Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

luận văn hay đại học sư phạm chuyên ngành mẫu giáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi trong hoạt động tạo hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.72 KB, 82 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
- Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”.
Sản phẩm của giáo dục chính là con người, mà con người là mục tiêu, động lực
của sự phát triển đất nước, trong tương lai, đó chính là thế hệ trẻ. Vì vậy việc
chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này.
- Nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, môn tạo hình nói riêng là việc
làm cần thiết để phát huy năng khiếu của trẻ một cách tự nhiên.
- Trong chương trình giáo dục mầm non, bộ môn tạo hình là loại hình nghệ
thuật phản ánh thế giới xung quanh cuộc sống con người một cách đa dạng
phong phú và hấp dẫn đối với trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo. Thông qua tạo hình trẻ
được thử sức mình trong việc thể hiện và cải tạo thế giới của riêng mình.


- Hoạt động tạo hình là một hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự
tác động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,
thể chất và hình thành các phẩm chất kĩ năng ban đầu của con người như một
thành viên trong xã hội biết lao động tích cực sáng tạo.
- Hoạt động tạo hình còn phát triển ở trẻ khả năng quan sát, trí tưởng tượng
sáng tạo, khả năng phối hợp giữa mắt và tay, hoàn thiện một số kỹ năng cơ bản (
vẽ, nặn, xé dán cắt…). Đặc biệt trong giờ học vẽ trẻ thích tự tay vẽ được một cái
gì đó dù các hình còn đơn giản như ngôi nhà, cái cây, bông hoa, ô tô… nhưng
mang lại cho trẻ cảm xúc thực sự khi tạo ra được 1 sản phẩm. Còn đối với
những gì trẻ không thích, không hứng thú thì trẻ sẽ vẽ đại khái cho xong và cảm
thấy hài lòng hơn nữa tư duy của trẻ gắn liền với cảm xúc, ý muốn chủ quan nên
trẻ ghi nhớ những gì trẻ cảm thấy thích thú và say mê thực hiện ý tưởng của

mình. Ngoài ra, giờ vẽ còn hình thành ở trẻ những kỹ năng như ngồi ngay ngắn,
kỹ năng cầm bút… , những kỹ năng rất cần thiết cho trẻ bước vào lớp 1.
- Thực tiễn ở trường Mầm non của trẻ, đa số trẻ chưa phát huy hết khả
1
năng sáng tạo. Các phương pháp hoạt động tạo hình lâu nay chưa được sử dụng
còn mang tính áp đặt, đạp khuôn theo mẫu, sao chép chưa phát huy hết khả năng
sáng tạo và sự linh hoạt của người giáo viên khi tổ chức hoạt động tạo hình. Vậy
giáo viên phải làm gì, làm như thế nào để trẻ có thể vẽ, nặn, cắt, tô mầu và làm
đẹp sản phẩm.
- Xuất phát từ đặc điểm trên tôi thấy nhiệm vụ quan trọng mà giáo viên
cần phải giải quyết khi hướng dẫn hoạt động tạo hình không đơn giản là dạy trẻ
vẽ theo ý của riêng cô mà phải tạo cho trẻ hứng thú thật sự trong giờ học. Có

như vậy sản phẩm trẻ làm ra mới đạt kết quả cao. Vì vậy, tôi thấy việc tạo hứng
thú cho trẻ trong giờ học tạo hình là cần thiết.
- Hiểu rõ được tầm quan trọng trong việc nhằm kích thích trẻ hoạt động
tích cực trong giờ học vẽ, tôi luôn suy nghĩ tìm ra các biện pháp tác động phù
hợp giúp trẻ phát huy được khả năng tưởng tượng, tính sáng tạo mà vẫn phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: “ học bằng chơi, chơi mà học”. Điều này đã
thúc đẩy em chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trong hoạt động tạo hình”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm kiếm biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình
cho trẻ, nhằm tăng cường hiệu quả của việc giáo dục trẻ em thông qua hoạt động
tạo hình ở trường mầm non Hoa Hồng- Nghĩa Tân- Cầu Giấy.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu trên trẻ mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi tại trường Mầm non Hoa Hồng
Cầu Giấy- Hà Nội.
b. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo
5- 6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
2
Nếu tôi nghiên cứu đề tài này kích thích sự sáng tạo thì sẽ giúp cho hoạt
động tạo hình của trẻ thêm hứng thú và đạt hiệu quả cao hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
Tìm những thực trạng kỹ năng kỹ xảo về hoạt động tạo hình của trẻ.
Biện pháp mang tính vui chơi… Vẽ có hứng thú trong hoạt động tạo hình.
Những nguyên vật liệu mở để trẻ sử dụng trong tạo hình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Sưu tầm tài liệu, đọc, hệ thống, phân tích giải thích, đánh giá số liệu thu
được thông qua nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp nghiên cứu tự nhiên:
Quan sát những hoạt động của trẻ, phương pháp tổ chức của giáo viên qua giờ
học tạo hình.

+ Phương pháp điều tra:
- Trao đổi với giáo viên về các biện pháp tổ chức cho trẻ thông qua giờ học
tạo hình, tìm hiểu sự hứng thú của trẻ thông qua HĐTH cho trẻ.
- Điều tra bằng phiếu Anket.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thử nghiệm các biện pháp nâng cao hứng thú của trẻ 5- 6 tuổi thông qua
HĐTH.
6.3. Phương pháp đánh giá sản phẩm:
- Dựa trên các tiêu chí để phân tích đánh giá sản phẩm của trẻ.
6.4. Phương pháp xử lý số liệu:
Sau khi đã điều tra thu thập được đầy đủ số liệu thì tính % xây dựng bằng
số và biểu đồ minh họa các kết quả nghiên cứu.

7. Giới hạn đề tài:
3
Do giới hạn về thời gian nên tôi chỉ xin phép nghiên cứu biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng của trẻ 5- 6 tuổi trong giờ học tạo hình ở trường mầm non
Hoa Hồng- Nghĩa Tân- Hà Nội.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA
ĐỀ TÀI
1. Khái niệm chung về hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nhận thức đặc biệt mang tính sáng tạo.
Nó phản ánh cuộc sống hiện thực bằng những hình tượng nghệ thuật, trong đó

con người không chỉ khám phá và lĩnh hội thế giới mà còn cải tạo nó theo quy
luật của cái đẹp, gửi gắm vào đó tâm hồn và tình cảm của người nghệ sỹ.
Trong trường mầm non, hoạt động tạo hình được xếp trong chương trình học
tập của trẻ.
Nội dung của hoạt động tạo hình trong trường mầm non bao gồm các hoạt động
sau:
1.1. Vẽ.
1.1.1. Hoạt động vẽ nói chung.
- Về kỹ thuật: là vẽ theo khuôn mẫu thiết kế mang tính chính xác toán
học( bản vẽ thiết kế máy,… ).
- Hội họa: là loại hình nghệ thuật mà màu sắc là phương tiện thể hiện
chính( các bức tranh vẽ bằng sơn dầu, bột màu thuốc nước ).

- Đồ họa: Hiện nay phương tiện thể hiện chính là đường nét nhưng đồng
thời sử dụng màu( tranh minh họa truyện kể, trình bày sách, tranh cổ
động). Hoạt động vẽ trong trường mầm non là vẽ đồ họa, phấn màu là
những phương tiện tạo đường nét, các loại màu nước cũng được sử dụng
khá phổ biến.
1.1.2. Thể loại vẽ trong trường mầm non.
- Vẽ theo mẫu.
- Vẽ trang trí.
- Vẽ theo đề tài.
- Vẽ theo ý thích.
5
1.2. Xé dán, cắt dán.

Tranh xé dán, cắt dán ở trường mẫu giáo bắt nguồn từ các thể loại tranh
ghép: tranh ghép từ các mảnh sứ, bát đĩa vỡ, từ các mảnh kính màu, từ vỏ
chai, từ tre, các hộp nhựa, hoa lá…
Trong trường mầm non, chúng ta dạy trẻ thể hiện tranh từ những mảnh giấy
màu dán trên nền giấy, được coi là tranh xé dán, cắt dán.
Thể loại giống như vẽ:
Ở thể loại vẽ cũng như cắt, xé dán theo ý, mục đích của giờ dạy là: Kiểm tra
khả năng của trẻ, qua đó cô giáo định hướng cho nhiệm vụ đào tạo tiếp theo.
Củng cố kiến thức, kỹ năng đã học.
Phát triển khả năng sáng tạo, tính độc lập, tự chủ trong công việc.
Vì vậy, ở các giờ học theo ý thích, cô giáo phải vận dụng nhiều phương pháp
khác nhau để cung cấp biểu tượng ( nội dung cần thể hiện) cho trẻ, càng phong

phú càng tốt, giúp trẻ nhớ lại những kỹ năng đã học, giúp trẻ thực hiện những kỹ
năng còn mới so với trẻ, nhưng cần thiết cho việc thực hiện nội dung trẻ tự chọn.
Vì vậy, cô giáo phải có kiến thức về tạo hình về cuộc sống, phải biết cách gây sự
hưng phấn và thích thú ở trẻ đối với giờ học.
1.3. Nặn
Đặc thù của hoạt động nặn như hoạt động tạo hình là thể hiện bằng khối,
nặn là một dạng điêu khắc nhưng sử dụng bằng nguyên liệu mềm, dẻo. Có
thể dễ dàng tác động bằng tay, vì vậy phù hợp với trẻ mẫu giáo.
Tính dẻo mềm của nguyên liệu và tính chất khối của vật thể hiện cho phép
trẻ nắm được một số kỹ năng dễ hơn vẽ ( ví dụ trong thể hiện động tác). Sự
thể hiện mối quan hệ không gian giữa các vật trong hoạt động nặn cũng rất
đơn giản, các vật được đặt cạnh nhau hoặc gần nhau theo ý muốn, viễn cảnh

không gian trong hoạt động nặn không được đặt ra.
Trong hoạt động nặn, phương tiện chủ yếu là hình dạng khối.
6
- Có 2 cách nặn:
Nặn ghép nhiều chi tiết thành một vật.
Nặn vật từ một khối đất nguyên.
- Nặn trong trường mẫu giáo có 3 thể loại:
Nặn theo mẫu.
Nặn theo đề tài.
Nặn theo ý thích.
Cả 3 loại hoạt động vẽ, nặn, cắt xé dán trong trường mẫu giáo có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau và có cùng chung nhiệm vụ sau:

- Phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ và cảm xúc thẩm mĩ( nhận biết cái đẹp,
xúc động trước cái đẹp và biết yêu cái đẹp).
- Bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ để hình thành cho trẻ tình yêu đối vớ vẻ đẹp
của thiên nhiên, cuộc sống con người và nghệ thuật.
- Hình thành ở trẻ những kỹ năng, kỹ xảo tạo hình, năng lực quan sát và
ước mơ sáng tạo.
2. Đặc điểm khả năng tạo hình của trẻ mẫu giáo lớn.
Để có một khả năng phát triển tạo hình cần phải trải qua một quá trình
liên tục có hệ thống. Nếu như tuổi mẫu giáo bé là nền tảng sự phát triển khả
năng tạo hình cho lứa tuổi mẫu giáo nhỡ, thì lứa tuổi mẫu giáo nhỡ lại là cầu
nối cho sự phát triển tạo hình ở tuổi mẫu giáo lớn, vốn được coi là bước đệm
hết sức cần thiết để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Mỗi lứa tuổi đều có một vai

trò nhất định trong quá trình phát triển khả năng tạo hình của trẻ. Đó là mối
quan hệ xuyên suốt không thể tách rời.
Chính vì vậy ở mỗi lứa tuổi đều cần có những yêu cầu riêng biệt để phù
hợp với tâm lí trẻ. Tuổi mẫu giáo lớn trẻ đã có sự phát triển mạnh về thể lực
và sự khéo léo của đôi bàn tay. Vì vậy trẻ miêu tả được đặc điểm về hình
dáng, đường nét, bố cục và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng khi
vẽ nặn, cắt xé dán. Trẻ mẫu giáo lớn tìm hiểu cái đẹp trong ảnh, đồ dùng đồ
chơi và trong thiên nhiên, nhận biết sự thay đổi của thiên nhiên và loài vật
7
qua màu sắc, hình dáng, bố cục. Trẻ có thể diễn đạt những cảm xúc của mình
bằng lời và bằng sản phẩm một cách có mục đích. Ở tuổi mẫu giáo lớn trẻ đã
biết bàn bạc để nêu lên ý định chung khi tạo sản phẩm tập thể. Biệt tự giới

thiệu sản phẩm của mình và nêu nhận xét về sản phẩm của bạn. Từ đó giúp
trẻ tự hệ thống hóa và chuẩn xác các biểu tượng, nâng cao sản lượng sản
phẩm tạo hình, đồng thời tạo bước đệm vững chắc, phát triển khả năng tạo
hình ở lứa tuổi phổ thông.
3. Đặc điểm phát triển khả năng tạo hình và sáng tạo ở trẻ.
Phát triển những khả năng của trẻ và phát triển đúng đắn những khả năng
đó là một trong những nhiệm vụ giáo dục quan trọng nhất. Để thực hiện
những nhiệm vụ này cần chú ý lứa tuổi của trẻ, sự phát triển tâm sinh lý, điều
kiện giáo dục…
Phát triển khả năng tạo hình ở trẻ chỉ có kết quả khi việc dạy trẻ tiến hành
có kế hoạch, có hệ thống, nếu không sự phát triển đó sẽ đi theo con đường
ngẫu nhiên, tình cờ và khả năng tạo hình của trẻ có thể dậm chân tại chỗ. Vậy

khả năng là gì?
3.1. Khái niệm về khả năng:
Khả năng có thể hiểu là những đặc điểm riêng của mỗi cá nhân, đảm bảo
cho sự lĩnh hội một cách tương đối dễ dàng và có chất lượng một dạng hoạt
động tạo hình nào đó.
Khả năng không phải phẩm chất bẩm sinh, nó chỉ là hình thành và phát
triển trong hoạt động. Kết quả hoạt động chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển
khả năng được hình thành trong hoạt động đó. Mặc dù vậy, sự phát triển khả
năng cũng có những điều kiện sinh lý, hay còn gọi là cơ sở vật chất của khả
năng như cấu tạo của não, kiểu của hoạt động của thần kinh cao cấp, cấu tạo
của cơ quan cảm giác, cơ quan vận động.
Phát triển khả năng tạo hình trước tiên phụ thuộc vào sự giáo dục khả

năng quan sát, biết nhìn thấy những đặc điểm của các vật và hiện tượng xung
quanh để đưa ra những so sánh và nêu lên được những đặc điểm đặc trưng.
8
3.2. Những đặc điểm hoạt động tạo hình sáng tạo ở trẻ mẫu giáo.
Khả năng tạo hình là đặc thù riêng của con người, làm cho con người tách
rời khỏi thế giới động vật, có khả năng không chỉ sử dụng thực tiễn mà còn
có thể thay đổi, cải tạo thực tiễn.
Khả năng của con người phát triển tới mức độ bao nhiêu thì khả năng mở
mang những hoạt động sáng tạo của ta bấy nhiêu.
Sự hiểu biết đúng đắn về khả năng và đặc điểm của sự sáng tạo của trẻ
yêu cầu nhà sư phạm phải có kiến thức về đặc điểm của hoạt động trong lĩnh
vực nghệ thuật nói chung, phải biết người họa sĩ sử dụng những phương tiện

tạo hình nào để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật, hoạt động sáng tạo trải
qua những giai đoạn nào.
Đặc điểm của sự sáng tạo trong hoạt động tạo hình.
Sáng tạo của nhà họa sĩ là một hoạt động nhất định, tạo nên những vật
động đáo mới có ý nghĩa xã hội, đó là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện
thế giới xung quanh. Sự thể hiện đó không phải đơn giản là sự “sao chép” lại
những sự vật và hiện tượng, mà họa sĩ phải “nhào nặn” lại những gì cảm thụ
được trong nhận thức của mình, chọn ra những gì cơ bản nhất, đặc sắc nhất
và tổng hợp lại xây dựng lên hình tượng nghệ thuật.
Nền tảng khách quan của sáng tạo nghệ thuật là thể hiện thế giới thực
tiễn, nhưng còn tồn tại yếu tố chủ quan, đó là quan hệ của họa sĩ với vật được
thể hiện. Họa sĩ không đơn giản nghiên cứu và thể hiện thế giới, họa sĩ đặt cả

tâm hồn tình cảm của mình vào hình tượng, nhờ vậy mà hình ảnh đó có thể
gợi cảm với những người khác.
Điều kiện cần thiết cho hoạt động sáng tạo của họa sĩ là phải có khả năng,
phải có kĩ năng kĩ xảo trong hoạt động nghệ thuật.
Những đặc điểm thể hiện sự có mặt của nguồn sống sáng tạo trong hoạt
động của trẻ là thể hiện tính tích cực, tính tự chủ và sáng kiến trong việc vận
dụng những phương pháp đã học vào việc thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
9
Nhận thức ban đầu trong hoạt động tạo hình của trẻ là nhận thức về tính
chất của vật liệu: bút chì, đất sét, giấy…
Cho tới khi trẻ nào bắt đầu hiểu rằng những vệt bút chì có thể nói lên một
cái gì đó ( mưa rơi, cỏ mọc…) theo ý muốn của mình hoặc theo đề nghị của

người lớn trẻ cố gắng vẽ một vật nào đó thì khi đó hoạt động của trẻ mang
tính chất tượng hình, ở trẻ đã có ý đồ mục đích mà trẻ mong muốn thực hiện.
Như vậy giai đoạn đầu trong quá trình sáng tạo, sự xuất hiện ý đồ có tồn
tại trong hoạt động của trẻ. Nhưng khác với họa sỹ, là sau khi nảy sinh ý đồ,
thường có một giai đoạn dài, suy nghĩ về nội dung và phương thức thực hiện.
Như vậy, cả 3 giai đoạn của hoạt động sáng tạo đều có trong hoạt động của
trẻ.
4. Vai trò của hoạt động tạo hình trong việc giáo dục toàn diện
cho trẻ em.
4.1. Vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển trí tuệ, nhận thức.
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nhận thức đặc biệt mang tính trừu
tượng. Trong đó trẻ có nhiều cơ hội tìm hiểu nghiên cứu các đối tượng miêu

tả để có được hiểu biết, sự hình dung về các đối tượng đó, từ đó xây dựng các
biểu tượng, hình tượng. Bởi vậy, hoạt động tạo hình là một trong những
phương tiện tích cực để phát triển ở trẻ các khả năng hoạt động trí tuệ như:
Quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng.
Hoạt động tạo hình giúp trẻ tiếp thu, mở rộng và hệ thống hóa các cảm
giác về hình, mẫu, kích thước, tỷ lệ… Nhờ quá trình quan sát đối tượng miêu
tả mà trẻ thường xuyên sử dụng tích cực các chuẩn cảm giác để tìm hiểu,
khám phá những điều chưa biết về các sự vật hiện tượng.
Khi thực hiện các nhiệm vụ tạo hình, trẻ cần huy động vốn hiểu biết, vốn
biểu tượng đã tích lũy để “nhào nặn”, “chế biến” thành những hình tượng
mới, bổ sung và trở nên phong phú hơn.
Quá trình vẽ, nặn, xếp dán, thiết kế, chắp ghép ( đặc biệt là hoạt động với

các vật liệu thiên nhiên, ) đòi hỏi trẻ phải luôn tìm hiểu, khám phá, phát hiện ra
10
tính chất của các loại vật liệu cũng như khả năng tạo hình, khả năng tạo ra sức
truyền cảm của chúng. Trong quá trình tạo hình, trẻ lĩnh hội các kỹ năng sử
dụng các loại dụng cụ, chất liệu như những công cụ lao động của con người.
Đây chính là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách.
Hoạt động tạo hình với các quá trình tìm hiểu, đánh giá đối tượng miêu tả
và sản phẩm tạo hình sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ vốn từ, lời nói hình
tượng truyền cảm và phát tiển ở trẻ ngôn ngữ mạch lạc.
Tham gia quan sát, phân tích và thể hiện trong tạo hình, trẻ dần dần học
hỏi, nắm bắt được các kinh nghiệm hoạt động nhận thức, sẽ được rèn luyện
khả năng độc lập tổ chức, điều chỉnh quá trình nhận thức của mình.

Hoạt động tạo hình chính là môi trường thuận lợi làm hình thành ở trẻ các
phẩm chất trí tuệ như: tính tự giác, tính ham hiểu biết, tính tích cực nhận thức
và óc sáng tạo…
4.2 Vai trò của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục tình cảm, đạo đức,
kĩ năng giao tiếp xã hội.
Tham gia vào các hoạt động tạo hình trẻ có nhiều cơ hội tiếp thu các
chuẩn mực thẩm mỹ- đạo đức trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm, tình
cảm trong giao tiếp, học hỏi các kỹ năng xã hội và đánh giá các hành vi văn
hóa xã hội qua các hình tượng, các sự kiện, hiện tượng được miêu tả.
Hoạt động tạo hình của trẻ em có nguồn gốc xã hội và thể hiện sự định
hướng xã hội cho sự phát triển nhân cách của trẻ.
Quá trình tạo hình của trẻ mầm non thường và có thể tổ chức như một hoạt

động, cùng nhau tạo lên sản phẩm chung. Sự tương tác, hợp tác trong các hoạt
động tập thể, ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành ở trẻ các phẩm chất đạo
đức như: tính kiên trì, thói quen làm việc đến nơi đến chốn, khả năng vượt khó
để đạt được mục đích, thói quen biết nhường nhịn, biết giúp đỡ bạn, biết cùng
nhau làm việc và điều hòa giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân.
11
4.3. Vai trò của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Với tư cách là hoạt động nghệ thuật, hoạt động tạo hình tạo nên những
điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển cảm giác, tri giác thẩm mỹ, việc
quan sát, tìm hiểu các sự vật hiện tượng giúp trẻ nhận ra các đặc điểm thẩm
mỹ( hình dáng, màu sắc, tỷ lệ, sự sắp xếp trong không gian, ) nhận ra nét độc
đáo tạo nên sự hấp dẫn của đối tượng miêu tả.

Các đặc điểm thẩm mỹ phong phú, đa dạng của đối tượng miêu tả là
những yếu tố kích thích sự xuất hiện của những rung động, của những xúc
cảm thẩm mỹ( cảm xúc về vẻ đẹp của hình, màu, nhịp điệu, vẻ cân đối hài
hòa, ) Từ những xúc cảm thẩm mỹ giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ thiên
nhiên và các tác phẩm nghệ thuật.
Quá trình thể hiện các sản phẩm tạo hình ( vẽ, nặn, xếp hình, xé dán, ) là
điều kiện thuận lợi cho trẻ vận dụng tích cực vốn biểu tượng hình tượng đã
tích lũy được để phối hợp, xây dựng hình tượng mớ, làm cho sản phẩm tạo
hình càng sinh động, đầy hấp dẫn và mang màu sắc nghệ thuật.
4.4. Vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển thể chất cho trẻ.
Hoạt động tạo hình ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và sự phát triển thể
chất của trẻ.

- Những giờ phút hoạt động tự do trong môi trường thẩm mỹ, trong bầu
không khí thoải mái, sinh động sẽ tạo cho trẻ niềm vui sướng. Chính sự
vui sướng, phấn khởi này tác động tích cực tới hoạt động của tim mạch,
điều hòa hoạt động của hệ thần kinh, điều chỉnh toàn bộ hoạt động cơ thể.
- Những công trình nghiên cứu tâm lí học ngày nay( ở các nước như Mỹ,
Nga, Anh, ) đã nhấn mạnh vai trò của hoạt động nghệ thuật, đặc biệt là
các hoạt động tạo hình như các biện pháp trị liệu rất có hiệu quả trong
việc nâng cao sức khỏe. Có thể coi hoạt động tạo hình như “món ăn tinh
thần”, như một loại “ vitamin” đặc biệt cho sự phát triển tâm lý.
12
4.5. Vai trò của hoạt động tạo hình với việc chuẩn bị cho trẻ đi học trường
phổ thông.

Hoạt động tạo hình chính là môt trường, phương tiện để hình thành ở trẻ
những cơ sở ban đầu của hoạt động học tập ở trường phổ thông.
Trong hoạt động vẽ, nặn, xếp dán, trẻ được bồi dưỡng khả năng độc lập
tổ chức một quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên
các sản phẩm vật thể: Xác định mục tiêu- Lựa chọn nội dung- Xây dựng kế
hoạch- Tìm kiếm thông tin phương thức tạo hình và tổ chức quá trình hoạt
động thực tiễn dự định tạo hình.
Hoạt động tạo hình giúp hình thành và rèn luyện ở trẻ khả năng đánh giá,
tự đánh giá.
Hoạt động tạo hình góp một phần không nhỏ trong việc chuẩn bị cho trẻ
một vốn kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, về khoa học kỹ thuật để giúp
trẻ nhanh chóng làm quen với các môn học mới mẻ ở phổ thông.

Việc bồi dưỡng các kỹ năng tạo hình, đặc biệt rèn kỹ năng đồ họa trên các
giờ vẽ, tập nặn sẽ giúp trẻ phát triển khả năng phối hợp, điều chỉnh hoạt động
của mắt và tay, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong vận động của tay, từ đó
giúp trẻ học viết ở trường phổ thông đạt kết quả tốt hơn.
Hoạt động tạo hình chuẩn bị cho trẻ tâm lý trước khi vào lớp.
5. Mục đích, trách nhiệm và nội dung cơ bản của hoạt động tạo
hình cho trẻ mầm non.
5.1. Mục đích của hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
Hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non phải được tổ chức để thực hiện
những mục tiêu sau:
Phát huy sự nhạy cảm, những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ, có nhu cầu làm
ra cái đẹp, là những điều rất cần thiết cho cuộc sống của trẻ trong xã hội.

Giúp trẻ lĩnh hội các kiến thức và kỹ năng cơ sở, tạo nền tảng cho sự tiếp
thu nền tảng giáo dục ở bậc học tiếp theo.
13
Phát triển và tiếp tục duy trì ở trẻ lòng tự tin và khả năng cảm nhận về giá
trị của mình.
Tiếp thu tri thức và hình thành thái độ, tình cảm để trẻ tích cực gia nhập
vào cộng đồng, xã hội.
Mục đích của việc tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ lứa tuổi mầm non
không nằm ngoài những mục đích cơ bản của giáo dục thẩm mỹ.
Phát triển ở trẻ khả năng cảm nhận và khả năng thể hiện vẻ đẹp của các sự
vật, hiện tượng trong cuộc sống xung quanh, để qua đó mà biểu lộ thái độ,
tình cảm của mình.

5.2. Các nhiệm vụ của việc tổ chức hoạt động tạo hình.
Hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non được tổ chức nhằm thực hiện những
nhiệm vụ giáo dục và phát triển sau:
Hình thành ở trẻ khả năng nhận thức thẩm mỹ, hình thành thái độ thẩm
mỹ trước vẻ đẹp của thế giới xung quanh.
Giúp trẻ có những điều kiện, cơ hội biểu lộ thái độ xúc cảm của mình với
những gì được thể hiện trong quá trình tạo hình.
Hình thành và phát triển tính tích cực sáng tạo: tập cho trẻ biết miêu tả
biết cảm theo ý đồ, sáng kiến của bản thân, biết giải quyết các vấn đề tạo
hình một cách độc lập trong sự hợp tác.
5.3. Nội dung cơ bản của hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
5.3.1. Các nguyên tắc lựa chọn, sắp xếp nội dung của hoạt động tạo hình.

Tính khoa học.
Tính thống nhất giữa các nhiệm vụ giáo dục và phát triển.
Tính vừa sức.
Tính ý thức.
Tính hệ thống kế tục.
Tính thống nhất giữa lý thuyết với thực tiễn.
Nguyên tắc giáo dục cá biệt.
14
5.3.2. Các nội dung của hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
* Nội dung giáo dục và phát triển của chương trình hoạt động tạo hình.
Các năng lực chuyên biệt cho hoạt động tạo hình.
Các kiến thức chuyên biệt cho hoạt động tạo hình.

Các kỹ năng chuyên biệt cho hoạt động tạo hình.
Ngoài những khía cạnh chuyên biệt trên, nội dung của hoạt động tạo hình
còn định hướng vào việc hình thành cho trẻ các phẩm chất nhân cách cần
thiết như: sự hiểu biết phong phú về thế giới xung quanh, các xu hướng,
hứng thú, động cơ hoạt động, những ham thích cá nhân, lòng say mê cá nhân,
lòng say mê lao động, ý chí và các phẩm chất khác.
Để hình thành và phát triển khả năng nhận thức thẩm mỹ và hoạt động
thực tiễn cho trẻ, người ta phân các nội dung giáo dục và phát triển của hoạt
động tạo hình thành 4 nhóm:
+ Nhóm 1: Các kiến thức, kỹ năng, năng lực thể hiện vật mẫu đơn giản ( 1
hoặc 1 nhóm mẫu vật).
+ Nhóm 2: Các kiến thức, kỹ năng, năng lực truyền đạt nội dung mạch lạc

( chủ đề, cốt truyện,…).
+ Nhóm 3: Các kiến thức, kỹ năng, năng lực trang trí.
+ Nhóm 4: Các kiến thức, kỹ năng mang tính kỹ thuật.
Cách phân loại như trên sẽ giúp giáo viên mầm non dễ dàng xây dựng
chương trình, kế hoạch cho trẻ hoạt động và dễ dàng đánh giá toàn diện sự
tiến bộ của trẻ trong hoạt động.
* Nội dung miêu tả của hoạt động tạo hình.
Nội dung miêu tả được xem như là phương tiện, là con đường để thực hiện
các nội dung giáo dục và phát triển của hoạt động tạo hình. Tìm kiếm nội
dung miêu tả cần xuất phát từ 1 số nguồn cơ bản sau:
Định hướng cho chương trình hoạt động tạo hình được quy định trong
chương trình giáo dục mầm non, theo mục tiêu của giáo dục mầm non mà bộ

giáo dục và đào tạo đã ban hành.
15
Các vấn đề, nội dung giáo dục mà giáo viên tìm hiểu, thu thập được và
muốn đưa đến cho trẻ.
Các kinh nghiệm hiểu biết, những mong muốn của trẻ liên quan đến hoạt
động tạo hình.
Như vậy, muốn có tư liệu để lập kế hoạch cho chương trình hoạt động tạo
hình của trẻ, giáo viên cần tiến hành một số công việc cơ bản sau:
- Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn thực hiện các chương tình chăm sóc-
giáo dục trẻ ( do bộ giáo dục và đào tạo ban hành).
- Nghiên cứu các nội dung giáo dục và điều kiện tổ chức các hoạt động
giáo dục trong trường mầm non.

- Tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý, khả năng hoạt động của trẻ để
khai thác xem “ trẻ nói gì?”, “trẻ thích gì?”, “trẻ có thể làm được gì?”…
( qua quan sát, trò chuyện, trao đổi với phụ huynh, với trẻ…).
- Để tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của trẻ về mọi mặt: thể chát,
trí tuệ- nhận thức, ngôn ngữ giao tiếp- tình cảm xã hội, thẩm mỹ- sáng
tạo, giảo viên cần tổ chức cho trẻ tìm hiểu, trải nghiệm và thể hiện các nội
dung tạo hình phong phú thông qua mối liên hệ phức hợp song thống nhất
giữa các loại hình hoạt động tạo hình ( vẽ, nặn, xếp dán- chắp ghép,…) và
giữa hoạt động tạo hình với hàng loạt các hoạt động khác trong trường
mầm non( làm quen với môi trường xung quanh, làm quen với toán, với
tác phẩm văn học, hoạt động âm nhạc, thể dục, ). Các mội quan hệ trên sẽ
là sự định hướng để giáo viên đưa các nội dung miêu tả của hoạt động tạo

hình vào các mảng chủ điểm, các mảng nội dung giáo dục chung cũng
như mảng nội dung của các loại hình hoạt động tạo hình.
6. Những phương pháp và thủ pháp hướng dẫn hoạt động tạo
hình trong trường mầm non.
6.1. Khái niệm:
Phương pháp là gì?
Phương pháp là cách thức hướng dẫn hoạt động tạo hình cho trẻ mầm
non, chính là hệ thống hoạt động qua lại của nhà sư phạm với trẻ để tổ chức
16
hoạt động nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thực tiễn cho trẻ nhằm bồi dưỡng
các năng lực tạo hình, giúp trẻ nắm được các hiểu biết cũng như các kỹ năng,
kỹ xảo tạo hình, hình thành và phát triển ở trẻ khả năng sáng tạo.

Trong đề tài này sử dụng 4 nhóm phương pháp: nhóm phương pháp thông
tin- tiếp nhận, nhóm phương pháp thực hành- ôn luyện, nhóm phương pháp
tìm tòi- sáng tạo, nhóm phương pháp mang tính vui chơi.
6.2. Các nhóm phương pháp:
Nhóm phương pháp thông tin tiếp nhận.
Đây là phương pháp tạo điều kiện phát triển ở trẻ trí thức thẩm mỹ, giúp
trẻ hiểu biết về nội dung miêu tả và phương pháp tạo hình, hình thành hứng
thú, bồi dưỡng khả năng cảm thụ thẩm mỹ. Nhóm này có 3 phương pháp:
Phương pháp quan sát: Giúp trẻ vận dụng khả năng cảm giác, tri giác, hình
thành các biểu tượng rõ nét về đối tượng miêu tả. Tiến tới đánh giá thẩm mỹ,
thưởng thức cái đẹp. Quá trình quan sát phải được tổ chức từng bước, tập cho
trẻ biết phân tích, khái quát hình ảnh của đối tượng tri giác.

Một quá trình quan sát thường phải phối hợp rất linh hoạt và hợp lý các quá
trình tri giác bao quát với tri giác tập trung. Cần giúp trẻ bắt đầu bằng quan
sát bao quát, sau đó tập trung vào các chi tiết, rồi trở lại quan sát toàn bộ diện
mạo của đối tượng.
Nắm vững cách thức, kỹ năng quan sát như vậy trẻ sẽ trở nên tích cực và tự
tập tích lũy vốn kinh nghiệm xúc cảm, tri giác thẩm mỹ của trẻ sẽ dần được
hình thành và trở nên phong phú, làm cơ sở cho sự phát triển óc sáng tạo.
Phương pháp chỉ dẫn trực quan: Cùng với việc tổ chức chỉ dẫn, giải thích
cần giúp trẻ tích cực huy động kinh nghiệm của mình, tập cho trẻ tiếp thu
thông tin mới, một biện pháp miêu tả mới cần thiết đối chiếu, so sánh với
những gì đã tiếp thu, tích lũy được từ trước đó. Cho trẻ tham gia vào quá
trình chỉ dẫn, giúp trẻ nhớ lại cái mới và cái trẻ đã biết, để hình thành bồi

dưỡng cho trẻ tính tích cực, độc lập trong hoạt động.
17
Phương pháp dùng lời: hoạt động lời nói đóng vai trò khá quan trọng trong
việc tạo nên hiệu quả của toàn bộ quá trình tạo hình, dùng lời phải được xác
định và phải được sử dụng phù hợp với nội dung thông tin và ngữ cảnh. Lời
giải thích phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, những lời nói mô tả vẻ đẹp của sự
vật phải sinh động, đầy tính hình tượng và gợi cảm.
Nhóm phương pháp thực hành- ôn luyện: Là hoạt động của cả giáo viên
và trẻ nhằm củng cố tri thức, bồi dưỡng kỹ năng, rèn luyện, hình thành các
kỹ xảo trong hoạt động tạo hình. Muốn trẻ không nhàm chán, cách thức tổ
chức hoạt động phải khiến trẻ chủ động tiếp thu những kinh nghiệm mới, vận
dụng các kinh nghiệm cũ trong các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau.

Nhóm phương pháp tìm tòi- sáng tạo: Hoạt động của trẻ và giáo viên
nhằm động viên, kích thích hoạt động tìm kiếm, khám phá và phát hiện trong
các hoạt động tạo hình, qua đó mà phát triển khả năng tư duy sáng tạo, trí
tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.
Nhóm các phương pháp mang tính vui chơi: Việc sử dụng biện pháp
mang tính vui chơi trong các hoạt động tạo hình sẽ làm tăng hứng thú của trẻ,
tạo nên tâm trạng phấn khởi, mong muốn được vẽ, nặn, cắt, dán và làm tăng
hiệu quả của việc huy động trí lực trong quá trình hoạt động.
Phân loại các biện pháp đó thành các nhóm:
Các biện pháp vui chơi tìm hiểu thế giới xung quanh.
Các biện pháp chơi- miêu tả có chủ đề.
Các biện pháp chơi- ôn luyện.

Các biện pháp “trò chơi hóa” sản phẩm tạo hình.
7. Các hình thức tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non:
Có hai hình thức quan trọng:
+ Tổ chức hoạt động tạo hình trong tiết học.
+ Tổ chức hoạt động tạo hình ngoài tiết học.
18
7.1. Hoạt động tạo hình trong tiết học.
Trên thực tế, tiết tạo hình này đang được coi là hình thức quan trọng,
được các trường mầm non quan tâm nhiều nhất.
Có nhiều loại tiết học tạo hình:
Tiết học tạo hình theo nhóm nhỏ:
Tiết học theo nhóm nhỏ: là tiết học tổ chức cá nhân hoặc với những trẻ

gặp khó khăn trong bộ môn tạo hình. Nội dung của tiết học này không theo một
hệ thống chặt chẽ, tuy nhiên vẫn cần chuẩn bị và có kết quả từ trước.
Tiết học theo nhóm lớp: nội dung của tiết học này cũng bám sát chương
trình tạo hình. Sự tham gia của trẻ vào các tiết học này không phải là bắt buộc
đối với toàn lớp. Trên các giờ học này, giáo viên lần lượt làm việc với từng
nhóm, cung cấp cho trẻ hiểu biết, rèn luyện các kỹ năng nhằm phục vụ cho tiết
học bắt buộc với cả lớp. Chương trình dạy học trong các tiết học với nhóm được
giáo viên lựa chọn tùy theo điều kiện của lớp, tùy theo hứng thú của trẻ.
Loại tiết học mang tính chủ đạo: là tiết học bắt buộc với cả lớp. Nó đóng
vai trò chủ lực mà ở đó người ta bồi dưỡng, rèn luyện cho trẻ một cách có hệ
thống theo một chương trình nhất định.
Trên tiết học của bộ môn các hoạt động khác hoạt động tạo hình không

đóng vai trò chủ đạo, các nhiệm vụ tạo hình không phải là nhiệm vụ chính,
nhưng ở đó người ta có thể kết hợp giải quyết các nhiệm vụ phát triển. Khả năng
hoạt động tạo hình của trẻ có thể đưa vào đó các yếu tố của hoạt động tạo hình.
Các tiết học tạo hình trong trường mầm non được phân theo các loại hình
của hoạt động tạo hình: vẽ, nặn, xếp dán,… Ngoài ra còn một số tiết học mang
tính ứng dụng như: xếp hình, gấp giấy,…
Thể loại các tiết học tạo hình được phân loại theo cơ sở của sự hình thành
hình tượng, gồm 3 loại:
+ Các tiết học tạo hình theo mẫu.
+ Các tiết học tạo hình theo đề tài.
+ Các tiết học tạo hình theo ý thích.
19

Tiết học theo mẫu: là loại tiết học mà ở đó trẻ miêu tả, tái hiện lại một cách
tương đối chính xác hình ảnh của đối tượng miêu tả. Trên các tiết học này người
ta cung cấp kiên thức, những hiểu biết tương đối đầy đủ, chính xác về đối tượng
miêu tả để giúp trẻ hình thành những biểu tượng một cách rõ nét và tiếp thu
những ấn tượng ban đầu một cách sâu sắc.
Đây là hình thức miêu tả theo hệ thống biểu tượng tri giác một cách trực
tiếp, quan sát mẫu trực tiếp, nếu ta cung cấp trước cho trẻ biểu tượng đó ngoài
các chi tiết học một cách cụ thể, thì nó tạo điều kiện thuận lợi hơn để rèn luyện ở
trẻ phát triển khả năng đánh giá bằng mắt, trí nhớ tri giác. Khi trẻ đã có những
ấn tượng, những hình ảnh về đối tượng mình miêu tả, thì quá trình cho trẻ tái
hiện những hình ảnh tri giác tốt hơn. Trong các tiết học theo mẫu, sản phẩm phải
giống nhau, sự tương đối giữa hình ảnh được miêu tả chủ yếu của các loại tiết

này là những sự vật đơn lẻ, có cấu trúc tương đối đơn giản. Mục đích là tập cho
trẻ quan sát, cung cấp các hiểu biết, các kỹ năng kỹ xảo.
Tiết học theo đề tài: Đây là nét mang tính ôn luyện, ở đó trẻ phải sử dụng
các biểu tượng, hiểu biết đã được tích lũy, cất giữ trong trí nhớ để tái tạo lại các
hình ảnh mà nó không nhìn thấy trực tiếp. Tiết học theo đề tài còn có thể hiểu là
tạo hình theo trí nhớ hoặc theo sự hình dung( không có mẫu để quan sát trực
tiếp).
Mục đích của loại tiết này là phát triển trí nhớ hình tượng, tưởng tượng tái tạo,
rèn luyện khả năng tích cực độc lập.
Tiết học tạo hình theo ý thích: Miêu tả khả năng sáng tạo, thể hiện những
biểu tượng hình tượng mà khả năng tưởng tượng sáng tạo nên.
Mục đích của loại tiết học này là hình thành và phát triển ở trẻ khả năng

hoạt động tích cực độc lập. Nội dung miêu tả của tiết học này thể hiện các quan
hệ tương đối phức tạp giữa các sự vật hiện tượng trogn thế giới xugn quanh, là
sự tổng hợp, phối hợp giữa các nội dung mà trẻ đã thể hiện trên các tiết học tạo
hình theo mẫu hoặc theo đề tài.
20
7.2. Hoạt động tạo hình ngoài tiết học:
Để giúp trẻ tiếp thu, tích lũy, mở rộng vốn kinh nghiệm tri giác, vồn biểu
tượng, hình tượng phong phú về thế giới xung quanh, cần bổ sung cho hệ thống
các tiết học tạo hình ít ỏi bằng hàng loạt hoạt động phong phú “ mọi lúc mọi
nơi”, trong các giờ học khác, các hoạt động vui chơi mà hoạt động sinh hoạt
hàng ngày của trẻ. Chính những hoạt động mang tính tạo hình không bị gò bó,
phù hợp với hứng thú và tầm hiểu biết của trẻ sẽ nuôi dưỡng ở trẻ lòng say mê

với môn học tạo hình và tạo điều kiện ở trẻ tính tích cực nhận thức. Thông qua
đó giáo viên cung cấp cho trẻ những kiến thức về cái đẹp, kỹ năng kỹ xảo, đặc
biệt là xúc cảm tình cảm.
Các hoạt động này có thể là quá trình tri giác chuyên biệt ngoài tiết học
cho trẻ tri giác và phải được chuẩn bị các bước đầy đủ cho trẻ tri giác đối tượng
miêu tả được tốt. Hoặc có thể là hình thức chơi tạo hình. Hoạt động tạo hình có
môi liên hệ rất chặt chẽ với hoạt động vui chơi. Cả hai hoạt động cùng là quá
trình lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, quá trình phản ánh hiện thực xã hội qua
lăng kính chủ quan của trẻ. Qua đó sẽ tạo ra khoảng rộng cho hoạt động của trí
tưởng tượng sáng tọa trong tạo hình.
Có thể nói phương châm “ học mà chơi, chơi mà học” sẽ rất có hiệu quả,
nếu chúng ta biết lồng ghép các biện pháp vào trong phương pháp dạy học cho

trẻ. Nó không chỉ giúp trẻ cảm thấy hứng thú đối với hoạt động tạo hình mà
thông qua đó trẻ tiếp thu được các tri thức kỹ xảo, tưởng tượng sáng tạo trong
quá trình tri thức đối tượng miêu tả.
8. Trò chơi và hoạt động chơi
8.1. Khái niệm:
Chơi là hoạt động độc đáo của con người, là một phần không thể thiếu
trong đời sống của trẻ thơ. Không thể làm việc với trẻ mà không hiểu về “ việc
chơi” của trẻ. Trò chơi tạo hình giúp trẻ hứng thú và phát triển tích cực hơn khả
năng sáng tạo của trẻ, giúp trẻ thổ lộ hết khả năng tạo hình của mình.
21
8.2. Trò chơi của trẻ em là phương tiện để giáo viên tổ chức sinh hoạt của trẻ
ở trường mầm non.

Các trò chơi giữ vị trí ưu tiên trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường
mầm non.
Tạo điều kiện để trẻ tự chơi, một trong những biện pháp tổ chức sinh hoạt
sáng tạo của trẻ.
Các trò chơi là nội dung và hình thức tổ chức thể dục sáng cho trẻ.
Các trò chơi được sử dụng vào mục đích dạy học. Trò chơi được sử dụng
như hình thức tổ chức toàn bộ giờ học.
Các trò chơi được sử dụng như biện pháp tổ chức đầu giờ học.
Yếu tố chơi kích thích trẻ trên giờ học.
8.3. Các thủ thuật trò chơi
Sử dụng yếu tố trò chơi trong hoạt động tạo hình là phương pháp có hiệu
quả. Trẻ càng nhỏ thì trò chơi chiếm vị trí càng lớn. Việc thủ thuật sử dụng trò

chơi trong giờ tạo hình làm tăng thêm sự hấp dẫn, ham thích của trẻ đối vớ hoạt
động tạo hình, hình thành tâm trạng tích cực cho trẻ, do vậy hiệu quả của giờ
học tăng lên.
Những thủ thuật chơi có những đặc điểm khác nhau và được sử dụng với
mục đích khác nhau. Ở lớp bé, các thủ thuật này được sử dụng với mục đích tập
trung sự chú ý, làm tăng hứng thú với hoạt động tạo hình. Ví dụ như bạn búp bê
đến chơi với các em và đề nghị các em vẽ chân dung tặng bạn búp bê. Các con
vật như sống cùng trẻ, trò chuyện với trẻ, dựa vào đó mà giáo viên nghĩ ra tình
huống để lồng vào đó nhiệm vụ giờ học. Đối vớ trẻ lứa tuổi lớn, có thể đề nghị
các em đóng vai trong trò chơi: người thợ sản xuất bát đĩa, nhà nhiếp ảnh, tổ
chức triển lãm tranh,…
Những sản phẩm nặn hay vẽ trang trí có thể sử dụng trong trò chơi sau giờ

học, sự liên quan giữa giờ học và chơi có tác dụng tốt, phát triển lòng yêu thích đối
với hoạt động tạo hình, có thể phát triển mối liên quan này như: nặn hoa quả để
chơi trò “ bạn hàng mậu dịch”, cắt dán tấm thảm nhỏ để trang trí phòng búp bê,…
22
Sử dụng yếu tố chơi nên nhất quán từ đầu đến cuối giờ học, chẳng hạn có búp bê
đến chơi, các em nặn bánh mời búp bê thì đến cuối giờ học, cô giáo xếp bánh
vào đĩa mời búp bê, cô khen bánh cả lớp làm rất đẹp và ngon. Tất cả các phương
pháp và thủ pháp bên trong quá trình dạy học cần kết hợp với nhau và tác động
qua lại với nhau, giúp trẻ hiểu và tiến hành công việc một cách dễ dàng, gây
được hứng thú với hoạt động tạo hình và phát triển khả năng sáng tạo của trẻ.
8.4. Ý nghĩa giáo dục trò chơi tạo hình:
Cơ hội làm nảy nở thái độ sống tích cực.

Cơ hội hình thành tự ý thức của trẻ nhỏ.
Cơ hội phát triển nhận thức cảm tính.
Cơ hội phát triển vận động.
Cơ hội hình thành các trò chơi tiêu biểu của trẻ mẫu giáo.
8.5. Các nguyên vật liệu tạo hình:
Các nguyên vật liệu như: lá, hoa, hộp sữa, dây, hột hạt, đất sét, màu,…
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH CHO TRẺ MẪU GIÁO 5- 6 TUỔI
1. Vài nét về đặc điểm, tình hình của trường mầm non Hoa
Hồng.
Quá trình thành lập:

Trường mầm non Hoa Hồng được thành lập từ năm 1988, địa chỉ của trường là:
Số 6, Trần Tử Bình- Phường Nghĩa Tân- Quận Cầu Giấy- Hà Nội.
Cơ cấu của trường:
+ Tổng số cháu: 890 cháu
+ Tổng số lớp: 18 lớp - 6 lớp mẫu giáo lớn: A1, A2, A3, A4, A5, A6
- 6 lớp mẫu giáo nhỡ: B1, B2, B3, B4, B5, B6
- 4 lớp mẫu giáo bé: C1, C2, C3, C4
- 2 lớp nhà trẻ: D1, D2
+ Tổng số cán bộ giáo viên: 56
+ Ban giám hiệu: 3 người
18/18 lớp thực hiện chương trình “ đổi mới hình thức chăm sóc giáo dục
trẻ”. Về đội ngũ: 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ nghiệp vụ sư

phạm, số lượng giáo viên giỏi các cấp đều tăng theo hàng năm, hiện nay trường
có 1 giáo viên giỏi cấp tỉnh. Về phương pháp dạy: 100% giáo viên đều nắm
được phương pháp tổ chức các hoạt động nhưng việc vận dụng phương pháp
theo hình thức đổi mới thì chưa sáng tạo, còn rập khuôn. Đặc biệt là việc lựa
chọn, sưu tầm các nguyên vật liệu mở để làm đồ dùng dạy học đã có nhiều cố
gắng trong việc đầu tư để đưa vào giảng dạy theo chủ đề, chủ điểm đạt kết quả
tốt. Tuy nhiên, để khai thác hết hiệu quả sáng tạo trong tạo hình, đáp ứng mục
tiêu đề ra trong việc sử dụng các nguyên vật liệu mở, để trẻ thích thú khi được
tiếp xúc với các nguyên vật liệu mở, giúp trẻ hứng thú khi học bộ môn tạo hình.
Các phương pháp dạy trẻ có sáng tạo trong tạo hình để ứng dụng trong các môn
học khác.
24

Do đó, để nắm được thực trạng và chất lượng sáng tạo trong tạo hình cho trẻ
5- 6 tuổi, em tiến hành khảo sát 30 cháu lớp mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi ở trường
mầm non Hoa Hồng- Phường Nghĩa Tân- Quận Cầu Giấy- Hà Nội, đồng thời
đưa ra tiêu chí đánh giá với các nội dung sau:
2. Mục đích điều tra:
Chúng tôi tiến hành điều tra để thấy kỹ năng, kỹ xảo trong việc sử dụng trò
chơi trong việc tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ 5- 6 tuổi. Từ đó rút ra được
những hạn chế. Trên cơ sở đó đề ra những phương án và biện pháp nâng cao
chất lượng hoạt động tạo hình cho trẻ.
2.1. Phương pháp điều tra thực trạng:
Để đạt được hiệu quả và sự sáng tạo trong tạo hình, tôi phối hợp sử dụng các
biện pháp sau:

Phương pháp quan sát hoạt động tạo hình của trẻ 5- 6 tuổi trên tiết học, hoạt
động góc, hoạt động ngoài trời.
Phương pháp phân tích tranh vẽ của trẻ 5- 6 tuổi.
Phương pháp thống kê so sánh kết quả hoạt động.
Kết quả điều tra thực trạng:
2.2. Kết quả quan sát hoạt động tạo hình:
2.2.1. Trên tiết học:
Số lớp quan sát: lớp mẫu giáo lớn trường mầm non Hoa Hồng.
Số trẻ: 30 cháu/ lớp A1
Quan sát tự nhiên:
Tôi đã dự giờ đồng nghiệp với số tiết là 3 về nội dung vẽ của trẻ 5- 6 tuổi:
Vẽ ấm pha trà ( mẫu)

Vẽ quà tặng chú bộ đội ( đề tài )
Vẽ theo ý thích.
2.2.2. Trong hoạt động góc:
Quan sát các cháu chơi ở góc tạo hình:
25

×