Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH lạm PHÁT ở VIỆT NAM GIAI đoạn từ năm 2008 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.34 KB, 37 trang )

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài.
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều
đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những
tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát
một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường.Nó là
một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ
thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá tiền
tệ. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải
pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất
cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị
trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay để đánh giá
sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh
tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy
sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương
trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm
bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn
là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm
phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết
quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là
nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến
đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững
nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.


Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên
cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau
đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực
trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức
mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Bài viết này với đề tài: “ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2008 ĐẾN NAY”. Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết,
cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến
thức còn hạn chế, chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp
để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn
2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nhằm mục đích nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lạm phát, tình hình lạm
phát và lý luận về các biện pháp giảm thiểu lạm phát để ổn định và phát triển kinh tế.
Từ đó tìm ra tính quy luật phổ biến của lạm phát ở một quốc gia đang phát triển như là
nước ta, đặc biệt là đưa ra các đề xuất, các biện pháp can thiệp để kiềm chế lạm phát ở
Việt Nam.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu :
Những thông tin chung liên quan đến tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn
2008 đến nay.
Những số liệu liên quan đến thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008
đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến nay
(tháng 04 năm 2014).
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin là chủ yếu.
- Xây dựng dàn ý nội dung nghiên cứu sơ lược.
- Tìm hiểu vấn đề qua các nguồn tài liệu khác nhau như mạng internet, báo chí, truyền
hình và các tài liệu liên quan về kinh tế, sau đó lựa chọn thông tin cần thiết phù hợp với

bài nghiên cứu. Từ đó, bằng phương pháp tổng hợp, so sánh để phân tích, đánh giá.
- Lập dàn ý nội dung chi tiết cho bài nghiên cứu, sắp xếp thông tin thành các phần, các
luận điểm cho phù hợp.
- Liên kết các bộ phận thông tin của bài dàn ý thành một bài nghiên cứu hoàn chỉnh.
Chương I: Cơ sở lý luận về tình hình lạm phát
1.1 Khái niệm của lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các
yêu cầu quy luật kinh tế hàng hóa không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thong tiền
tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hóa, còn tồn lại những quan hệ hàng hóa thì ở đó con tiềm
ẩn khả năng gây ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật lưu thông tiền tệ
bị vi phạm. Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của nhiều người, do đó lạm phát được
đề cập đến rất nhiều trong công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều
đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng nghiên cứu của mình
Theo Các Mac: Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng
hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình: “Điều này có nghĩa là
khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành lưu thông vượt qua số lượng vàng mà
nó đại diện thì giá trị tiền của tiền giấy giảm xuống, giá cả tăng vột, tình hình lạm phát
xuất hiện”. Từ đây ông cho rằng lạm phát là “ bạn đường “ của chủ nghĩa tư bản.
Không những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây
ra lạm phát giảm tiền lương của người lao động
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: “ Lạm phát xảy ra khi mức cung của giá cả và chi
phí tăng – Giá bánh mì, xăng dầu, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản
xuất tăng”. Ông cho rằng lạm phát chính là sự biểu thị sự tăng lên của giá cả
- Còn Milton Friedman lại quan niệm khác: Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài.
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ va phái Keynes đều tán thành ý kiến của
Friedman. Họ cho rằng thị trường tiền tệ phát triển ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân
của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào. Nó chính là hiện tượng
tất yếu của tài chính tiền tệ.
- Một khái niệm nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và được sử dụng

rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường:”Lạm phát là sự tăng lên của mức giá
trung bình theo thời gian. Tức là:
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI
(Consmuner Price Index) và chỉ số điều chỉnh thu nhập quốc dân
+ CPI thể hiện sự thay đổi tính theo phần trăm trung bình của giá hàng tiêu
dùng qua một thời gian nhất định. Do không thể tính tất cả giá hàng hóa trên thị trường.
CPI được tính trên cơ sở bình quân gia trọng của tập hợp một số hàng hóa đại diện. VD:
CPI ở Việt Nam được tính dựa vào 130 nhóm hàng tiêu biểu. Trong tập hơp tinh CPI,
lương thực chiếm trọng số rất cao trong các nước nghèo nhưng lại thấp ở các nước giàu.
+ Chỉ số điều chỉnh GDP có thể phản ánh toàn diện hơn những thay đổi giá
trong nền kinh tế. Chỉ số này xem xét không chỉ hàng tiêu dùng mà còn tư liệu sản
xuất.
+ Còn có những dạng khác của lạm phát. Siêu lạm phát xảy ra khi CPI tăng
hàng trăm phần trăm mỗi năm. Giảm lạm phát xảy ra khi CPI tăng nhưng với một tốc
độ thấp hơn giai đoạn trước.
1.2 Phân loại lạm phát
Có rất nhiều phương thức phân loại lạm phát, nhưng cách phân loại phổ biến
nhất là dựa vào tỷ lệ lạm phát. Căn cứ vào cách phân loại đó lạm phát bao gồm:
- Lạm phát vừa phải
+ Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát một con số có tỉ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát vừa phải có thể làm cho giá cả biến động tương đối. Trong
thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định.
Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gởi không cao. Không
xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn
- Có thể lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập. Trong khoảng thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít
rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh
Lạm phát vừa phải sẽ tạo hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế. Điều này đã được
chứng minh. Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Mức lạm phát vừa phải

làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi.
Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm.
Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
- Lạm phát phi mã
+ Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỉ lệ 2 hoặc 3 con
số một năm. Ở mức phi mã lạm phát làm cho giá cả chung tăng nhanh chóng, gây biến
động lớn về nền kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người đân tích trữ hàng
hóa, vàng bạc, bất động sản không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.
Loại này khi đã vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng
- Siêu lạm phát
+ Siêu lạm phát (mức độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số hàng năm) xảy ra khi
lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh
chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền
lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính
xác, các yếu tố thị trường khác bị biến dạng và hoạt động kinh doanh rơi vào tình trạng
rối loạn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.
Lịch sủ của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển diễn
ra trong thời gian dài vì vậy hậu quả của nó trầm trọng hơn và phức tạp hơn. Vì thế các
nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại.
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỉ lệ lạm phát dưới 50% một năm.
Lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỉ lệ lạm phát trên 50%. Siêu lạm
phát kéo dài trên 1 năm với tỉ lệ lạm phát trên 200% một năm
1.3 Biểu hiện của lạm phát
- Sự mất giá của một số loại chứng khoán có giá.
- Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng.
- Số lượng tiền ghi sổ tăng vọt nhanh chóng bên cạnh khối lượng tiền giấy phát hành ra
trong lưu thông.
- Lạm phát còn là công cụ chính sách của nhà nước nhằm kích thích sản xuất chống lại
thất nghiệp bù đắp chi phí thiếu hụt của nhà nước.
- Biểu hiện của lạm phát là tiền giấy bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng.

- Lúc đầu giá vàng tăng, sau đó lan rộng ra đối với giá cả các hàng hóa khác nhưng giá cả
các loại hàng hóa tăng không đều nhau.
- Lạm phát còn biểu hiện ở tỉ giá ngoại tệ bị tăng liên tục, điều này tạo ra lợi thế trong
hoạt động xuất khẩu hàng hóa .
- Lạm phát diễn ra 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu: Tỉ lệ lạm phát (tỉ lệ tăng giá) nhỏ hơn tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ,
nói cách khác tốc độ mất giá của tiền giấy chậm hơn tốc độ tăng tiền.
+ Giai đoại sau: Đây là bước phát triển nguy hiểm hơn của lạm phát, tỉ lệ lạm
phát (tỉ lệ tăng giá hay tỉ lệ mất giá thị trường của tiền tệ) cao hơn tỉ lệ tăng trưởng của
tiền tệ, nói cách khác tốc độ mất giá của tiền giấy lớn hơn nhanh hơn tốc độ tăng tiền.
1.4 Tác động của lạm phát
- Lạm phát tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế, cụ thể như lãi suất, thu nhập.
+ Lạm phát tác động tới mọi mặt của nền kinh tế chính trị và xã hội của một
quốc gia. Đáng kể đầu tiên là tác động tới lãi suất. Với hệ thống ngân hàng, để duy trì
và ổn định sự hoạt động của mình, nó luôn luôn cố gắn duy trì tính hiệu quả của cả tài
sản nợ và tai sản có. Nghĩa là luôn luôn giữ cho lãi suất thực sự ổn định.
Ta có: Lãi suất thực = Lãi suất thực – Tỉ lệ lạm phát
Do đó khi tỉ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn giữ cho lãi suất thực ổn định không
còn cách nào khác là lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỉ lệ lạm phát. Trong
một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị trường vấn đề lãi suất là cực kỳ quan trọng và
có tác động mạnh mẽ. Tăng lãi suất danh nghĩa dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải
gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp tăng.
+ Mặc khác lạm phát còn tác động đến thu nhập. Trong trường hợp thu nhập
danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao
động.
Ví dụ như với 1000000 đồng tiền lương/ tháng một công nhân sẽ mua được
100kg gạo với giá 10000đ/kg. Vào năm sau nếu tiền lương công nhân nay không đổi,
nhưng tỉ lệ lạm phát trong nền kinh tế tăng thêm 50% so với năm trước. Tức là giá gạo
tăng lên 15000đ/kg, so với tiền lương nhân được trong 1 tháng người công nhân này chỉ
mua được 66.6kg gạo.

Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức
tiền mặt) mà còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi. Tức là giảm thu nhập
thực tế từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà
nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao những người
đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỉ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền
thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao, mặc dù thuế suất vẫn không
tăng. Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thu nhập thực (sau khi đã
loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được giảm đi. Suy thoái kinh tế,
thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao đông trở nên khó khăn hơn, sẽ làm giảm
lòng tin của dân chúng đối với chính phủ. Từ đó, những hậu quả về chính trị xã hội có
thể xảy ra.
Nhìn một cách xác thực khi lạm phát xảy ra thì người bị thiệt hại là người làm
công ăn lương, những người cho vay là bị thiệt hại, còn những người có tài sản, những
người đang vay nợ là có lợi. Điều này tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẵng
giữa người cho vay va người đi vay, giữa công nhân và nhà tư bản. Hơn thế nữa, nó còn
thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu tư kiếm lợi. Do
vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế đẩy lãi suất tăng cao. Để tránh
thiệt hại đáng tiếc xảy ra thì chúng ta phải làm thế nào điều đó đã được một số nhà kinh
tế đưa ra bài toán lãi suất cần phải được điều chỉnh sao cho phù hợp đúng với tỉ lệ lạm
phát.
Một cách tổng quan hơn là khi có dự đoán về lạm phát thì người làm ăn kinh tế
ngầm dự trữ vàng, đầu tư vào bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra và nhờ bất động
sản đã giàu lên nhanh chóng. Và ngược lại khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại thì những kẻ
dự trữ vàng vẫn không bị thiệt hại gì trong tình trạng lạm phát tăng cao, người thừa tiền
và giàu có vơ vét và thu gom hàng hóa, tải sản. Khi ấy nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng
này càng mất cân đối nghiêm trọng quan hệ hàng hóa trên thị trường, giá cả hàng hóa
cũng lên cơn sốt cao hơn. Còn những người làm công đã nghèo nay càng nghèo hơn.
Họ thậm chí không mua nỗi những hàng hóa thiết yếu trong khi những kẻ đầu cơ càng
giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh
tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập và mức sống của người nghèo và người giàu.

- Lạm phát tác động tới công ăn việc làm và ngân sách nhà nước
Khi có lạm phát xảy ra, nói chung nó tác động làm tăng trưởng kinh tế và tạo ra
công ăn việc làm, đó là đối với nền kinh tế thị trường, nhưng đối với nền kinh tế bao
cấp thì sao? Đó sẽ là điều hoàn toàn ngược lại, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do nhà
nước quy định, chỉ tiêu giá cả được nhà nước ấn định, nên sự thúc đẩy của lạm phát với
gia tăng sản xuất là không có. Nhìn chung ở giai đoạn hiện nay mọi người đều có chỗ
làm cả nhưng không đủ việc để làm. Đây là một dạng thất nghiệp trá hình.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng lớn lên quá
nhanh chóng, nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh để đầu tư thêm, công ăn việc làm
cũng được tạo ra. Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và vốn bị bỏ không, không sử
dụng hết năng lực của nền kinh tế. Lúc này các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ
khác sẽ dễ dàng thu lại được, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không bị thiệt hại
gì cả mà chỉ có người gởi tiền mới bị thiệt hại. Nhưng nếu ngân hàng là của nhà nước
chủ yếu hoạt động bằng vốn ngân sách thì thật là mối nguy cơ khi có lạm phát, vốn
được cấp sẽ bị hao mòn dần, càng bổ sung thêm vốn thì tốc độ lạm phát sẽ càng tăng
nhanh. Tất nhiên lạm phát tăng lên thì có khuynh hướng tăng tiền lương và chi phí sản
xuất. Những khoản chi tiêu công (tiền công, tiền lương) thường tăng nhiều và nhanh
hơn những khoản thu nhập về thuế. Sự mất cân đối tự phát ấy của ngân sách nhà nước
làm tăng sự phồng lên của tiền tệ do những đợt bơm tiền mặt kho bạc thực hiện. Trong
điều kiện bao cấp do kinh tế phát triển không phù hợp với mức tăng của lạm phát nên
tài sản quốc gia bị mất mát đáng kể va đến khi Nhà nước thực hiện các biện pháp để
đẩy lùi lạm phát thì lập tức nhiều món tiền cho vay của nhà nước khó được hoàn trả (nợ
khó đòi tăng lên).
Tất nhiên Nhà nước cũng thấy qua tính toán thực là số tiền để trả nợ trong nước
có nhỏ dần đi. Nhưng tầm quan trọng của sự giảm nhẹ này tùy thuộc vào số tiền nợ so
với các khoản thu ngân sách. Và lạm phát kéo dài thì số nợ này càng bị cán mỏng thêm.
Vậy lạm phát chỉ lúc đầu mang lại thu nhạp cho ngân sách qua cơ chế phân phối
lại sản phẩm và thu nhập quốc dân. Sau đó ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những
nguồn thu của ngân sách (chủ yếu là thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém,
nhiều công ty giải thể…….trật tự an toàn xã hội bị phá vỡ nặng nề.

Tóm lại: hậu quả mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế là rất nặng nề và nghiêm
trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của một nước. Lạm
phát làm cho việc phân phối thu nhập và sản phẩm xã hội trong nền kinh tế qua giá cả
dã khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm
này thu được lợi lộc còn nhóm khác thì bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy nghĩ cho đến
cùng gánh nặng lạm phát lại đè lên vai người lao động. Chính người lao động là người
gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
1.5 Nguyên nhân của lạm phát
- Lạm phát tiền tệ
+ Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá có nhiều nguyên nhân dẫn đến
lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận lợi, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá
lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên.
Khi tiền lương tăng chi phí sản xuất cũng tăng lên dẫn đến các mặt hàng cũng tăng.
Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá
chung và có thể giải thích theo 3 cách
Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là hiện tượng tăng quá thừa mức cung tiền.
+ Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hóa và dịch
vụ trong nền kinh tế.
+ Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát xảy ra khi tăng chi phí sản xuất.
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên. Mỗi nguyên
nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỉ lệ lạm phát, mà dựa
vào đó ngân hàng Trung ương tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát
các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền
Tăng cung tiền có thể đạt được từ hai cách
+ Ngân hàng Trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp, điều kiện kinh
doanh tốt)
+ Ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng.
Trong cả 2 trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về
mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hóa và dịch vụ tăng. Nếu cung

không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên
giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi
tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng
nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi.
Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa M tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỉ lệ tương ứng.
Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất
chú trọng đến nguyên nhân này.
- Lạm phát cầu kéo
Hình 1: Lạm phát cầu kéo
Sự gia tăng bền vững của tổng cầu dẫn đến sự gia tăng bền vững của mức giá
chung. Lạm phát cầu kéo có thể được minh họa bằng những đường dịch lên trên của
tổng chi tiêu vượt ra ngoài mức toàn dụng nhân công trong mô hình chi tiêu - thu nhập
đơn giản, và vì vậy dẫn tới chênh lệch gây lạm phát, hoặc bằng những dịch chuyển của
đường tổng cầu của nền kinh tế về bên phải ra ngoài mức sản lượng toàn dụng nhân
công.
Để lạm phát xảy ra do tăng tổng chi tiêu thì cung tiền tệ danh nghĩa phải thường
xuyên được mở rộng. Bản thân việc tăng cung tiền tệ danh nghĩa có thể là nguyên nhân
gây ra sự dịch chuyển sang phải của đường cầu, hoặc có thể chỉ tạo dư cầu của các khu
Y
R0
R1
AS0
AD1
AD0
Y0
Y1
vực khác. Những người theo trường phái Keynes nhấn mạnh sự tăng nhanh trong các
khoản chi tiêu tự định, trường phái trọng tiền lại nhấn mạnh sự mất cân bằng trước
trong cung tiền như là nguyên nhân đầu tiên của dư cầu.

Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu. Nguyên nhân chính là do
tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kip.
Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến cầu về hàng hóa,
dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ,
sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hóa
vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc
với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng
của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng hay lạm phát
cầu kéo được ra đời từ đó.
Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu
cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng. Thu nhập dân cư, kể cả thu
nhập do xuất khẩu lao động và người than từ nước ngoài gởi về không được tính vào
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện một bộ phận dân cư những
nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu
lương thực trê thị trường thế giới tăng làm giá xuất khẩu tăng kéo theo cầu về lương
thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó nguồn cung trong nước do tác động
của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát
cầu kéo, đẩy giá một số hàng hóa và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
- Lạm phát chi phí đẩy
Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng và tăng thêm thất
nghiệp nên còn gọi là lạm phát “đình trệ”. Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ
phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển qua người tiêu dùng. Điều này
chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với
giá cao hơn.
Giá nguyên liêu, nhiên liệu (đặc biệt là xăng đầu, các sản phẩm hóa dầu, thép và
phôi thép) trên thế giới những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta
phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu (nhập khẩu chiếm đến 90% GDP) giá nguyên liệu
nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
Ví Dụ:

Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu
tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nhà
sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên,
công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí
sinh hoạt tăng lên, điêu đó tạo thành vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm
1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4.8% đến
13,5% bình quân trên thế giới
Chi phí tăng đẩy giá lên cao.
Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm
xuống Y
0
– Y
1
, AS
1
– AS
2
Chỉ tiêu khả năng cung ứng.
- Khi sản lượng vượt tiềm năng đường
AS có tốc độ lớn nên khi cầu tăng
mạnh,
AD – AD
1,
giá cả tăng từ P
0
– P
1
Ngoài ra sự suy sụp giá dầu năm 1980 làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp
chưa từng thấy

Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được
chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu
đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính
trị, an ninh quốc phòng. Song nguyên nhân trưc tiếp vẫn là số lượng tiền tệ lưu thông
vượt quá số lượng sản xuất hàng hóa ra. Việc tăng đột ngột thuế VAT cũng làm tăng
chỉ số giá.
- Các nguyên nhân khác
Giữa lạm phát và lãi xuất khi tỉ lệ lạm phát tăng lên, lãi xuất danh nghĩa tăng
theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càn giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc
biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát. Tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ gởi tiền
vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hay đẩy ra thị trường để mua về mọi hàng hóa có thể
dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên
cao.
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn, các chính phủ có thể in
thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên một nguyên nhân gây ra lạm
phát. Và một khi giá cả tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm 1
lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra
trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay
dân thông qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có
nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc
lẫn lãi) phải lớn đến mức phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là
điều chắc chắn.
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính
sách cơ cấu kinh tế không phù hợp. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào,
nguyên nhân do nước ngoài.
Chương II: Tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008 đến nay
2.1 Tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008 đến 2010
Tình hình lạm phát ở Viêt Nam trong giai đoạn 2008-2010 diễn biến khá phức
tạp. Để tìm hiểu rõ hơn diễn biến lạm phát trong giai đoạn này, ta tiến hành phân tích
từng năm 2008, 2009, 2010.

Hình 3: Diễn biến CPI trong giai đoạn 2008-2010
2.1.1. Tình hình lạm phát trong năm 2008
Trong hơn nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số một của nền kinh tế Viêt
nam. Tốc độ tăng giá tiêu dùng liên tục tăng ở mức 2%/tháng với đỉnh điểm vào tháng 2
và tháng 5 (tăng 3,91 %).
Hình 4: Diễn biến CPI trong năm 2008 (%)
Vào tháng 6/2008, giá hàng hóa trên thế giới bắt đầu giảm khiến tốc độ tăng lạm
phát đã giảm xuống mức dưới 2%/tháng (tháng 7-8/2008) và xấp xỉ 0%/tháng trong
tháng 9/2008.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bước vào giai đoạn bùng phát vào tháng
9/2008 và nhanh chóng lan tỏa tới các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn tới suy thoái kinh tế
toàn cầu. Việc cắt giảm đầu tư và tiêu dùng dẫn tới một sự giảm đột ngột về cầu khiến
cho nhiều giá nhiều mặt hàng giảm mạnh. Tính trong 4 tháng từ tháng 8 đến tháng
11/2008, giá nguyên liệu thế giới giảm 58% với đà giảm gia tăng. Giảm phát ở Việt
nam có độ trễ 2 tháng so với nước ngoài và chính thức bắt đầu từ tháng 10/2008.
Tháng 12/2008, chỉ số giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng
31,86%, trong đó lương thực tăng 43,25%, thực phẩm tăng 26,53%, ăn uống ngoài gia
đình tăng 33,62%. So với tháng 12/2007, chỉ số giá vàng tháng cuối năm nay đã tăng
6,83%, chỉ số giá USD tăng 6,31%. Còn so với tháng 11/2008, đóng góp vào mức tăng
âm của tháng 12/2008 là do các nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng giảm tới 2,36%;
nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%.
2.1.2. Tình hình lạm phát trong năm 2009
Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số
giá tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế
trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Hình 5: Diễn biến CPI trong năm 2009
Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các
tháng 2, 6, 9 và 12, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Trong 8 tháng
đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho
cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu

những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện
thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát.
Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0,32%. Nhưng đến tháng 2, Tết Kỷ Sửu và rằm
tháng Giêng kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt
lên mức cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI tăng 1,17%, trước khi đảo chiều giảm âm 0,17%
trong tháng 3 ngay sau đó.
Từ tháng 4 đến tháng 8 chỉ số giá hạ nhiệt chỉ còn tăng 0,24% trong tháng 8.
Mức chênh lệch trong giai đoạn này chỉ 0,31 điểm phần trăm và gần như không có đột
biến lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính cho tới tháng
8/2009 đã có sự cải thiện. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng đạt 18,4%, loại trừ yếu
tố giá còn tăng 9,3%. Trong khi đó, giá một số nguyên liệu trên thế giới bắt đầu hồi
phục, đặc biệt là mặt hàng xăng dầu. Tính cho đến ngày 30/8, giá xăng dầu đã tăng 7
lần liên tiếp, chốt lại mặt bằng giá mới ở mức xăng A92 có giá bán 15.700 đồng/lít.
Bước sang tháng 9, đã xuất hiện những diễn biến “ngược dòng”. CPI đạt đỉnh ở
mức tăng 0,62% rồi tạm “nghỉ” ở mức tăng 0,37% của tháng 10 sau đó. So với chu kỳ
trước, các con số đỉnh và đáy tương ứng đều cao hơn, báo hiệu những lo ngại tiềm ẩn
của lạm phát tiếp tục gia tăng. Sự điều chỉnh nhỏ trong tháng 10 được hỗ trợ một phần
từ việc giá xăng dầu giảm lần đầu tiên trong năm vào ngày 1/10. Giá lương thực, thực
phẩm chỉ tăng rất nhẹ so với tháng trước đó.
Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5%
tấn xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn
40% trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong
nước, CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó.
Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh.
Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến niềm vui chưa
thể trọn vẹn trong những ngày đón năm mới 2010.
2.1.3. Tình hình lạm phát trong năm 2010
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức
chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm
2007. Hai điểm cao nhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và

tháng 12, trong khi đáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ biến động quanh mức 0%,
xác định kỷ lục ngược với xu thể kể trên.
Hình 6: Diễn biến CPI trong năm 2010
Các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đều trên 1% và tiến gần 2% cũng không
phải quá bất thường, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng 3, khi chỉ số giá
tiêu dùng không chịu xuống mạnh như các năm trước.
Từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về gần sát
mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét về cao độ, các mức tăng này lập
kỷ lục về độ thấp kể từ 2004 đến nay. Tăng thấp giai đoạn giữa năm, thậm chí có năm
giảm một số tháng, không phải là bất thường do sản xuất ở giai đoạn này đã vào guồng,
cung cầu không có đột biến lớn. Tuy nhiên, mức tăng thấp kỷ lục của các tháng giữa
năm 2010 có sự khác biệt, một phần nhờ hiệu quả các chính sách vĩ mô.
4 tháng cuối năm, chỉ số CPI liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3 tháng đạt kỷ
lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần.
Nhìn trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổi
chính sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Những ngày năm mới
đang đến cũng đóng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại những
đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm tới.
2.1.4 Những chủ trương của nhà nước để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn 2008
đến 2010
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là
các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức,
cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân
hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại
tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự
trữ ngoại hối.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. Trong quý II năm 2011 trình

Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập
trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị
trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
- Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách
nhà nước
Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế: tập
trung xử lý các khoản nợ đọng thuế, triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu
hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.
Chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên
của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các
khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi
thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm).
Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát
chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực
hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng
phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước
ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ
nguồn vốn tín dụng nhà nước.
- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng
tiết kiệm năng lượng
Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung
- cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước
với điều hành xuất nhập khẩu. Thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong
nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt
hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá.
Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu
không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát
nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh

nghiệp Nhà nước.
Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi
nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… Xem xét, miễn,
giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất
xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu; tiếp tục thực
hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm
2011. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế
tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết
yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng. Hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc
diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành.
2.2 Tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2012
Nguyên nhân của tình trạng lạm phát cao trong năm 2011 về cơ bản là do tiền tệ
đã được nới lỏng trong một thời gian dài. So với các nước trong khu vực, tốc độ tăng
cung tiền M2 của Việt Nam khá cao. Tính trung bình giai đoạn 2000-2010, tốc độ tăng
cung tiền M2 của Việt Nam dẫn đầu khu vực với mức tăng 31,4%, sau đó là của Trung
Quốc (17,8%), Indonesia (13%), Philippines (10,2%), Malaysia (8,7%) và Thái Lan
(6,2%).
Riêng năm 2010, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam thậm chí lên tới 33,3%. Do
cung tiền tăng nhanh nên tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP của Việt Nam tăng lên rất nhanh.
Từ sau khủng hoảng tài chính 1997-1999, trong khi các nước trong khu vực có xu
hướng duy trì ổn định tỷ lệ cung tiền trên GDP thì tỷ lệ này luôn có xu hướng tăng ở
Việt Nam.
Tín dụng tăng nhanh đã giúp giới đầu cơ đẩy giá bất động sản tăng cao trong một
thời gian dài, đặt nền kinh tế trong trạng thái “bong bóng” bất động sản. “Bong bóng”
bất động sản khuyến khích người dân tiết kiệm ít đi và tiêu dùng nhiều hơn, tạo áp lực
cho giá cả.
Trước tình hình trên, Chính phủ đã đề ra chủ trương với các biện pháp mạnh,
CPI hằng tháng giảm nhanh, bắt đầu từ 8/2011. Lạm phát tháng 8/2011 (so cùng kỳ) là

23% đã giảm, đến 8/2012 chỉ còn 5%. Một nguyên nhân quan trọng của kết quả nêu
trên là việc, Ngân hàng Nhà nước đã bơm tiền ra thị trường bằng các kênh chính thức
(như hỗ trợ đầu tư, kể cả trái phiếu chính phủ, hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng
thương mại qua thị trường mở) và sau đó bằng các biện pháp nghiệp vụ đã thu tiền về
nhanh, làm cho việc cung tiền (qua M2) danh nghĩa thì lớn, nhưng tiền (nhất là tiền
mặt) thực sự tham gia lưu thông thì ít hơn.
2.2.1 Tình hình lạm phát trong năm 2011
Tình hình lạm phát từ đầu năm 2011 đến nay. Bước vào năm 2011, tình hình
trong nước và quốc tế đã xuất hiện những khó khăn, thách thức mới. Kinh tế thế giới có
những diễn biến phức tạp: Tăng trưởng kinh tế chậm lại, giá lương thực, thực phẩm,
dầu thô và nguyên vật liệu cơ bản trên thị trường quốc tế tiếp tục tăng cao, thị trường
chứng khoán sụt giảm mạnh, nợ công Châu Âu lan rộng, kinh tế Nhật Bản trì trệ sau
thảm hoạ kép, lạm phát toàn cầu và các nước trong khu vực tăng cao, bất ổn chính trị ở
Trung Đông.
Hình 7: Diễn biến CPI năm 2011
Trong nước, nền kinh tế tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
lớn hơn so với dự báo cuối năm 2010. Tăng trưởng kinh tế (GDP) có xu hướng chậm
lại. Lạm phát tiếp tục gia tăng, mặt bằng lãi suất cao, giá vàng biến động khó lường, tổn
thất do rét đậm, rét hại kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã tác động bất lợi đến sản
xuất nông nghiệp và đời sống nông dân
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đã lên đến mức cao nhất trong vòng hai năm qua, với
gần 14% trong tháng 3/2011 , trong khi chính quyền đang cố gắng ổn định nền kinh tế
sau thời gian dài dành ưu tiên cho việc tăng trưởng.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tăng với nhịp độ 13,9%
hàng năm. Nạn lạm phát là một trong những nỗi lo hàng đầu của các chính phủ châu Á,
nhưng ở Việt Nam lại càng đáng lo hơn. Tỷ lệ lạm phát trong quý 1 năm nay tăng trung
bình 12,79% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu là do giá thực phẩm tăng 17%.
Vào thời gian này, chính phủ tuyên bố sẽ theo đuổi “một chính sách tiền tệ chặt
chẽ và thận trọng”, với việc “giảm bớt đầu tư vào khu vực công và quản lý thâm hụt
thương mại” vốn đã lên đến 12,4 tỉ đô la trong năm 2010.

Chính Phủ đã xoa dịu nỗi lo ngại của các nhà đầu tư và nhà kinh tế hồi tháng 2,
thời điểm mà Ngân hàng Nhà nước loan báo phá giá đồng bạc lần thứ tư trong vòng 14
tháng, ở mức 9,3%. Chính quyền Hà Nội đã dành ưu tiên cho việc đấu tranh chống lạm
phát. Ngân hàng đã tăng một số lãi suất cơ bản và tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm
ổn định các chỉ số quan trọng. Ngược lại, chính phủ đã quyết định tăng giá xăng dầu lên
18% và giá điện lên 15% kể từ ngày 1/3.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng trước. Trong các
nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn nhiều mức tăng chung
là: Giao thông tăng 6,69%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,67%. Các nhóm hàng hóa
và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và
dịch vụ ăn uống tăng 1,98% (Lương thực tăng 2,18%, thực phẩm tăng 1,57%, ăn uống
ngoài gia đình tăng 3,06%), thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,22%. Các nhóm hàng
hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá bằng hoặc dưới mức 1% gồm : May mặc, mũ nón,
giày dép tăng 1,0%, văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,98%, giáo dục tăng 0,9%, đồ uống
và thuốc lá tăng 0,88%, thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,71%, bưu chính viễn thông tăng
0,02%.
Lạm phát gia tăng mạnh. Trong những tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng
CPI tăng rất cao. Giá tiêu dùng tháng 6/2011 so với tháng 12/2010 đã lên đến 13,29%
(so với cùng kỳ tăng đến 20,82%). Hiện nay, lạm phát của Việt Nam đang cao nhất
Châu Á, nhì thế giới, chỉ sau mỗi Venezuela, trong khi hiện nay Trung Quốc lạm phát
6,4%, Thái Lan 4%, Indonesia 5,5%, Philippines 4,7%.
Bên cạnh đó, chỉ số giá của tất cả các nhóm hàng trong rổ tính CPI đều tăng so
với cùng kỳ năm 2010, trừ nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm 6,43% so với cùng
kỳ. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm có tỷ lệ tăng mạnh nhất (tăng 30,15%
so với cùng kỳ năm 2010). Vì vậy, đây cũng là nhóm hàng đóng góp nhiều nhất vào tỷ
lệ tăng trưởng CPI (đóng góp 12,04% trong tổng số 20,82%), theo sau là các nhóm
hàng vật liệu xây dựng (2,18%) và giao thông (1,8%). Điều này cũng dễ hiểu, từ đầu
năm đến nay giá lương thực thực phẩm thế giới tăng cao (do bất ổn chính trị Trung
Đông, động đất Nhật Bản), giá xăng trong nước tăng kỷ lục vào đầu năm, giá điện tiếp
tục tăng 15,28% trong tháng 3/2011. Xu hướng tăng giá lương thực thực phẩm cũng

như các yếu tố đầu vào khác (xăng, dầu, điện) dự báo sẽ tiếp tục có những diễn biến
khó lường trong những tháng cuối năm.
Lạm phát tăng cao tác động đến xu hướng tăng mạnh của lãi suất huy động và
cho vay trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành thông tư 02/2011/TT-
NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam không vượt quá
14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất không lành mạnh giữa các ngân hàng, gây
bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, với trần lãi suất 14%/năm, cùng với việc tỷ lệ lạm phát
so với cùng kỳ đã lên đến 20,82%, lãi suất huy động và cho vay thực đang ở mức âm.
Vì thế, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã “xé rào” lãi suất huy động cả
VND và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân khoảng 17-18%/năm, lãi suất
cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm, trong đó lãi suất cho vay lĩnh vực
phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm, lãi suất huy động USD với mức 3-3,5%/năm, cao
hơn mức quy định là 2%. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng nếu không được
ngăn chặn triệt để sẽ có thể đem lại những hệ lụy lớn cho nền kinh tế và hệ thống ngân
hàng, đây là một áp lực lớn đối với cơ quan điều hành CSTT và hệ thống ngân hàng
trong thời gian tới.
Được tạo đà từ kỳ trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2011 tiếp tục hạ thấp
hơn, khi tăng 0,82% so với tháng 8. Góc nhìn tích cực là CPI đang tạo thành xu hướng
đi xuống với tốc độ tăng tháng sau so với tháng trước thấp dần trong khoảng 2 tháng
gần đây. Tuy nhiên, biên độ điều chỉnh không nhiều là điểm cần chú ý ở góc độ nhìn
nhận tác động vĩ mô.
So với chuỗi chỉ số giá tiêu dùng các tháng 9 của khoảng 15 năm gần đây, CPI
tháng này đứng thứ ba về mức tăng, chỉ thấp hơn tháng 9 năm 1998 và 2010, cho thấy
lạm phát còn tăng bất thường.
Với mức tăng vẫn treo khá cao, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 so với cuối năm
ngoái đã tăng 16,63%, cao hơn tới gần 1 điểm phần trăm so với con số được Tổng cục
Thống kê công bố tháng trước. Sức tăng CPI theo tháng như hiện nay là thách thức lớn
với mục tiêu kiềm chế lạm phát năm nay, mới được điều chỉnh lên khoảng 18%. Nhưng
do chỉ số giá theo tháng thấp hơn tháng 9 năm ngoái, CPI so với cùng kỳ đã rời đỉnh
23,02% tại tháng trước xuống chỉ còn tăng 22,42% trong tháng này, kết thúc chuỗi tăng

liên tiếp khoảng 1 năm nay.
Suốt từ nửa cuối tháng 7 đến hết tháng 9/2011, một số nguồn dữ liệu cho thấy
Ngân hàng Nhà nước không còn hút ròng qua thị trường mở. Ngược lại, lãi suất qua
đêm thị trường liên ngân hàng đột ngột tăng mạnh từ khoảng cuối tháng 8 đến đầu
tháng 9, giai đoạn này lãi suất từ khoảng 10,25% đã tăng lên đến đỉnh điểm có lúc gần
14%.
Đáng chú ý là CPI nhóm giáo dục tăng tới 8,62% so với tháng trước. Dù quyền
số chỉ ở mức 5,72% nhưng với mức tăng rất cao, nhóm này đã góp vào CPI chung cả
nước quá nửa, khoảng 0,49%.
Với nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, diễn biến tích cực là chỉ số giá thực phẩm
đã giảm sau nhiều tháng tăng liên tiếp. Mức giảm dù nhẹ, chỉ 0,28%, nhưng đủ kìm chỉ
số giá chung khoảng 0,07%. Tuy nhiên, với CPI lương thực tăng 1,53% và ăn uống
ngoài gia đình tăng 0,9% đã xóa sạch toàn bộ nỗ lực kể trên. Chỉ số giá nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống tháng này vẫn tăng 0,28%.
Chỉ số giá vàng tháng 9/2011 tăng mạnh 13,14% so với tháng trước; so với cuối
năm ngoái tăng gần 30,5% và so với cách đây một năm tăng trên 61%. Chỉ số giá USD
tương ứng tăng 0,8%; 1,12% và 7,78%.
CPI cả nước tháng 10 tăng 0,36% so với tháng 9. So với tháng 12/2010, CPI
tháng 10/2011 tăng 17,05% ; so với tháng 10 năm 2010 tăng 21,59%. So với tháng 9,
Nhóm giáo dục là nhóm có mức tăng lớn nhất, tăng 3,2%.
Tổng cục thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI cả nước tháng 10 năm
2011. Theo đó,CPI tháng 10/2011 tăng 0,36% so với tháng trước.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 0,06% trong đó lương thực tăng
1,27%, thực phẩm giảm 0,49% còn ăn uống ngoài gia đình tăng 0,67%.Nhóm hàng đồ
uống và thuốc lá tăng 0,49%Nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,63%. Nhóm thiết
bị và đồ dùng gia đình tawg 0,73%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%. Nhóm
giáo dục là nhóm có mức tăng lớn nhất, tăng 3,2%
Có 3 nhóm giảm so với tháng trước là:
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,03%. Nhóm giao thông giảm 0,13%.
Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17%

So với tháng 12/2010, CPI tháng 10/2011 tăng 17,05%, so với tháng 10 năm
2010 tăng 21,59%. 10 tháng đầu năm 2011, CPI cả nước tăng 18,5% so với cùng kỳ
năm 2010.
Không nằm trong nhóm các mặt hàng tính chỉ số giá, chỉ số giá vàng tháng 10
giảm 4,22% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,39% so với tháng trước.
2.2.2 Tình hình lạm phát trong năm 2012
Hình 8: Diễn biến CPI năm 2012
Như dự báo trước của nhiều tổ chức, lạm phát của Việt Nam năm nay chỉ tăng
6,81%, thấp hơn nhiều so với ngưỡng dưới 10% mà Chính phủ đặt mục tiêu. Theo công
bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm nay tăng 0,27% so
với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21%
so với bình quân năm 2011. Tháng 12 so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày
dép tăng mạnh nhất tới 1,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao hơn mức
tăng chung nhưng cũng đều dưới 1% là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%, văn
hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%. Nhóm có tỷ trọng
lớn nhất trong “rổ” hàng hóa tính CPI là hàng ăn và dịch vụ ăn uống chỉ tăng khiêm tốn
là 0,28% (Lương thực tăng 0,13%, thực phẩm tăng 0,28%, ăn uống ngoài gia đình tăng
0,4%).
Những nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều tháng
trước thì ở tháng này, lại tăng thấp hơn cả mức tăng chung. Đó là nhà ở và vật liệu xây
dựng chỉ tăng 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09% trong đó, dịch vụ giáo dục tăng
0,05%, nhóm giao thông giảm 0,43% Sau 2 tháng liên tiếp tăng kỷ lục tới 10-20%,
Chính phủ yêu cầu giãn thời gian tăng giá viện phí thì các thuốc và dịch vụ y tế chỉ còn
tăng 0,14%, trong đó, dịch vụ y tế tăng 0,03%.
Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ “nhỉnh”
hơn mức tăng 6,52% của năm 2009 – năm suy giảm kinh tế mạnh và thấp hơn nhiều so
với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011. Dù cách xa so
với mục tiêu CPI đề ra ban đầu thì năm 2012 vẫn là năm giá có nhiều biến động bất
thường. Cơ quan này phân tích, CPI tăng không quá cao vào hai tháng đầu năm (tăng
1,0% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức

tăng 2,20%. Đây là tháng chịu tác động chủ yếu của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và
nhóm giáo dục. Sau đó, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng
cuối năm. Trong năm, có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ
tăng dưới 0,5%. Một điều khác thường nữa của thị trường giá cả trong nước năm nay là
CPI không giảm vào sau Tết âm lịch mà giảm vào hai tháng giữa năm (Tháng 6 và
tháng 7). Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước, tăng 0,4% so
với tháng 12/2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng trước,
giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
Từ đầu năm đến nay, tăng trưởng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước. Trong
đó, quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%, quý III tăng 5,05% và quý IV tăng 5,44%. So
với năm 2011, GDP năm nay đã giảm tới 0,86 điểm phần trăm. Tuy nhiên, Tổng cục
Thống kê cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn, cả nước tập trung thực
hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là
hợp lý. Trong 5,03% tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung,
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm, khu vực
dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,7 điểm phần trăm.
Trước đó, Bộ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư cho hay, với tốc độ tăng trưởng này thì
mục tiêu 6,5- 7% như kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 sẽ khó đạt.
Năm 2011, GDP chỉ ở mức 5,89%, kế hoạch năm 2013, GDP dự báo khoảng 5,5%. Với
2 năm còn lại là 2014-2015, trung bình GDP phải đạt được 8-9% thì GDP trung bình
giai đoạn 5 năm 2011-2015 mới đạt mục tiêu trên. Tại hội thảo đầu tháng 12, Trung tâm
Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia của Bộ kế hoạch đầu tư nhận xét: nhờ nỗ
lực tăng trưởng hai cuối quý cuối năm, tăng trưởng cả năm không giảm sâu về tốc độ.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tếnăm 2012 vẫn giảm năm thứ 2 liên tiếp.
2.2.3 Những chủ trương của nhà nước để kiềm chế lạm phát giai đoạn 2011 đến
2012
Những nguyên của lạm phát trong thời gian qua về cơ bản đã được nhận diện,
vậy cần phải làm gì để lạm phát trong những năm tới được kiềm giữ ở mức mong muốn
nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa phải, nhất là thời kỳ hậu khủng hoảng

kinh tế, trong khi những nhân tố làm gia tăng lạm phát có tác động với cường độ mạnh
hơn như:
Đầu tư toàn xã hội vẫn phải duy trì ở mức cao, tiền lương trong tất cả các khu
vực đã tăng cao hơn (từ 01/05/2011 tiền lương cơ bản của khu vực hành chính, sự
nghiệp đã tăng lên 830.000 VNĐ/tháng so với trước đây là 730.000 VNĐ/tháng, theo
kế hoạch đến 01/05/2012 tiền lương khu vực này sẽ tăng lên 1.050.000 VND/năm). Giá
dầu trên thế giới còn nhiều bí ẩn, và có thể vẫn giữ ở mức cao như hiện nay, thậm chí
còn có thể cao hơn hiện nay nếu kinh tế thế giới năm 2012 và những năm sau phục hồi
và nhất là tình hình khủng hoảng chính trị trong khu vực Trung Đông và Bắc Phi không
được cải thiện (hiện nay là khoảng 104 USD/thùng).
Cần phải thực hiện đồng loạt nhiều biện pháp một cách thông minh, khôn khéo
mới có thể kiềm chế lạm phát ở mức mong muốn mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế. Có thể gợi ý một vài biện pháp sau:
- Không thể giảm mạnh tổng cầu để kiềm chế lạm phát được, bởi vì, nó sẽ có tác động
làm giảm tỷ lệ tăng trưởng. Tuy nhiên, có thể thông qua chính sách tiền tệ để vẫn giữ lãi
suất ở mức vừa phải nhằm thúc đẩy đầu tư mà vẫn kiềm chế được mức tổng cầu tiền tệ,
nhất là đối với những khoản cầu tiền tệ không cần thiết cho nền kinh tế. Chính sách tiền
tệ cần thực hiện một cách linh hoạt và kịp thời theo thực tế diễn biến của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước đưa tiền ra và rút tiền về một cách hợp lý sẽ góp phần kiềm chế
lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Có thể rút kinh nghiệm về điều hành chính
sách tiền tệ của năm 2009. Bởi vì, năm 2009, Chính Phủ đã thực hiện một cách thành
công các chính sách vừa kiềm chế lạm phát và vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp
nền kinh tế phuc hồi nhanh sau khủng hoảng. Kết quả là lạm phát năm 2009 được kiềm
giữ ở mức 6,52%, trong khi tăng trưởng kinh tế đạt 5,32%, được xem là mức tăng
trưởng nhanh trong khu vực lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong năm 2010, chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước có những điểm hạn chế và gây hệ lụy cho năm 2011 làm cho
lạm phát năm 2011 gia tăng đột biến, trong khi lạm phát ở các nước trong khu vực và
trên thế giới không tăng cao như ở Việt Nam.
- Về giảm cầu chi tiêu công của Chính phủ. Trước hết, Chính phủ phải đảm bảo kỷ luật
ngân sách, kiên quyết giảm dần thâm hụt ngân sách qua các năm. Thâm hụt ngân sách

cao qua nhiều năm và sử dụng không hiệu quả các khoản chi tiêu công là nguyên nhân
chủ quan dẫn đến lạm phát triền miên trong thời gian qua. Để kiềm giữ lạm phát ở mức
một con số, Chính phủ cần kiên quyết cắt giảm các khoản chi tiêu công, nhất là các
khoản chi thường xuyên như: Mua sắm xe công, xây trụ sở cơ quan công quyền, kiên
quyết cắt giảm biên chế ở các cơ quan công quyền để giảm bớt chi phí nhân sự, đẩy
mạnh xây dựng chính quyền điện tử, giảm bớt chi phí cho hội họp, thông qua phát triển
phương thức họp trực tuyến.
- Đối với các dự án công cấp thiết như xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, phải
xác định những dự án cần triển khai xây dựng ngay, những dự án xây dựng trong những
năm sau. Trong triển khai thực hiện các dự án, Chính phủ cần chú ý giải ngân kịp thời,
nhằm hạn chế tình trạng gây sức ép tăng giá vào cuối năm khi đầu năm thì chậm hoặc
không giải ngân, để đến gần cuối năm mới đẩy mạnh giải ngân làm cho một lượng tiền
mặt lớn đi vào lưu thông, tác động làm tăng giá mạnh vào cuối năm. Chính phủ nên
kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu của chính phủ trên tinh thần sử dụng một cách có
hiệu quả đồng vốn ngân sách, tránh lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản.
Để đạt yêu cầu này Chính phủ cần tập trung phát huy chức năng của đội ngũ các bộ
phận hoạch định dự án, phân bổ nguồn vốn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án
thuộc Chính phủ. Chính phủ nên tập trung chú ý đến quản trị tài chính công, tránh vết
xe đổ của khủng hoảng nợ công của Chính phủ Hy Lạp và một số nước khác ở Châu
Âu.
- Chính phủ cần tăng cường năng lực của bộ máy dự báo để dự báo chính xác sự biến
động giá cả trên thị trường thế giới, nhất là giá cả của các mặt hàng chiến lược như
xăng, dầu, sắt, thép, lương thực, thực phẩm. Để kịp thời điều chỉnh giá trong nước,
tránh tình trạng phải đối phó bị động như trong năm các năm qua. Tập trung toàn bộ lực
lượng quản lý, điều chỉnh giá cả một cách nhanh nhạy, bằng các biện pháp hành chính
lẫn biện pháp kinh tế đối với giá cả thị trường. Chống đầu cơ nâng giá đối với mọi khu
vực kinh tế, kể cả kinh tế nhà nước.

×