gian và nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam (2007),
một chuyên khảo khác của tác giả Nguyễn Huy Hồng, đề cập về các thể loại sân khấu
dân tộc của Việt Nam, trong đó, nghệ thuật Rối có ở Việt Nam, nhƣ một bộ phận cấu
thành. Công trình mang tính giới thiệu, lý luận chƣa làm rõ đƣợc mối quan hệ mật
thiết giữa diễn xƣớng dân gian với các thể loại nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
- Nối tiếp các công trình nghiên cứu nghệ thuật múa Rối, tác giả Văn Học với

cuốn Nghệ thuật Múa rối cổ truyền đất Thăng Long (2009) đã đề cập sự hình thành và
phát triển của nghệ thuật Múa rối truyền thống, giới hạn trong phạm vi Thăng Long -
Hà Nội. Tuy vậy, nội dung phân tích của tác giả về đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội
của vùng đất Thăng Long - Hà Nội chƣa đủ thuyết phục về sự hình thành nghệ thuật
Múa rối nƣớc. Đây chính là vấn đề mà những ngƣời nghiên cứu tiếp theo rút kinh
nghiệm khi tìm hiểu, lý giải về sự hình thành nghệ thuật Múa rối nƣớc Việt Nam.
- Nghiên cứu chung về Múa rối còn phải kể đến tập hợp các bài nghiên cứu của
19

rất nhiều tác giả trong nƣớc, tiêu biểu nhƣ Trần Văn Nghĩa với bài “Múa rối Việt
Nam” (1967), Ngô Quỳnh Giao với bài “Múa rối trên đường phát triển” (1991),
Vƣơng Duy Biên với “Giá trị mỹ thuật trong nghệ thuật múa rối” (2001), Đỗ Trọng
Quang với bài “Múa rối và tạo hình rối” (2001), Phạm Đức Dƣơng với “Sân khấu
múa rối - con rối - sứ giả của thế giới tâm linh (2001) Trong các nghiên cứu này,
Múa rối nƣớc đƣợc đề cập đến chủ yếu tiếp cận dƣới góc độ nghệ thuật, bƣớc đầu cho
ngƣời đọc cái nhìn sơ lƣợc về lịch sử nghệ thuật, nét độc đáo của nghệ thuật với sự
phân biệt giữa các thể loại rối, tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình, giá trị mỹ thuật trong
Múa rối. Một số bài viết tìm hiểu về giá trị giáo dục, thẩm mỹ của nghệ thuật này để
có những kiến nghị gắn nghệ thuật với giáo dục ý thức, giáo dục đạo đức truyền thống
cho thiếu nhi trong các nhà trƣờng. Đặc biệt, phải kể đến bài viết của tác giả Phạm
Đức Dƣơng với “Sân khấu múa rối - con rối - sứ giả của thế giới tâm linh (2001), bởi
cách tiếp cận nghệ thuật Múa rối dƣới góc nhìn văn hóa học. Tác giả đã khái quát, đƣa
ra luận điểm về giá trị văn hóa tâm linh trong nghệ thuật Múa rối. Luận điểm này sẽ
đƣợc luận án tiếp thu, nghiên cứu sâu hơn, làm rõ nó nhƣ một thành tố trong hệ giá trị
văn hóa của Múa rối nƣớc Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình về Múa rối nêu trên, phần lớn đều tập trung nghiên
cứu dƣới góc độ nghệ thuật học, lịch sử học. Tuy có một số công trình tiếp cận từ góc
độ văn hóa học, nhƣng chỉ liên quan tới văn hóa tâm linh trong Múa rối và chƣa có
tính khái quát cao về văn hóa học.
1.2.2. Những nghiên cứu chuyên biệt về Múa rối nước

1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Nghệ thuật Múa rối nước (1976) của Tô Sanh có thể đƣợc xem là một công
trình chuyên khảo đầu tiên về nghệ thuật Múa rối nƣớc. Thông qua các phƣơng pháp
điền dã, khảo cứu tác giả đƣa ra những nhận định cơ bản, quan trọng về nguồn gốc
của Múa rối, từ đó, đƣa ra định nghĩa về nghệ thuật Múa rối, giới thiệu các thể loại Rối
thƣờng thấy trên thế giới. Đi sâu vào nội dung trọng tâm của đề tài, tác giả giới thiệu
thể loại Rối nƣớc, những đặc trƣng và phƣơng thức biểu diễn, đƣa ra kết luận về
nguồn gốc lịch sử hình thành nghệ thuật Múa rối nƣớc, khái quát về quá trình phát
20

triển của nghệ thuật Múa rối nƣớc Việt Nam. Công trình là một cuốn chuyên khảo có
giá trị cao, nội dung hệ thống tƣơng đối đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật Múa rối
nƣớc. Tác giả là ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm về Múa rối nƣớc, nguồn gốc lịch sử
hình thành Múa rối nƣớc, và các dấu mốc quan trọng của Múa rối nƣớc trong nền nghệ
thuật sân khấu Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu quan trọng và giá trị của nó hiện vẫn
đƣợc giới nghiên cứu công nhận, kế thừa.
- Tiếp theo, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng đi vào nghiên cứu trƣờng hợp
về Nghệ thuật Múa rối nước Thái Bình (1987). Nội dung trọng tâm của cuốn sách, tác
giả đã giới thiệu về sân khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ nhân, phƣờng
hội, trò và tích trò, nhân vật và chú Tễu, biểu diễn, văn học, âm nhạc, các phƣờng hội
rối nƣớc dân gian tiêu biểu ở Thái Bình. Công trình mang tính tƣ liệu tham khảo và
đƣợc tác giả sử dụng vào công trình Rối nƣớc Việt Nam (1996) của mình.
- Đi sâu vào vấn đề nghiên cứu thể loại, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng
tiếp tục với công trình Rối nước Việt Nam (1996). Tác giả đã tiếp cận dƣới góc nhìn
văn hóa học để suy luận, diễn giải về tiền đề văn hoá của Múa rối nƣớc: Đặc điểm tự
nhiên - xã hội, cƣ dân trồng lúa nƣớc, của làng xóm, của nền sản xuất tiểu nông và tiểu
thủ công nghiệp, sân khấu dân gian kỳ ảo để khẳng định vị trí của Rối nƣớc trong
đời sống văn hóa của cƣ dân, trong nền văn minh sông Hồng cũng nhƣ trong truyền
thống văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, công trình đi sâu chi tiết, phân tích các yếu tố cấu
thành nghệ thuật Múa rối nƣớc. Vì vậy, vấn đề văn hóa có đƣợc đặt ra, nhƣng mang

tính gợi mở và không đƣợc luận bàn sâu nhƣ một nội dung chính của công trình. Đây
chính là góc nhìn sâu sắc về văn hóa trong nghệ thuật Múa rối nƣớc Việt Nam mà
nghiên cứu sinh đi sâu khai thác, tìm hiểu trong nội dung của luận án.
- Rối nước (2009), là công trình nghiên cứu của nhà văn hóa Hữu Ngọc và
Lady Borton. Cuốn sách đã giới thiệu với bạn bè thế giới dƣới dạng trả lời các câu hỏi
ngắn gọn, dễ hiểu, giúp ngƣời đọc có thể hiểu đƣợc một cách cơ bản (tất nhiên chƣa
đầy đủ) những vấn đề liên quan đến nghệ thuật Múa rối nƣớc Việt Nam, nét đặc sắc
của văn hóa Việt Nam cũng nhƣ con ngƣời Việt Nam trong nghệ thuật Múa rối nƣớc.
Đây là công trình đầu tiên thể hiện bằng song ngữ Tiếng Việt và Tiếng Anh, rất hữu
21

ích cho ngƣời nƣớc ngoài khi tìm hiểu, khám phá về Múa rối nƣớc Việt Nam.
Tác giả cho rằng Từ Đạo Hạnh là ngƣời sáng lập và là vị thần bảo hộ nghệ
thuật Múa rối nƣớc. Tuy nhiên, chƣa đủ cơ sở khoa học để khẳng định Từ Đạo Hạnh
là ngƣời sáng lập ra Múa rối nƣớc vì nhiều phƣờng rối lại có các ông tổ khác.
- Nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam (2012), của tác giả Hoàng Chƣơng cũng
tìm hiểu về lịch sử hình thành sân khấu Múa rối nƣớc Việt Nam với tinh thần: Không
phải từ Trung Quốc truyền sang ta. Tác giả cũng dành phần lớn nội dung nghiên cứu
về mỹ thuật sân khấu Múa rối nƣớc, đề xuất một số giải pháp mang tính định hƣớng,
giữ gìn, bảo tồn, phát triển nghệ thuật Múa rối nƣớc.
Tiếp theo, nghiên cứu về nghệ thuật Múa rối nước qua hệ thống các bài viết
của rất nhiều tác giả: Phạm Đức Dƣơng, Trần Quốc Vƣợng, Trần Văn Khê, Nguyễn
Huy Hồng, Hoàng Kim Dung, Nguyễn Dƣơng Côn, Yên Giang, Ngô Quỳnh, Vũ Tú
Quỳnh, Nguyễn Hoàng Minh Vân, Lê Hƣơng Giang theo hƣớng tiếp cận từ văn hóa
dân gian, văn hóa tâm linh đến nghệ thuật học, sân khấu học Hoặc có nghiên cứu về
những nét đặc sắc, độc đáo trong nghệ thuật Múa rối nƣớc làng Gia, làng Đống, Đào
Thục, Đông Các riêng biệt. Trong đó, đáng chú ý:
Bài “Múa rối nước - Múa rối Việt Nam” của Trần Văn Khê. Ở đây, tác giả đã
giới thiệu các thể loại rối, cách phân loại rối theo vị trí của ngƣời điều khiển. Từ đó,
tác giả đi sâu vào lý giải rằng ngƣời Trung Quốc thƣờng đặt tên cho những nhạc cụ

theo cách phiên âm, kể cả đối với nhạc cụ từ nƣớc ngoài nhập vào. Chữ “khối lỗi”
dùng để chỉ con rối cũng là một chữ phiên âm, có lẽ từ chữ “rối” của Việt Nam, nên đã
suy luận: Múa rối nƣớc là một nghệ thuật xuất phát từ nông thôn Việt Nam, liên tục
cha truyền con nối từ thế kỷ X và còn mãi đến ngày nay.
Trần Quốc Vƣợng với bài “Bàn về hệ sinh thái nhân văn của Múa rối nước
Việt Nam” (2001) dƣới góc nhìn văn hóa học, đã khẳng định Múa rối nƣớc - nghệ
thuật mang bản sắc dân tộc độc đáo của ngƣời Việt ở châu thổ Bắc bộ, qua các hệ
sông - hồ - đầm - ao - ruộng lúa nƣớc. Đó cũng chính là các hệ sinh thái nhân văn
của nghệ thuật Rối nƣớc cổ truyền trong tổng thể hệ sinh thái nông nghiệp rất đa
dạng của Việt Nam.
22

Ngoài ra, còn các bài viết của Trần Lâm với bài “Đôi nét về nghệ thuật tạo
hình trong nghệ thuật rối Việt” (2001); Vũ Tú Quỳnh với các bài viết “Múa rối nước
- nghệ thuật của những biểu tượng” (2001) và “Thủy đình rối nước có phải là sản
phẩm của dân gian” (2010) Các nghiên cứu trên đã bàn về nghệ thuật tạo hình trong
quân rối Việt, về yếu tố tâm linh trong Múa rối nƣớc, về đời sống sinh hoạt dân dã gắn
với văn hóa ao làng, và đã đƣa nghệ thuật này trở thành biểu tƣợng của cuộc sống
nông nghiệp
Nghiên cứu chuyên sâu về Múa rối nƣớc cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trẻ
quan tâm, thể hiện ở tập hợp những công trình nghiên cứu dƣới dạng luận văn Thạc sĩ,
luận án Tiến sĩ, đó là:
Phạm Trọng Toàn (1997), Tìm hiểu nghệ thuật Múa rối nước cổ truyền làng
Nguyễn, luận văn Thạc sĩ Văn hóa học. Luận văn nghiên cứu trƣờng hợp một làng rối
nƣớc truyền thống ở tỉnh Thái Bình, đi vào hƣớng nghiên cứu và tìm hiểu Múa rối
nƣớc ở khía cạnh giá trị nghệ thuật. Trên cơ sở bản sắc làng Nguyễn, nghệ thuật Múa
rối nƣớc cổ truyền làng Nguyễn, tác giả đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp kế thừa,
phát huy những giá trị đặc sắc của nghệ thuật Múa rối nƣớc làng Nguyễn trong nghệ
thuật Múa rối nƣớc Việt Nam.
Nguyễn Văn Định (2007), Nghệ thuật Múa rối nước làng Đống, luận văn Thạc

sĩ Văn hóa học, đã đề cập tới sự hình thành và phát triển nghệ thuật Múa rối nƣớc, về
đặc điểm nghệ thuật của rối nƣớc làng Đống cũng nhƣ quá trình hình thành phát triển
nghệ thuật Múa rối nƣớc làng Đống. Tác giả cũng hệ thống đƣợc về mặt nội dung, 14
tích trò và một số kỹ thuật thể hiện, các bài bản âm nhạc đƣợc sử dụng trong Múa rối
nƣớc làng Đống Tuy nhiên, nội dung của luận văn chủ yếu chỉ giới thiệu về môi
trƣờng tự nhiên, xã hội, cƣ dân làng Đống nên chƣa thấy đƣợc tính logic của các vấn
đề liên quan về mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên - xã hội, văn hóa của cƣ dân làng
Đống với Múa rối nƣớc làng Đống. Luận văn cũng nghiêng về hƣớng nghiên cứu và
tìm hiểu giá trị nghệ thuật của Múa rối nƣớc, vì vậy, vấn đề văn hóa trong Múa rối
nƣớc thì chƣa đƣợc thể hiện rõ nét trong nội dung nghiên cứu.
Lê Hƣơng Giang (2008), Nghệ thuật Múa rối nước ở Hà Nội, luận văn Thạc sĩ
23

Văn hóa học. Luận văn đã trình bày về sự ra đời và phát triển cùng những đặc trƣng
của nghệ thuật Múa rối nƣớc ở Hà Nội, so sánh giữa nghệ thuật Múa rối nƣớc dân gian
tồn tại trong các phƣờng, hội và rối nƣớc chuyên nghiệp nhằm xác định những yếu tố
dân gian truyền thống bên cạnh tính chuyên nghiệp của Rối nƣớc Hà Nội hiện nay.
Tuy dành một chƣơng phân tích thực trạng nghệ thuật Múa rối nƣớc Hà Nội hiện nay
nhƣng tác giả chƣa chỉ ra đƣợc nguyên nhân khó khăn của thực trạng đó để làm cơ sở
đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát triển nghệ thuật Múa rối nƣớc.
Nguyễn Hoàng Minh Vân (2011), Hoạt động của các phường rối nước ở châu
thổ sông Hồng - Thực trạng và giải pháp, luận văn Thạc sĩ Văn hóa học. Luận văn đã
tập trung nghiên cứu hoạt động của 06 phƣờng rối nƣớc tiêu biểu của vùng châu thổ
sông Hồng. Tác giả đã đề cập đến những tiền đề văn hóa trong Múa rối nƣớc cũng nhƣ
ảnh hƣởng của nó trong đời sống văn hóa cƣ dân vùng châu thổ sông Hồng, từ đó đúc
rút những giá trị văn hóa của Múa rối nƣớc. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn
thạc sĩ, và hƣớng nghiên cứu tập trung vào hoạt động của các phƣờng Rối nƣớc, nên
nội dung liên quan đến những vấn đề văn hóa trong Múa rối nƣớc chƣa đƣợc thể hiện
sâu sắc.
Trần Thị Minh (2012), Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật Múa rối

nước ở vùng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch, luận văn thạc sĩ
ngành Du lịch. Luận văn đã tổng quan về Múa rối nƣớc đồng bằng Bắc bộ và vai trò
của Múa rối nƣớc trong du lịch, đề xuất một số giải pháp khai thác Múa rối nƣớc trong
phát triển du lịch. Đây là một hƣớng nghiên cứu rất mới mẻ về Múa rối nƣớc. Tuy
nhiên, ở nội dung nghiên cứu về giá trị văn hóa và nghệ thuật của Múa rối nƣớc, ngƣời
đọc dễ nhận thấy là tác giả tập trung vào việc phân tích vấn đề khai thác hoạt động tổ
chức biểu diễn Múa rối nƣớc để phục vụ phát triển du lịch.
Vũ Tú Quỳnh (2012), Sự phục hồi của Rối nước đồng bằng Bắc bộ từ đổi mới
đến nay, luận án tiến sĩ Văn hóa học, đã coi Múa rối nƣớc nhƣ hiện tƣợng văn hóa dân
gian trong xã hội hiện đại cần phải giải quyết những vấn đề truyền thống và đổi mới,
bảo tồn và phát triển. Luận án đã đi sâu tìm hiểu và làm rõ thực trạng “suy tàn” của
Múa rối nƣớc trong giai đoạn trƣớc đổi mới (cho đến trƣớc năm 1986) thông qua khảo

×