Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

luận văn đại học sư phạm hà nội ngành thể dục thể thao Biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.36 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Thể Dục Thể Thao (TDTT) như một bộ phận của nền văn hóa chung
của loài người. Bắt nguồn từ đời sống vật chất của xã hội nguyên thủy và qua
mỗi một thời kì nó đã đạt được những thành tựu đáng kể. TDTT trên thế giới
rất được coi trọng và đầu tư, sự phát triển của thể dục thể thao là biểu hiện sự
phát triển của quốc gia đó trên thế giới.
Nước Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập, để đạt được những
thành tựu như ngày hôm nay là cả một quá trình xây dựng và thực hiện không
ngừng nghỉ của Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta trong công cuộc đổi mới để
phát triển đất nước trong đó có GD. Hơn nữa, một quốc gia hùng mạnh là một
quốc gia có nền GD phát triển cùng với chính trị và kinh tế. Vì vậy, đầu tư
cho GD là đầu tư cho phát triển, đảm bảo xây dựng một thế hệ kế tiếp có đủ
phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội Đảng khoá IX đã xác
định “GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, phát triển GD&ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người”. Hiện nay GD đã trở thành mối
quan tâm của toàn xã hội. Đặc biệt, GDMN có một vị trí rất quan trọng, là
khâu đầu tiên trong hệ thống GDQD, là bậc học đặt nền móng cho sự phát
triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chăm sóc, GD trẻ
em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống là một việc làm hết sức
cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo và
bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người tương lai của đất nước. Trẻ
em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và
bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng.
Vì thế, GD con người ở lứa tuổi MN vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ
của mỗi con người đối với xã hội, đối với cộng đồng. GDTC cho trẻ càng có ý
1
nghĩa quan trọng hơn trong Nghị Quyết TW4 về những vấn đề cấp bách của
sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân có ghi rõ: “Sức khoẻ là
cái vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng


trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. GDTC là một bộ phận quan
trọng của GD phát triển toàn diện, có mối quan hệ mật thiết với GD đạo đức,
thẩm mỹ và lao động. Hơn nữa, GDTC cho trẻ MN càng có ý nghĩa quan
trọng hơn bởi cơ thể trẻ đang phát triển mạnh mẽ, hệ thần kinh, cơ xương
hình thành nhanh, bộ máy hô hấp đang hoàn thiện. Cơ thể trẻ còn non yếu dễ
bị phát triển lệch lạc, mất cân đối nếu không được chăm sóc GD đúng đắn thì
có thể gây nên những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể trẻ mà không thể
khắc phục được. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta trong những
năm gần đây đã đặc biệt chú trọng tới công tác chăm sóc GD trẻ MN. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, tình hình sức khoẻ
còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Nhiều trẻ mắc bệnh còi xương, suy dinh
dưỡng, các bệnh đường hô hấp, các bệnh đường ruột các điều kiện đảm bảo
và chăm sóc sức khoẻ của trẻ còn nhiều thiếu thốn. Cơ sở vật chất ở các
trường còn quá chật hẹp, chưa đảm bảo vệ sinh môi trường cho trẻ sinh hoạt,
học tập. Vì vậy, GDTC cho trẻ em ở nước ta cần được tiến hành một cách
mạnh mẽ toàn diện, cần được sự quan tâm ủng hộ của toàn xã hội, tạo điều
kiện cho trẻ được phát triển tốt nhất, đặc biệt chống lại việc bạo hành trẻ mà
hiện nay đang xuất hiện trong một số nhà trẻ. Thông qua việc GD thể lực còn
GD ở trẻ đức dục, trí dục, mỹ dục nữa, đó là cơ sở vững chắc đáp ứng nhu cầu
xã hội hiện đại.
Trường mầm non Quang Minh thuộc huyện Mê Linh, thành phố Hà
Nội. Trường thành lập từ năm 2000 và cho tới nay trường vẫn là một trường
mầm non luôn đi đầu trong các phong trào và lập được nhiều thành tích của
cả thầy và trò. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai công tác GDTC trường
còn gặp nhiều khó khăn.
2
Quan tâm tới vấn đề GDTC cho trẻ mẫu giáo tôi mạnh dạn lựa chọn đề
tài: “Biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm
non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Góp phần nâng cao chất lượng GD nói chung và GDTC nói riêng của
trường mầm non Quang Minh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ
mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
2. Khách thể nghiên cứu: Công tác GDTC cho trẻ mẫu giáo trường
mầm non Quang Minh, hoạt động GD của trường mầm non Quang Minh.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng GDTC của trường mầm non Quang Minh đang gặp phải
những khó khăn và hạn chế nhất định. Nếu tìm ra được nguyên nhân và đưa
ra những biện pháp đồng bộ, khả thi, có tác dụng khắc phục những khó khăn
và hạn chế đó thì sẽ nâng cao được hiệu quả GDTC cho trẻ mẫu giáo trường
mầm non Quang Minh,Mê Linh - Hà Nội.
5. Nhiệm vụ
5.1. Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng GDTC cho trẻ mẫu giáo trường
mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
5.2. Nhiệm vụ 2: Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ
mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Quang
Minh, Mê Linh - Hà Nội.
- Xác định nguyên nhân, các yếu tố chi phối GDTC cho trẻ mẫu giáo
trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
- Lựa chọn biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ mẫu giáo
trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
3
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Được sử dụng với mục
đích thu thập tài liệu về các vấn đề liên quan đến cơ sở lí luận và thực tiễn để
giải quyết các nhiệm vụ. Những vấn đè thu thập được sẽ là cơ sở khoa học cho
việc tìm kiếm và xác định các biện pháp có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả
GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
7.2. Phương pháp quan sát sư phạm: Nhằm thu thập thông tin về các
vấn đề
- Thực trạng công tác GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Quang
Minh, Mê Linh - Hà Nội. Thông qua quan sát các giờ học thể dục, giờ vui
chơi của trẻ.
- Các yếu tố ảnh hưởng và chi phối tới công tác giáo dục thể chất cho
trẻ mẫu giáo.
Thông qua đó làm cơ sở để:
- Đánh giá thực trạng công tác GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm
non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
- Nghiên cứu và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ
mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
7.3. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu về hoạt động có liên quan tới
GDTC của trường trong những năm gần đây. Điều tra số lượng cán bộ chuyên
trách cũng như trình độ của họ nhằm đánh giá thực trạng của công tác GDTC
cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội để tìm ra
nguyên nhân và đề xuất giải pháp
7.4. Phương pháp toán học thống kê: Để xử lý số liệu và đánh giá kết
quả thông qua công thức một cách khoa học, giúp cho các kết luận có độ tin
cậy và sức thuyết phục cao.
Đề tài sử dụng công thức tính tỷ lệ %.
4
m
n
Tỷ lệ % = x 100%

Trong đó: m là tần số quan sát
n là tổng số các đơn vị tập hợp thống kê.
8. Những đóng góp mới của đề tài
- Đánh giá được thực trạng của GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm
non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
- Tìm hiểu những yếu tố chi phối GDTC cho trẻ mẫu giáo trường mầm
non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
- Lựa chọn được những biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC cho trẻ
mẫu giáo trường mầm non Quang Minh, Mê Linh - Hà Nội.
9. Kế hoạch nghiên cứu
9.1. Giai đoạn 1: Từ tháng 8/2013-12/2013. Nghiên cứu tài liệu, viết cơ
sở lý luận của đề tài, xây dựng kế hoạch học tập, tổ chức đánh giá vấn đề
nghiên cứu (giải quyết vấn đề nhiệm vụ 1, nhiệm vụ 2 của đề tài).
9.2. Giai đoạn 2: Từ tháng 12/2013-1/2014. Đọc và tham khảo tài liệu,
xây dựng đề cương nghiên cứu và bảo vệ đề cương nghiên cứu trước hội đồng
khoa học
9.3. Giai đoạn 3: Từ tháng 1-5/2014. Xử lý số liệu, viết và hoàn thành
khóa luận, bảo vệ khóa luận trước hội đồng khoa học.
5
m
n
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục Việt Nam
GDMN là bậc học đầu tiên trong hệ thống GDQD có nhiệm vụ đặt nền
móng cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người mới Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của thời kì đổi mới. Các nghị quyết của Đảng về
GDMN đều đã xác định rõ vị trí của GDMN trong chiến lược GD&ĐT con
người, đã chỉ ra bước bước đi thích hợp với khả năng thực tế của đất nước
“Phát triển bậc học MN phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi. Đảm
bảo hầu hết trẻ 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn chuẩn bị vào lớp

một”, “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học MN cho hầu hết trẻ em
trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Nhận thức
đúng đắn được vị trí của GDMN trong chiến lược phát triển con người sẽ giúp
cho nền GD nước ta phát triển tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới.
Như vậy, bậc học MN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống GDQD có vai
trò cực kì quan trọng, kết hợp với gia đình trong việc nuôi dưỡng và GD trẻ,
đặt cơ sở nền tảng ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam. Bậc học này tạo điều kiện cho trẻ có thể phát triển các khả
năng vốn có của mình, giúp trẻ có nhiều cơ may trong cuộc sống và chuẩn bị
cho thế hệ trẻ bước vào thế kỉ XXI - thời đại của nên văn minh trí tuệ.
Mặt khác, não của em bé còn là một bí ẩn mà các nhà khoa học trên thế
giới chỉ mới bắt đầu làm sáng tỏ. Người ta biết rằng hầu hết các tế bào não đã
hình thành từ trước khi sinh. Nhưng trong 3 năm đầu đời, nếu trẻ được sống
trong môi trường chăm sóc, GD sớm đúng đắn, đa dạng, được cung cấp
những trải nghiệm phong phú kích hoạt não trẻ sớm ngay từ giai đoạn này, trẻ
sẽ hình thành nên hàng tỷ các kết nối và mạng lưới thần kinh dày đặc trên bộ
não, giúp trẻ đạt được những tiềm năng trí lực tối đa cho cả cuộc đời. Các nhà
khoa học gọi cái mạng lưới đâm nhánh chằng chịt này là “rừng tế bào thần
6
kinh”. Một trẻ 3 tuổi khỏe mạnh bình thường có số lượng các khớp thần kinh
kết nối giữa các tế bào não nhiều hơn gấp hai lần so với người trưởng thành.
Điều này là bởi vì sau 10-11 tuổi, não trẻ bị mất đi các khớp thần kinh mà
chúng không sử dụng đến.[1]
Nếu bỏ qua cơ hội chỉ đến một lần trong đời lúc này thì tiềm năng não
bộ của trẻ sẽ giảm dần theo quy luật “sử dụng hay đánh mất nó”, nghĩa là GD
càng muộn thì tiềm năng có được của con người được phát huy càng ít.
Nghiên cứu GD trẻ thông minh sớm chỉ ra rằng: Chúng ta lãng phí một nguồn
tài nguyên não bộ vô cùng to lớn bởi một người bình thường mới chỉ khai
thác được từ 3-10% khả năng kỳ diệu của não bộ. Ngày nay các nhà khoa học

đã khẳng định 3 năm đầu đời là giai đoạn rất quan trọng của sự phát triển não.
“Trẻ em cần được chăm sóc và kích thích phát triển một cách toàn diện
từ trước khi được sinh cho tới những năm tháng đầu đời để có thể lớn lên và
phát triển hết tiềm năng của mình” (ARNEC,2011). “Các cơ hội GD được
định hình từ lâu trước khi trẻ đến lớp, các kỹ năng ngôn ngữ, nhận thức và xã
hội mà trẻ phát triển thời thơ ấu là trụ cột thực thụ cho việc học tập cả
đời”. (UNESCO, Báo cáo giám sát GDMN 2011).
Đặc biệt và cần được đầu tư đúng mức bởi nền GD Việt Nam nói riêng
và GD trên thế giới nói chung GDMN là bước cơ sở, là nền móng ban đầu
cho hệ thống giáo dục quốc gia để đảm bảo cho mọi sự phát triển sau này của
trẻ diễn ra hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu về con người mới của xã hội
hiện đại. Vì vậy mà GDMN có một ví trí vô cùng quan trọng trong nền GD
nước nhà.
1.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về GDMN
Tháng 12 năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
họp và đã xác định: “công tác nuôi dạy trẻ ở lứa tuổi MN là một vấn đề xã hội
to lớn, liên quan đến sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa của đất nước”.
Ngày 8/2/1976, Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị số 65-CT/TW về công tác nhà
7
trẻ, vạch phương hướng, biện pháp phát triển mạng lưới nhà trẻ và nâng cao
chất lượng công tác nuôi dạy trẻ.
Thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ IV của Đảng, ngày 11/1/1979 Bộ
Chính trị TW Đảng đã ra Nghị quyết số 14- NQ/TW về cải cách GD nhằm
thực hiện mục tiêu GD tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt
Nam mới, con người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện Đặc
biệt đối với GDMN, nghị quyết đã ghi rõ: “Việc chăm sóc GD các em từ tuổi
sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác dụng cực kì quan trọng trong sự hình thành con
người mới của xã hội chủ nghĩa. Cần có kế hoạch dài hạn và biện pháp thích
cực động viên và tổ chức toàn xã hội gánh vác sự nghiệp chăm sóc và GD thế
hệ MN của dân tộc, phát triển rộng khắp mạng lưới nhà trẻ và lớp mẫu giáo từ

thành thị tới nông thôn, xây dựng mạng lưới đó thành một bộ phận khăng khít
của hệ thống GDQD ”. “Ra sức nâng cao chất lượng nuôi dạy các cháu, làm
cho các cháu phát triển một cách thuận lợi về thể lực, tình cảm và trí thông
minh, chuẩn bị tốt cho các cháu vào trường phổ thông ”. Đây là một nghị
quyết nói đầy đủ nhất, rõ ràng nhất quan điểm của Đảng đối với GDMN,
mang ý nghĩa lịch sử rất lớn.
Giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta chưa ban hành nghị quyết TW có tính
chuyên đề về GD&ĐT. Đường lối và các chính sách của Đảng về lĩnh vực
này được thể hiện trong các văn kiện của các đại hội Đảng và các nội dung
được đưa vào các nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Nghị quyết Đại hội IV nêu rõ: “ Tiến hành cải cách GD trong cả nước,
phát triển GD phổ thông; sắp xếp, từng bước mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, phát triển rộng rãi các
trường dạy nghề”. Để cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, ngày 11-1-
1979 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW “ về cải cách GD”. Nghị
quyết nêu mục tiêu của cải cách GD lần này là “làm tốt việc chăm sóc và GD thế
8
hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành, nhằm tạo cơ sở ban đầu rất
quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể và phát
triển toàn diện”. Nguyên lý cải cách GD là việc học phải đi đôi với hành, GD kết
hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Nội dung chủ yếu của
công tác cải cách GD lần này gồm ba mặt, cải cách cơ cấu của hệ thống GD, cải
cách nội dung GD và cải cách phương pháp GD. Nghị quyết nêu hệ thống GD
mới của nước ta là:“ một thể thống nhất và hoàn chỉnh”, bao gồm:“ GDMN,
giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và đại học, mạng lưới trường, lớp
tập trung và mạng lưới trường, lớp không thoát ly sản xuất và công tác”. Nghị
quyết nhấn mạnh biện pháp cải tiến chương trình học và biên soạn sách giáo
khoa mới, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trường học bằng cách tăng
đầu tư, kiện toàn tổ chức quản lý và tăng cường công tác quản lý của ngành GD,
đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học GD.

Đây là nghị quyết đầu tiên về chuyên đề GD sau khi đất nước được
thống nhất, có nhiều vấn đề cần cụ thể hoá bằng các chính sách, các đề án để
thực hiện, từ xác định mục tiêu cụ thể, sắp xếp lại cơ cấu hệ thống cho đến
vấn đề biên soạn sách giáo khoa thống nhất cho các cấp học bậc học. Nghị
quyết số 14-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IV) là một nghị quyết rất quan
trọng. Nó đặt nền móng cho công cuộc cải cách GD của đất nước trong những
năm 80 của thế kỷ XX. Do vậy, việc cải cách toàn diện nền GD nước nhà là
một việc rất cần thiết và cấp bách. Nhu cầu xây dựng một hệ thống giáo dục
thống nhất là nhu cầu thực tiễn đặt ra tại thời điểm ban hành Nghị quyết. Điều
21 luật giáo dục năm 2005 quy định GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng,chăm
sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.[3]
Quan điểm chỉ đạo chiến lược phát triển nghành GDMN của Việt Nam
tới năm 2020. Chiến lược phát triển GDMN của nước ta từ nay đến 2020
được thể hiện rõ trong quan điểm sau:
9
- Phát triển GDMN được coi là nền tảng cho sự phát triển nguồn lực
con người, phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phổ cập tiểu học và trung học cơ sở
thế kỉ XXI.
- GDMN theo hướng đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm thu hút
thêm các nguồn lực đầu tư cho GDMN.
- Không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc GD trẻ phù hợp với đòi
hỏi của sự phát triển kinh tế, xã hội đối với GD&ĐT trong điều kiện công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của GDMN
- GDMN là một nghành học, bậc học trong hệ thống GDQD. Nó đặt
nền móng, cơ sở đầu tiên cho việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ MN
và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.[10]
- Trẻ em ở lứa tuổi mầm non còn nhỏ, cơ thể non nớt nên trẻ phụ thuộc
nhiều vào người lớn và đặc biệt cần sự giúp đỡ của họ. Nhà giáo dục giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn, trợ giúp trẻ, tạo cơ hội và cơ may cho trẻ

trong cuộc sống hiện tại và trong tương lai. Ông cha ta từng nói “Dạy con từ
thửa còn thơ”, , “Bé không vị, cả gãy cành”, “măng non dễ uốn, tre già nổ
đốt”
Nhà sư phạm Nga A.X. Macarenco cho rằng, nền tảng căn bản của việc
GD trẻ được hình thành từ trước 5 tuổi “ Những điều dạy cho trẻ trong thời kì
đó chiếm tới khoảng 90% của quá trình GD. Về sau việc GD&ĐT con người
vẫn còn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả còn những nụ hoa thì đã
được vun trồng trong 5 năm đầu tiên của cuộc đời”.
Việc GD trẻ em lứa tuổi MN (trẻ em lọt lòng đến 6 tuổi) có vai trò cực
kì quan trọng, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách suốt
cuộc đời của mỗi con người. Kết hợp cùng với gia đình tiến hành các nhiệm
vụ giáo dục trẻ một cách tổng hợp và đồng bộ là một nguyên tắc trong GD
10
trẻ. Tùy vào đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân của trẻ mà lựa chọn những
nội dung cụ thể của từng nhiệm vụ GD cũng như phương pháp, biện pháp
thực hiện cho phù hợp. Các nhiệm vụ GD trẻ có liên quan mật thiết và bổ
sung lẫn cho nhau tạo thành một khối thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của các tác động GD đến nhân cách toàn vẹn của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ
phát triển một cách tổng thể.[10]
Trong giai đoạn hiện nay, nghành MN càng nhận thức sâu sắc được
nhiệm vụ và vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp đổi mới GD.
- GD sức khỏe cho trẻ, là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có
hướng, có kế hoạch của nhà GD đến trẻ nhằm bảo vệ và phát triển sức khỏe cả
về thể chất lẫn tinh thần giúp cho trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hồn nhiên, cơ thể
phát triển hài hòa cân đối góp phần duy trì cuộc sống lành mạnh, vui vẻ, an toàn
và hạnh phúc. Nhiệm vụ và nội dung GD sức khỏe bao gồm:
+ Phát triển sức khỏe thể chất và tinh thần, hình thành năng lực cá nhân
duy trì cuộc sống lành mạnh. Bảo vệ tính mạng và tăng cường sức khỏe, nâng
cao sức đề kháng cho trẻ và đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển đúng lúc và
hoàn chỉnh của trẻ. Giúp trẻ có trạng thái hoạt động cân bằng, có trạng thái

tâm lí vui tươi, ngăn ngừa bệnh mệt mỏi cho hệt thần kinh.
+ Phát triển các kĩ năng vận động tinh và hoàn thiện dần các vận động
cơ bản, hình thành một số tố chất vận động cho trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo, tiếp
tục hình thành, phát triển và hoàn thiện các kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ bản
(đi, chạy, nhảy, leo trèo, ) rèn luyện năng lực phối hợp cảm giác (chủ yếu là
thị giác, thính giác) với vận động, phối hợp các vận động của các bộ phận cơ
thể với nhau (đầu, tay, chân, mình) vận động tinh của tay, năng lực định
hướng trong vận động. Từng bước rèn luyện những tố chất của vận động giúp
cho trẻ vận động ngày càng nhanh nhẹn, chính xác, linh hoạt, dẻo dai, không
có những động tác thừa.
11
+ Hình thành một số kĩ năng văn hóa – vệ sinh đơn giản. GD và tập cho
trẻ một số kĩ năng văn hóa – vệ sinh đơn giản (trẻ tự xúc ăn, ăn ngậm miệng,
khi ăn không nói chuyện, biết mời trước khi ăn, ). Từng bước tạo cho trẻ thói
quen ăn, ngủ, thức đúng giờ và dễ dàng thích nghi khi chuyển từ hoạt động này
sang hoạt động khác. Tập cho trẻ hiểu được cách sống ở trường mầm non và tổ
chức không gian sống ở trường mà không cần đến sự trợ giúp của người lớn.
+ Hình thành những kiến thức, kĩ năng và thái độ cần thiết cho việc
đảm bảo sự an toàn cho sức khỏe. Hình thành ở trẻ tính tò mò ham hiểu biết
về sức khỏe con người và tự giác làm những việc cần thiết để phòng bệnh.
Biết được một số món ăn, thực phẩm thông thường và lợi ích của chúng đối
với sức khỏe. Biết một số nguy cơ không an toàn và phòng tránh.
+ Phát triển ở trẻ khả năng tự kiểm soát và điều khiển cơ thể, phát triển
tính độc lập, tự tin vào năng lực thể chất của bản thân. Tập cho trẻ biết phối
hợp vận động nhịp nhàng, giữ được thăng bằng khi thực hiện vận động, thực
hiện và phối hợp được các cử động của bàn tay, ngón tay
- GD và phát triển hoạt động nhận thức cho trẻ, là một quá trình tác
động sư phạm có mục đích, có định hướng, có kế hoạch của nhà GD đến trẻ
nhằm hình thành cho trẻ một số biểu tượng đơn giản về thế giới xung quanh
và phương thức hoạt động trí tuệ thức sơ đẳng góp phần phát triển những

năng lực và nhu cầu hoạt động nhận thức ở trẻ em. Nhiệm vụ và nội dung của
GD nhận thức bao gồm:
+ Hình thành và phát triển năng lực tìm hiểu, khám phá môi trường
xung quanh của trẻ. Hình thành ở trẻ sự quan tâm, tính tò mò về những hiện
tượng, sự vật khác nhau ở xung quanh và thông qua đó GD cho trẻ có ý thức
gần gũi với môi trường. Thu hút trẻ vào hoạt động tìm hiểu khám phá môi
trường xung quanh qua đó liên hệ với cuộc sống hằng ngày của mình. Trên cơ
sở đó làm giàu vốn kiến thức về bản chất của sự vật, hiện tượng, khái niệm
đơn giản về môi trường xung quanh cho trẻ thông qua những quan sát, tư duy
12
và giải quyết các hoàn cảnh, tình huống bằng vốn kinh nghiệm và hiểu biết về
trẻ. Tăng cường vốn tri thức cho trẻ, sắp xếp, giải thích và hệ thống hóa các tri
thức đó. Giúp trẻ hiểu rõ ràng các khái niệm về sự vật xung quanh, chức năng
và một số phẩm chất của chúng (màu sắc, kích thước, hình dạng, tính chất, ).
Trẻ cũng nên tiếp thu tri thức về một số hiện tượng tự nhiên, nắm được mối
liên hệ và quan hệ giữa các hiện tượng mang tính quy luật và mang tính
nguyên nhân gần gũi (dấu hiệu đặc trưng của các mùa trong năm, mối liên hệ
giữa các cấu tạo và hành vi của động vật với môi trường sống của nó ) cũng
như cung cấp và làm giàu một số biểu tượng sơ đẳng về một số hiện tượng và
sự kiện trong đời sống xã hội của người lớn, về đất nước, thủ đô, lãnh tụ, các
dân tộc, các ngày lễ.
+ Phát triển các nhận thức của trẻ. Phát triển các giác quan, trên cơ sở
đó phát triển tư duy và tưởng tượng cho trẻ. Đặc biệt quan tâm đến phát triển
một số thao tác của tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp
+ Hình thành một số năng lực trí tuệ. Hình thành khả năng định hướng
trong môi trường xung quanh của trẻ, phát triển óc tò mò ham hiểu biết, sự
nhanh trí hình thành khả năng tự đánh giá nhận xét khách quan các sự vật,
hiện tượng, hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề hợp lí của trẻ.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ, là quá trình tác động sư phạm có mục
đích có kế hoạch của nhà giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nhiệm

vụ và nội dung của phát triển ngôn ngữ bao gồm:
+ Với trẻ em nhà trẻ: Nghe hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời
nói, biết hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản, sử dụng lời nói để giao tiếp và
diễn đạt một số mong muốn và yêu cầu đơn giản của trẻ.
+ Với trẻ em mẫu giáo: Nghe và hiểu lời nói trong giao tiếp, có khả
năng biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau, có khả năng diễn đạt rõ ràng trong
giao tiếp và bước đầu có kĩ năng về đọc và viết.
- GD tình cảm đạo đức - xã hội cho trẻ. Là quá trình tác động sư phạm
có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ em nhằm hình thành và
13
phát triển cho trẻ những xúc cảm tình cảm lành mạnh và có thái độ đúng mực
trong mối quan hệ cũng như trong ứng xử với mọi người xung quanh, với
thiên nhiên và bản thân mình. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ khả năng thích
ứng xã hội, thiết lập mối quan hệ và giao tiếp với người khác đồng thời phát
triển tính tự lực của trẻ. Nhiệm vụ và nội dung của GD đạo đức – xã hội cho
trẻ bao gồm:
+ Phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ nhỏ. GD trẻ có ý thức về bản
thân, bước đầu có ý thức về công dân. Nhận biết và thể hiện xúc cảm, tình
cảm với mọi người, sự vật, hiện tượng xung quanh. Hướng trẻ vào mối quan
hệ gần gũi với thiên nhiên, chú ý đến cái đẹp, cái bao la và sự diệu kì cùng
với sự thay đổi của môi trường xã hội và tự nhiên xung quanh trẻ. Trên cơ sở
đó giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của cuộc sống qua đó GD trẻ biết nâng
niu, giữ gìn và bảo vệ môi trường. GD và hình thành cho trẻ tình cảm, thái độ
tích cực với môi trường xung quanh và trong cộng đồng. Dạy trẻ biết yêu và
gắn bó với những người thân, phát triển ở trẻ tình cảm biết ơn đối với bố mẹ,
ông bà.
+ Hình thành cho trẻ những mối quan hệ bạn bè gần gũi và thân thiện.
Dạy trẻ biết cách giúp đỡ nhau, biết chia sẻ đồ chơi cho các bạn cùng chơi,
giữ gìn đồ chơi chung.
+ GD cho trẻ một số hành vi và quy tắc ứng xử xã hội.

+ Phát triển một số nét tính cách cần thiết cho trẻ như sẵn sàng hợp tác
chia sẻ với mọi người, tự tin vào bản thân và khả năng của mình, dám suy
nghĩ và hành động một cách độc lập
- GD thẩm mỹ, là quá trình tác động sư phạm có mục đích có hướng
của nhà giáo dục nhằm giúp trẻ biết nhìn và nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu
thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá
nhân. Nhiệm vụ và nội dung GD thẩm mỹ bao gồm:
14
+ Phát triển khả năng cảm nhận cái đẹp. Cung cấp và làm giàu ấn tượng
xung quanh cho trẻ trên cơ sở đó phát triển tri giác thẩm mỹ của chúng.
+ Hình thành xúc cảm thẩm mỹ, khả năng biểu đạt qua các hình thức
hoạt động nghệ thuật. Phát triển ở trẻ năng lực xúc cảm thẩm mỹ và hứng thú
với nghệ thuật. Bước đầu giáo dục thị hiếu nghệ thuật.
+ Phát triển khả năng sáng tạo, khả năng hoạt động nghệ thuật.
1.1.3. Vị trí của trường mầm non đối với đời sống xã hội
Lứa tuổi MN có vị trí rất quan trọng trong suốt quá trình phát triển
cuộc đời của mỗi con người. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dưới góc
độ sinh lý, tâm vận động, tâm lý xã hội đó khẳng định sự phát triển của trẻ
từ 0 - 6 tuổi là giai đoạn phát triển có tính quyết định để tạo nên thể lực, nhân
cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai. Những kết quả nghiên cứu về
sự phát triển đặc biệt của não bộ trong những năm đầu tiên của cuộc đời,
những nghiên cứu về ảnh hưởng và ích lợi của các dịch vụ GDMN có
chất lượng đó khiến các Chính phủ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam ngày càng quan tâm phát triển GDMN.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng GDMN, xác định nhiệm
vụ GDMN là thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, GD trẻ từ ba tháng tuổi
đến sáu tháng tuổi nhằm giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học
lớp một. GDMN có vị trí là bậc học đầu tiên trong hệ thống GDQD. Đề án
Phát triển GDMN giai đoạn 2006-2015 đó thể hiện quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta về phát triển GDMN thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp
thu các lý luận và kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới. Đề án
cũng đã tổng kết, phân tích và đánh giá thực trạng GDMN cả nước và mỗi
vùng miền trong hơn 10 năm qua, trên cơ sở đó, đặt yêu cầu phát triển
GDMN trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.[3]
15
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của GDMN trong hệ thống GDQD.
Trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc và GD trẻ em nhằm giúp trẻ em
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp
một. Trường mầm non có tư cách pháp nhân và con dấu riêng và có những
nhiệm vụ và quyền hạn.[10]
- Tiếp nhận và quản lý trẻ em trong độ tuổi.
- Tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, GD trẻ em theo chương trình chăm
sóc, GDMN do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Quản lý giáo viên, nhân viên và trẻ em.
- Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo
quy định của pháp luật.
- Chủ động kết hợp với các bậc cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, GD trẻ em, kết hợp với các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội
nhằm tuyên truyền, phổ biến những kiến thức về khoa học nuôi dạy trẻ em
cho gia đình và cộng đồng.
- Tổ chức cho giáo viên, nhân viên và trẻ em của trường tham gia các
hoạt động xã hội trong phạm vi cộng đồng.
- Giúp đỡ các cơ sở giáo dục mầm non khác trong địa bàn.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Trường mầm non là địa bàn để tiến hành thực hiện chiến lược đào tạo
và nuôi dưỡng thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Chiếm một vị trí quan trọng
và là bộ phận không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nghành
GD nói riêng và đất nước nói chung.
1.2. Đặc điểm của GDMN

Bậc học MN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống GDQD có vai trò cực
kì quan trọng, kết hợp với gia đình trong việc nuôi dưỡng và GD trẻ, đặt cơ sở
16
nền tảng ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam. Vì vậy GDMN có những đặc điểm mang tính cá biệt.
GD trẻ em ở lứa tuổi nhà trẻ có những nét đặc trưng riêng khác với
nhiệm vụ GD trẻ mẫu giáo. Ở lứa tuổi này, nhiệm vụ GDTC được coi là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nhà giáo dục cần quan tâm hơn tới việc chăm
sóc trẻ nhỏ, chú ý nhiều hơn đến nội dung bảo vệ sức khỏe, phòng chống suy
dinh dưỡng, tăng cường rèn luyện thể lực cho trẻ. Quan tâm tới chế độ ăn,
ngủ, vệ sinh. Tăng cường cho trẻ được vận động nhằm phát triển những vận
động cơ bản, tập cho trẻ những kĩ năng văn hóa vệ sinh sơ đẳng. Quan tâm
đặc biệt tới việc tổ chức hoạt động giao lưu xúc cảm trực tiếp với người lớn
cho trẻ em tuổi hài nhi và hoạt động với đồ vật cho trẻ em ấu nhi nhằm đáp
ứng nhu cầu chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này. Vào lứa tuổi nhà trẻ, chính là thời
kì “phát cảm về ngôn ngữ” của trẻ, vì thế nhiệm vụ quan trọng và hết sức cần
thiết là phải chú trọng phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Dạy trẻ học nói mọi lúc
mọi nơi, thông qua các hoạt động giao lưu xúc cảm trực tiếp với người lớn,
ở tuổi này, các giác quan của trẻ đang hình thành và phát triển rất nhanh và
đây chính là thời điểm thuận lợi, “thời cơ vàng” để GD phát triển các giác
quan cho trẻ, một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với nhà giáo dục là phải
tăng cường rèn luyện và phát triển các giác quan cho trẻ lứa tuổi này, trên cơ
sở đó phát triển quá trình tâm lí nhận thức lí tính. Vào khoảng 3 tuổi, trẻ xuất
hiện một số biểu hiện đặc trưng của lứa tuổi như hiện tượng “khủng hoảng”
của tuổi lên ba, hay nói tục chửi bậy, nhà giáo dục cần chú ý khắc phục. Lên
3 trẻ có biểu hiện tính tự lập, trẻ đòi được tự làm những gì trẻ muốn, nhà giáo
dục cần tạo điều kiện cho trẻ được tự làm những điều nó muốn. Động viên
khích lệ trẻ phát triển tư duy tính tích cực trong một số hoạt động tự phục vụ
hàng ngày. Quan tâm tổ chức cho trẻ chơi với một số trò chơi mô phỏng,
được vẽ, được nặn, được nghe hát và vận động theo nhạc.[10]

17
Đối với GD trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo, nếu ở nhà trẻ nhiệm vụ hàng
đầu là GD sức khỏe và thể chất cho trẻ thì vào lứa tuổi này nhiệm vụ GD đạo
đức cho trẻ được đặt lên hàng đầu. Nhà giáo dục cần quan tâm đặc biệt tới
việc hình thành cho trẻ một số chuẩn mực về hành vi đạo đức phù hợp với
yêu cầu của xã hội, cộng đồng, trường, lớp, mẫu giáo và gia đình. Tập cho trẻ
có một số kĩ năng như như kĩ năng cùng chia sẻ, cùng học và chơi, thỏa thuận
hợp tác cùng nhau. Giáo dục cho trẻ có ý thức về bản thân, có trách nhiệm với
mọi người xung quanh, có ý thức bảo vệ và biết giữ gìn môi trường xanh,
sạch, đẹp.
GD cho trẻ những tình cảm và phẩm chất đạo đức như yêu mến người
thân, lễ phép với người trên, quan tâm chia sẻ giúp đỡ bạn, chơi hòa thuận với
bạn, GD cho trẻ tự tin và chủ động tích cực trong cuộc sống và hoạt động
của trẻ ở trường mầm non. Một nhiệm vụ vô cùng quan trọng ở lứa tuổi mẫu
giáo là phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc và cho trẻ làm quen với môi trường
chữ viết, khai thác tiềm năng đọc, và viết của trẻ mẫu giáo lớn. Tiếp tục cho
trẻ khám phá thế giới xung quanh bằng các giác quan. Rèn luyện và phát triển
độ tinh nhạy của các giác quan, trên cơ sở đó phát triển tư duy trực quan hành
động, hình tượng và chú ý phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ mẫu giáo
lớn. Đặc biệt chú ý đến phát triển một số thao tác của tư duy như so sánh,
phân tích, tổng hợp và óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Cung cấp và làm giàu
cho trẻ một số biểu tượng về bản thân, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên
xung quanh trẻ, hình thành cho trẻ một số biểu tượng toán sơ đẳng. GD cho
trẻ những năng lực, phẩm chất trí tuệ cần thiết. Hoạt động vui chơi trở thành
hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, chiếm vị trí trung tâm trong chương trình
GD mẫu giáo. Vì vậy giáo viên cần quan tâm đến việc tổ chức hoạt động vui
chơi cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Nhà giáo dục cần coi hoạt động vui
chơi là hoạt động thích hợp nhất để làm phương tiện, con đường lồng ghép,
18
đan cài tích hợp nội dung giáo dục theo các chủ đề, chủ điểm giúp trẻ chiếm

lĩnh nền văn hóa Người. Tạo môi trường chơi đa dạng, hấp dẫn, khuyến khích
tạo cơ hội cho trẻ được chơi, được trải nghiệm trong nhiều loại trò chơi dưới
nhiều hình thức chơi khác nhau ở trường mầm non. Bên cạnh đó, giáo viên tổ
chức hoạt động học tập theo hướng tích hợp theo các chủ đề, chủ điểm gần
gũi với trẻ. Cho trẻ học dưới sự hướng dẫn có chủ đích của giáo viên theo
hướng tích hợp chủ đề. Bảo đảm trẻ được quan sát, xem xét, khám phá bằng
nhiều giác quan, tạo cơ hội cho trẻ tự khám phá, tự phát hiện và tự giải quyết
vấn đề với sự giúp đỡ đúng lúc và hợp lí của giáo viên nhằm phát huy tính
tích cực, tính tự lập, tính sáng tạo của trẻ, giúp trẻ biết tự giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong lúc học, lúc chơi. Trẻ mẫu giáo rất có hứng thú với hoạt
động nghệ thuật và chúng đã có một số kĩ năng nhất định cho nên cần tổ chức
cho trẻ tham gia vào hoạt động nghệ thuật ở trường mầm non. Một nhiệm vụ
quan trọng đặc biệt là chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Nhà giáo dục cần chuẩn
bị một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tâm lí, tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn
vào lớp một.
1.2.1. Hệ thống nhà trường MN
Hệ thống GD là toàn bộ tổ chức và cấu trúc các loại cơ quan GD – dạy
học và văn hóa – GD khác nhau, đảm nhiệm việc dạy học và GD và công tác
GD – văn hóa cho thế hệ trẻ và người lớn của một quốc gia. Hệ thống GD bao
gồm nhiều tổ chức khác nhau và được cấu trúc theo những nguyên tắc xác định
tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong việc thực hiện mục đích và chiến lược
GD của quốc gia. Hệ thống nhà trường mầm non là một bộ phận cấu trúc nên
hệ thống GD[10]. Hệ thống bao gồm các loại hình trường mầm non:
+ Trường mầm non, trường mẫu giáo, lớp mẫu giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ
được tổ chức theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
19
+ Cơ sở giáo dục mầm non bán công, dân lập, tư thục sau đây gọi
chung là cơ sở GDMN ngoài công lập.
Cơ cấu tổ chức trường bao gồm:
- Hiệu trưởng.

- Hiệu phó.
- Công đoàn.
- Đoàn thanh niên.
- Tổ bộ môn.
+ Ban giám hiệu.
+ Tổ hành chính.
+ Tổ nhà trẻ.
+ Tổ mẫu giáo.
+ Tổ nuôi dưỡng.
1.2.2. Hoạt động dạy và học của trường MN
Dạy học cho trẻ mẫu giáo là hoạt động hợp tác dạy và học cùng nhau
giữa giáo viên và trẻ, trong đó giáo viên là người tổ chức hướng dẫn, tạo điều
kiện, cơ hội cho trẻ khám phá thế giới xung quanh còn đứa trẻ tích cực chiếm
lĩnh tri thức, kĩ năng cần thiết cho việc học tập sau này của trẻ ở lớp một.
Đặc điểm hoạt động dạy – học cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non.
“Học” ở trẻ mẫu giáo là một hoạt động đặc biệt. Học là hoạt động độc lập của
trẻ nhằm lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và phương thức hành động,
diễn ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên.[10]
Mục tiêu dạy học cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non nhằm giúp trẻ
lĩnh hội được những tri thức sơ đẳng cần thiết, phát triển quá trình nhận thức
và ngôn ngữ, một số kĩ năng hoạt động học tập cần thiết sau này ở trường phổ
thông, góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung của trẻ, giúp trẻ
20
phát triển một cách hài hòa, hòa nhập dần vào cuộc sống và dễ dàng thích
nghi với học tập ở bậc học Tiểu học sau này.
Nội dung dạy học cho trẻ mẫu giáo không phân chia theo các “bộ
môn” riêng lẻ mà theo các chủ đề gần gũi với cuộc sống thực của trẻ. Những
chủ đề này những chủ đề có chứa đựng toàn bộ những tri thức sơ đẳng của
đời sống văn hóa – xã hội và giới tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động học tập của trẻ mẫu giáo hòa lẫn trong hoạt động tự nhiên đầy hứng thú,

sinh động của trẻ em. Các hoạt động có kế hoạch theo chủ định của giáo viên
nhằm giúp trẻ hệ thống hóa, chính xác hóa dần những tri thức mà trẻ thu nhận
được trong cuộc sống hằng ngày và những hoạt động do trẻ tự chọn có thể
tiến hành trong lớp hoặc ngoài trời, quy tụ cả lớp hoặc hình thức nhóm nhỏ,
và cá nhân, trong đó hình thức học theo nhóm nhỏ và cá nhân phù hợp hơn
với đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo.
Phương pháp dạy học cho trẻ mẫu giáo thường được sử dụng là phương
pháp trực quan, thực hành, sử dụng trò chơi, làm thí nghiệm đơn giản, phương
pháp dùng lời nói, tạo tình huống…nhằm kích thích hứng thú nhận thức cũng
như thúc đẩy hoạt động nhận thức và ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo.[3]
Hoạt động học ở trường lớp mẫu giáo đặc biệt ở các lớp bé và nhỡ
mang tính luyện tập hơn là truyền đạt tri thức có hệ thống. Việc học của trẻ
mẫu giáo diễn ra theo hai hình thức. Đó là học thông qua các hoạt động tự
nhiên của trẻ hay còn gọi là học mọi lúc mọi nơi và học có chủ đích, học theo
kế hoạch chủ động của giáo viên dưới sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, gợi
mở của giáo viên còn trẻ là chủ thể tích cực tham gia vào hoạt động nhận thức
để phát triển.
Kết quả học của trẻ được đánh giá thường xuyên từng ngày và theo
từng giai đoạn phát triển của trẻ.
21
1.2.3. Đặc điểm cấu trúc trường, lớp trong GDMN
- Hệ thống bao gồm các loại hình trường mầm non:
+ Trường mầm non, trường mẫu giáo, lớp mẫu giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ
được tổ chức theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
+ Cơ sở GDMN bán công, dân lập, tư thục sau đây gọi chung là cơ sở
GDMN ngoài công lập.
- Cấu trúc lớp gồm mẫu giáo nhỏ - mẫu giáo nhỡ - mẫu giáo lớn. Trẻ
em ở trường được tổ chức theo nhóm trẻ hoặc lớp mẫu giáo.[5]
+ Trẻ em từ 3 tháng đến 36 tháng tuổi được tổ chức thành các nhóm trẻ.
Số trẻ tối đa 1 nhóm, quy định như sau:

Từ 3 đến 6 tháng: 15 cháu
Từ 7 đến 12 tháng: 18 cháu
Từ 13 đến 18 tháng: 20 cháu
Từ 19 đến 24 tháng: 22 cháu
Từ 25 đến 36 tháng: 25 cháu.
+ Trẻ em từ 37 tháng đến 6 tuổi được tổ chức thành các lớp mẫu giáo.
Số trẻ em tối đa 1 lớp quy định như sau:
Lớp 3, 4 tuổi: 25cháu
Lớp 4, 5 tuổi: 30cháu
Lớp 5, 6 tuổi: 35cháu.
+ Nếu số lượng trẻ em ít, không đủ để tổ chức nhóm, lớp theo quy định
trên thì cho tổ chức thành nhóm trẻ ghép hoặc lớp mẫu giáo ghép.
- Mỗi nhóm, lớp có đủ số giáo viên theo quy định, nếu có từ 2 giáo viên
trở lên thì hiệu trưởng phân công 1 giáo viên phụ trách chính.
- Trường có thể gồm nhiều điểm trường được bố trí ở các điểm khác
nhau trên cùng địa bàn, mỗi điểm trường nếu có từ 2 nhóm, lớp trở lên thì
hiệu trưởng cử 1 giáo viên phụ trách chung.
22
1.3. Đặc điểm GDTC trong trường mầm non
Các tư liệu lịch sử đã xác nhận rằng từ nửa cuối thế kỉ XVII đã có
những tư tưởng tiến bộ về giáo dục thể thao cho trẻ. Đến đầu thế kỉ XVII
G.Rutxo (1712- 1778) người Pháp đã nêu những tư tưởng đúng đắn về vai trò
của giáo dục thể dục thể thao đối với việc phát triển con người, kể cả đối với
việc con người nhận thức thế giới xung quanh. Ông viết “thân thể sinh ra
trước tâm hồn nên việc quan tâm đến thân thể phải là trước tiên: bắt đầu là thể
chất, sau đó là các trò chơi và các bài tập thể chất. Đó là những thứ có tác
dụng tăng cường sức khỏe cơ thể của trẻ, góp phần hình thành tính cách và
giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh dễ dàng hơn”. Vấn đề sức khỏe, khả
năng làm việc và cuộc sống hạnh phúc của con người là hết sức quan trọng
mà mỗi quốc gia, mỗi gia đình và mỗi cá nhân đều quan tâm. Trong đó việc tổ

chức GD thể dục thể thao đúng đắn và phát triển toàn diện cho trẻ ngay từ lứa
tuổi nhỏ, chuẩn bị cho trẻ trước khi vào trường học phổ thông và cuộc sống
xã hội trong tương lai là điều vô cùng quan trọng. Ở lứa tuổi này, sức khỏe tốt
hay xấu có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tinh thần, tâm lí của trẻ em.
Đồng thời thông qua việc giáo dục thể lực còn GD ở trẻ đức trí, trí dục, mỹ
dục nữa. Đó là cơ sở vững chắc đáp ứng nhu cầu xã hội hiện đại. Giáo dục thể
dục thể thao cho trẻ trước tuổi đi học đặt cơ sở cho sự phát triển toàn diện, tôi
luyện cơ thể, rèn luyện tinh thần sảng khoái và đức tính kiên nhẫn, phẩm chất
đạo đức ý chí, hình thành những thói quen vận động cần thiết cho cuộc sống,
định hướng phát triển tư duy, giáo dục tình cảm. Tất cả những điều đó là tổng
hợp của nhiều yếu tố khác nhau để phát triển toàn diện, cân đối thể chất và
tinh thần cho trẻ.[7]
Với vị trí và vai trò quan trọng ấy, GDTC trong trường mầm non có
những đặc điểm.
23
1.3.1. Cấu trúc chương trình GDTC trong trường mầm non
Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng GD cho trẻ
mẫu giáo chính là chương trình GD. Chương trình GDMN bao gồm mục tiêu
giáo dục, nội dung, phương pháp, hình thức GD trẻ, điều kiện thực hiện quá
trình GD trẻ và đánh giá quá trình GD đó. Chương trình GDMN phản ánh quá
trình xã hội hóa đứa trẻ, phản ánh sự tích lũy kinh nghiệm sống thông qua chế
độ sinh hoạt hằng ngày và các hoạt động của trẻ theo kế hoạch đã vạch ra
hoặc phát sinh. Trong quá trình GDTC cho trẻ mẫu giáo cần xây dựng một
chương trình cụ thể và phù hợp với lứa tuổi theo quy định của sở GD&ĐT.[1]
Xét theo góc độ giáo dục học, GDTC là một quá trình sư phạm nhằm
truyền thụ và lĩnh hội những tri thức văn hóa thể chất của thế hệ trước cho thế
hệ sau để giải quyết các nhiệm vụ GDTC.[7]
Xét theo góc độ thực tiễn, GDTC là một quá trình GD mà đặc trưng của
nó thể hiện ở việc giảng dạy các động tác, nhằm hoàn thiện về mặt hình thể và
chức năng sinh học của cơ thể người, hình thành rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận

động và phát triển các tố chất thể lực của cơ thể con người.
Chương trình GDTC trong trường mầm non có cấu trúc bao gồm:
- Mục tiêu chương trình GDTC cho trẻ MN, tạo hoạt động vui chơi giải
trí cho trẻ, thông qua đó để GD phát triển thể lực, hình thành kĩ năng vận
động nền tảng như chạy, nhảy, ném,… đồng thời GD trẻ đạo đức và phẩm
chất tốt đẹp cơ bản. Phát triển toàn diện cho trẻ cả về thể chất, tinh thần và trí
tuệ cũng như tình cảm đạo đức – thẩm mĩ.[6]
- Nội dung chương trình GDTC cho trẻ MN được thực hiện thông qua
tổ chức chế độ sinh hoạt hằng ngày và tổ chức hoạt động vận động cho trẻ ở
trường mầm non. Thông qua đó để hình thành ở trẻ kĩ năng, kĩ xảo vận động
và phát triển tố chất thể lực cho các em. Đó chính là hệ thống bài tập thể chất
dành cho trẻ MN.[7]
24
Bài tập thể chất xuất hiện khi con người ý thức được sự cần thiết phải
có sức khỏe để thực hiện các hành động lao động như săn bắn, chế tạo công
cụ,…nhờ có sự phát triển của lí luận và thực tiễn GDTC, đã ra đời hệ thống
các bài tập thể chất chuyên biệt cho từng nghề nghiệp, cho từng lứa tuổi từ
mầm non cho tới người cao tuổi. Có thể nói, bài tập thể chất các hành động
vận động được lựa chọn làm một trong các nội dung để thực hiện nhiệm vụ
GDTC. Ngoài ra, các bài tập thể chất còn là phương tiện để thực nhiệm và
nghiên cứu hiện tượng tâm lí. Không có sự phân tích đúng đắn những cơ sở
tâm lí học của các bài tập thể chất thì không thể đưa ra những phương pháp
hợp lí trong dạy học vận động. Mặt khác, bài tập thể chất còn là phương tiện
để đánh giá năng lực thể chất của con người. Các bài tập thể chất được phân
biệt bởi nội dung và hình thức của chúng. Nội dung của bài tập thể chất bao
gồm: tổ hợp các động tác – các phần của bài tập, các quá trình diễn ra trong
cơ thể khi thực hiện bài tập như quá trình sinh cơ, sinh lí, tâm lí,… và kết quả
tác động của quá trình đó đến người tập, cần xác định giá trị của chúng trong
quá trình giải quyết nhiệm vụ GD và giáo dưỡng. Hình thức của các bài tập
thể chất bao gồm hình thức bên ngoài và cấu trúc bên trong của nó. Hình thức

bên ngoài và cấu trúc bên trong nó. Hình thức bên ngoài của bài tập thể chất
biểu hiện ở mối quan hệ qua lại giữa không gian, thời gian và sử dụng sức lực
khi thực hiện bài tập. Cấu trúc bên trong của bài tập thể chất là sự phối hợp và
tác động lẫn nhau giữa các quá trình diễn ra trong cơ thể khi thực hiện bài tập.
Mối liên quan và sự phối hợp của các quá trình sinh lí, tâm lí,… trong từng
trường hợp cụ thể là khác nhau. Ví dụ: khi chạy, tư thế sẽ khác khi nhảy, cho
nên cấu trúc bên trong của các bài tập ấy sẽ khác nhau. Nội dung và hình thức
của bài tập có liên quan với nhau. Nội dung là mặt quyết định và cơ động
hơn, nó đóng vai trò chủ đạo trong mối quan hệ với hình thức. Tuy nhiên,
hình thức cũng có ảnh hưởng đến nội dung. Hình thức chưa hoàn thiện sẽ cản
trở sự phát huy tối đa các khả năng chức năng của cơ thể. Ngược lại, hình
25

×