MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế, vai trò của nguồn nhân lực trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, bởi nguồn nhân lực là một trong
những nhân tố quyết định sự phát triển. Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kì
dân số vàng nên có lực lượng lao động dồi dào, hằng năm có khoảng 1,4 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, cơ cấu dân số trẻ. Đây là một tiềm năng lớn để
phát triển xã hội về mọi mặt. Theo tổng cục thống kê, năm 2013 dân số nước ta
đạt trên 90 triệu người, trong đó có 53,9 triệu người ở trong độ tuổi lao động
tính đến thời điểm 1/10/2013. Tuy lực lượng lao động dồi dào nhưng tình trạng
thất nghiệp vẫn diễn ra khá phổ biến. Năm 2011, tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta là
2,27%, năm 2012 giảm xuống còn 1,99%, và năm 2013 tăng lên là 2,22%. Trong
đó tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông thôn là 1,4%.
Hơn nữa, do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 nền kinh tế Việt Nam
bị suy thoái làm gia tăng tình trạng thất nghiệp vẫn diễn ra khá phổ biến và trở
thành vấn đề mang tính thời sự. Một trong những hướng giải quyết đó là: Xuất
khẩu lao động. Nắm bắt được thời cơ thuận lợi đó trong những năm qua Việt
Nam đã đề ra những chính sách, mục tiêu, phương hướng cho việc xuất khẩu lao
động nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. Với định hướng xuất khẩu
lao động rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế đã được
Đảng và Nhà nước xác định như là một trong những lĩnh vực đối ngoại đặc biệt,
một trong những chiến lược để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy vậy việc
xuất khẩu lao động của nước ta còn gặp một số hạn chế về trình độ tay nghề,
ngoại ngữ, kỉ luật lao động đòi hỏi sự nhập cuộc của các nhà quản lý, doanh
nghiệp, người lao động đi xuất khẩu để cùng “chung tay” giải quyết vấn đề trên.
Vì các lý do trên tác giả xin chọn đề tài: “ Thị trường xuất khẩu lao
động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ” để hiểu rõ hơn về hoạt động xuất
khẩu lao động của nước ta.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề xuất khẩu lao động đã có nhiều công trình nghiên cứu
và đạt được một số thành tựu nhất định.
Có thể nêu ra một số đề tài như sau:
- Luận án “ Phát triển xuất khẩu lao động Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế “ của TS.Nguyễn Tiến Dũng, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2010.
- Luận án phó tiến sĩ của nghiên cứu sinh Trần Văn Hằng năm 1996 “Các
giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước vềxuất khẩu lao động ởViệt Nam
trong giai đoạn 1995-2010”. Luận án thuộc chuyên ngành kinh tế, quản lý và kế
hoạch hóa quốc dân nhằm làm rõ vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước
(QLNN) về XKLĐ theo cơ chế thị trường, phân tích thực trạng QLNN về
XKLĐ và những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn của XKLĐ Việt Nam đồng
thời đề xuất quan điểm, giải pháp đồi mới QLNN về XKLĐ.
- Khóa luận tốt nghiệp “Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường
khu vực Đông Bắc Á - thực trạng và giải pháp” - Nguyễn Thu Hương, khoa
Kinh tế ngoại thương, Trường Đại học Ngoại thương (năm 2002).
- Nguyễn Phúc Khanh (2004) “ Xuất khẩu sức lao động với chương trình
quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
- Phạm Thị Khanh (2004), “ Phát triển thị trường xuất khẩu lao động ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, website Đảng Cộng Sản
Việt Nam ngày 02/05/2005…
Và rất nhiều đề tài khác liên quan tới hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt
Nam. Mặc dù các đề tài nghiên cứu lĩnh vực trên đã đánh giá được cơ bản thực
trạng của hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam và đã đưa ra được giải pháp
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động, tuy nhiên các đề tài chưa thực sự chưa
có nhiều điểm nhấn trong cách đánh giá. Vì vậy đề tài khóa luận này tập trung
chủ yếu vào phân tích thực trạng xuất khẩu lao động với những điểm mới đó là:
2
đánh giá chi tiết tình hình xuất khẩu lao động về quy mô và cơ cấu xuất khẩu lao
động, chất lượng lao động Việt Nam xuất khẩu, mức thu nhập của lao động Việt
Nam xuất khẩu và đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động trên của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm góp phần đẩy lùi tình trạng thất nghiệp
cho người lao động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu đề tài này là để làm rõ thực trạng xuất khẩu lao
động ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu gì và còn tồn tại những hạn chế
nào cần được khắc phục để từ đó đưa ra những giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, làm rõ phạm trù “xuất khẩu lao động”, vai trò và vị trí của xuất
khẩu lao động.
Hai là, phân tích thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong giai
đoạn 2007-2013.
Ba là, đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao
động ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam
giai đoạn 2007-2013, phương hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
lao động ở Việt Nam giai đoạn tới.
- Phạm vi nghiên cứu: xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007-
2013 tại một số thị trường chính như khu vực Đông Bắc Á, khu vực Đông Nam
Á, khu vực Trung Đông và một số khu vực khác trên thế giới.
3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học kinh tế, phép duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu đề tài còn vận
dụng các phương pháp khoa học như: điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích tổng
hợp, lịch sử, lô gíc học để phân tích lý giải các nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của tài
- Góp phần làm rõ phạm trù “ xuất khẩu lao động”, căn cứ lý luận, thực
tiễn xác định vị trí, vai trò của xuất khẩu lao động trong sự phát triển kinh tế và
đời sống xã hội.
- Phân tích làm rõ thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn
hiện nay
- Đề xuất những giải pháp khắc phục hạn chế còn vướng mắc của hoạt
động xuất khẩu lao động và đưa ra phương hướng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
lao động ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Khóa luận bao gồm: Phần mở đầu, 3 chương, 9 tiết, Kết luận, và danh
mục tài liệu tham khảo.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm về xuất khẩu lao động
1.1.1.Một số khái niệm liên quan tới hoạt động xuất khẩu lao động
Khái niệm lao động:
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật
chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá
trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao
động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Lao động là
điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về
kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá trình sản
xuất nào.
Khái niệm sức lao động
Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của
cải xã hội, phăn ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần
thiết trong quá trình lao động xã hội.
Ở đây có thể thấy được sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm lao động và
sức lao động: nói đến sức lao động là nói đến khả năng lao động, còn lao động là
hành động đang diễn ra. Để biến khả năng lao động (sức lao động) thành hiện
thực (lao động) thì cần phải có những điều kiện nhất định như điều kiện vật chất,
điều kiện con người, môi trường xã hội,… nếu thiếu các điều kiện này thì quá
trình lao động không diễn ra.
Khái niệm nguồn lao động, lực lượng lao động:
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. (Giáo trình Kinh tế phát triển-
Trường Đại học kinh tế quốc dân, năm 2012). Theo qui định của nước ta hiện
nay thì độ tuổi lao động là từ 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối với nữ.
(Luật lao động mới số 10/2012/QH13).
5
Lực lượng lao động là bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định, thực tế
có tham gia lao động và những người không có việc làm, đang tích cực tìn việc
làm. (Theo tổ chức lao động quốc tế ILO).
Khái niệm thị trường lao động
- Theo ILO: “Thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động
được mua bán thông qua một quá trình thoả thuận để xác định mức độ có việc
làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”.
- Định nghĩa khái quát về thị trường lao động ở Việt Nam: “Thị trường lao động
là nơi mà người có nhu cầu tìm việc làm và người có nhu cầu sử dụng lao động
trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua các hình thức xác định
giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện thoả thuận khác (thời gian làm
việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội ) trên cơ sở một hợp đồng lao động
bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả
thuận khác”.
Khái niệm xuất khẩu lao động
XKLĐ là hoạt động trao đổi, mua - bán hay thuê mướn hàng hoá sức lao
động nội địa cho người sử dụng lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay
hợp đồng cung ứng lao động.
Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được gọi là nước
XKLĐ, nước tiếp nhận sức lao động được gọi là nước nhập khẩu lao động.
XKLĐ Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là XKLĐ Việt Nam, là
hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra nước ngoài
theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh
nghiệp nước ngoài.
1.1.2 Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động
Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là cả một quá trình
gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Đó cũng là một quá trình
nhận thức khách quan về vai trò của người lao động và sức lao động tiềm tàng
trong các nước dư thừa lao động. Vấn đề di chuyển lao động và XKLĐ về thực
6
chất là việc đem sức lao động từ một nước này tới một nước khác nhằm mục
đích kinh tế, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất. Việc di chuyển lao
động ban đầu còn mang tính tự phát còn việc di chuyển lao động trong XKLĐ
lại mang tính tự giác, tức là có việc tổ chức đưa lao động đi và về kèm theo hạch
toán kinh tế, có ý nghĩa chiến lược của một quốc gia. Như vậy, XKLĐ bản thân
nó là một hoạt động nhằm mục đích kinh tế, có liên quan đến nhiều vấn đề nhạy
cảm và phức tạp vì gắn liền với hoạt động của người lao động.
Từ thực tế nêu trên cùng với tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động đã
tạo ra sự phức tạp trong hoạt động XKLĐ, do đó vẫn còn có những điểm khác
nhau trong các khái niệm khi nghiên cứu về hoạt động XKLĐ ở Việt Nam.
Theo góc độ phân tích một hoạt động nghiệp vụ ngoại thương, tác giả
Nguyễn Phúc Khanh trong “ Xuất khẩu sức lao động với chương trình quốc gia
về việc làm - Thực trạng và giải pháp”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ,
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội (2004) cho rằng: “ XKLĐ là hoạt đông
kinh tế đối ngoại đặc thù của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động
cho một quốc gia khác trên cơ sở hợp đồng có thời hạn, có tính chất pháp quy
thống nhất giữa quốc gia đưa và nhận lao động
Phân tích XKLĐ dưới góc độ quản lí kinh tế, XKLĐ được quan niệm:
“ XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng
lao động cho quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định, hợp đồng giữa các nhà
nước, tổ chức kinh tế, pháp nhân, cá nhân của quốc gia xuất khẩu với quốc gia
nhập khẩu”.
Có thể thấy trong lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì cách tiếp cận cũng
khác nhau. Các khái niệm này nhìn chung đã phản ánh những biểu hiện cụ thể,
mang tính kỹ thuật của hoạt động XKLĐ: cung ứng lao động cho nước ngoài
theo các hợp đồng đã ký kết. Việc phản ánh bản chất của hoạt động XKLĐ mới
ở mức độ khái quát những biểu hiện chung nhất, đó là một hoạt động nhằm mục
đích kinh tế qua việc đưa lao động từ nước này sang nước khác, mà chưa thể
7
hiện được đó là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho chủ sử dụng ở
nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, được
đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nhưng người lao động là chủ sở hữu
sức lao động, và bán nó trong một khoản thời gian nhất định cho người mua là
chủ sử dụng lao động, theo những điều kiện thỏa thuận giữa hai bên. Người mua
chỉ được sử dụng sức lao động trong thời gian đã thỏa thuận để thu giá trị thặng
dư do người lao động tạo ra, hết thời hạn này thì sự ràng buộc giữa hai bên chấm
dứt. Hoạt động mua bán này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể do
người lao động trực tiếp tìm tới nười sử dụng lao động hoặc thông qua các môi
giới trung gian theo các hợp đồng cung ứng lao động. Nếu người lao động bán
sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng ở nước ngoài thì việc mua bán này
diễn ra trên thị trường lao động quốc tế, khi đó hoạt động này vượt ra ngoài
phạm vi biên giới quốc ra và do đó liên quan tới các quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội… giữa quốc gia XKLĐ và quốc gia NKLĐ. Để bảo đảm quyền lợi cả
người lao động cũng như các lợi ích khác của quốc gia, nhà nước phải tham gia
vào hoạt động này. Cho đến nay, hầu hết sự di chuyển của người lao động ra
nước ngoài làm việc đều có sự can thiệp của nhà nước, nhưng ở các mức độ
khác nhau ở các nước khác nhau. Vì thế trên thế giới người ta thường xếp
XKLĐ vào hoạt động kinh tế đối ngoại hay hoạt động kinh tế quốc tế.
Như vậy có thể thấy, thực chất hoạt động XKLĐ là hoạt động xuất khẩu
hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt, bản chất của hoạt động này
là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho nước ngoài. Người lao động
thông qua các tổ chức môi giới giao dịch hàng hóa sức lao động hay các tổ chức
XKLĐ của nhà nước hay tư nhân để bán sức lao động, đi làm thuê cho chủ sử
dụng lao động ở nước ngoài.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy một khái niệm tương đối
đầy đủ về XKLĐ như sau:
8
XKLĐ là một hoạt động kinh tế - xã hội đặc thù, thuộc lĩnh vực hợp tác kinh
tế của một quốc gia nhằm thực hiện việc cung ứng hàng hóa sức lao động cho nhu
cầu sử dụng lao động ở nước ngoài theo hình thức do nhà nước quy định. Đây là
một hình thức giao dịch hàng hóa sức lao động trên thị trường lao động quốc tế,
trong đó người chủ bán hàng hóa sức lao động cho người sử dụng ở nước ngoài
thông qua các tổ chức trung gian môi giới của nhà nước hoặc tư nhân.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt
động mang tính xã hội cao
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế ở tầm vi mô và vĩ mô. Nói xuất
khẩu lao động là hoạt động kinh tế vì nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia
(bên cung và bên cầu). Ở tầm vĩ mô, bên cung là nước xuất khẩu lao động, bên
cầu là nước nhập khẩu lao động. Ở tầm vi mô, bên cung là người lao động mà
đại diện cho họ là các tổ chức kinh tế làm công tác xuất khẩu lao động (gọi tắt là
doanh nghiệp xuất khẩu lao động ), bên cầu là người sử dụng lao động nước
ngoài. Dù đứng ở góc độ nào thì với tư cách là chủ thể của một hoạt động kinh
tế cả bên cung và bên cầu khi tham gia hoạt động xuất khẩu lao động đều nhằm
mục tiêu là lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi phí phải bỏ ra với lợi
ích thu được để có quyết định hành động cuối cùng sao cho lợi nhất. Chính vì
thế bên cạnh các quốc gia chỉ đơn thuần là xuất khẩu hay nhập khẩu lao động thì
còn có cả những quốc gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu lao động.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: dù các chủ thể tham gia xuất khẩu lao động
với mục tiêu kinh tế nhưng trong quá trình tiến hành xuất khẩu lao động thì cũng
đồng thời tạo ra các lợi ích cho xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một
bộ phận người lao động, góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân,
nâng cao phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh chính trị …
Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của thị trường. Trong cạnh tranh ai mạnh thì
thắng, yếu thì thua. Và khi xuất khẩu lao động vận động theo quy luật thị trường
9
thì tất yếu nó phải chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh và mang tính cạnh
tranh. Sự cạnh tranh ở đây diễn ra giữa các nước xuất khẩu lao động với nhau và
giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong nước với nhau trong việc giành
và thống lĩnh thị trường xuất khẩu lao động. Cạnh tranh giúp cho chất lượng
nguồn lao động xuất khẩu ngày càng được nâng cao hơn và đem lại lợi ích nhiều
hơn cho các bên đồng thời cũng đào thải những cá thể không thể vận động trong
vòng xoáy ấy.
Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu lao
động
Thị trường xuất khẩu lao động với một quốc gia xuất khẩu lao động càng
phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại ngoại tệ,
giảm rủi ro trong xuất khẩu lao động và nó cũng thể hiện khả năng cạnh tranh
mạnh mẽ của quốc gia đó.
Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua- bán một loại hàng hoá
đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia
Sở dĩ nói vậy vì hàng hoá ở đây là sức lao động- loại hàng hoá không thể
tách rời người bán ở đây là người lao động. Nếu người lao động không còn thì
sức lao động cũng mất đi, sức lao động có thể sản sinh được hay không là phụ
thuộc vào tình trạng sức khỏe, tinh thần của người lao động.
1.1.4 Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách phát triển
của cả nước với XKLĐ và nước XKLĐ. Đồng thời có tác động trở lại với nền
kinh tế xã hội của các nước này. Trong điều kinh của nền kinh tế thị trường, hoạt
động XKLĐ chịu tác động của một số yếu tố sau:
Quan hệ cung - cầu về lao động: Từ thực trạng hoạt động sản xuất và
nhập khẩu lao động của các nước trên thế giới cho thấy, một nước phải sử dụng
LĐNN khi nguồn lực lao động trong nước không đáp ứng được cho nhu cầu
phát triển kinh tế của nước đó. Sự thiếu hụt một hay nhiều loại lao động của một
10
nước nào đó không chỉ do thiếu dân số mà còn do không đủ lực lượng lao động
có đủ kỹ năng cần thiết để đảm nhận công việc, hoặc đơn giản chỉ do người lao
động nước đó không sẵn sàng làm việc. Điều này thể hiện rất rõ ở các nước phát
triển: Nhật Bản, Hàn Quốc… Bên cạnh đó, thị trường lao động là một bộ phận
không thể tách rời với chu kì kinh tế, vì thế sự tăng trưởng hay suy thoái, khủng
hoảng hay phục hồi của một nền kinh tế, có thể tạo ra việc làm cho người lao
động hay cũng có thể làm giảm việc làm cho họ. Trong những điều kiện như
vậy, nhu cầu về lao động và khả năng cung ứng ở các nước có tác động rất lớn
tới hoạt động XKLĐ trên phạm vi quốc tế. Thực trạng quan hệ cung- cầu về lao
động là cơ sở để một quốc gia quyết định NKLĐ hay XKLĐ, xác định số lượng
lao động, cơ cấu ngành nghề, loại lao động cần nhập khẩu hay có thể xuất khẩu.
Sự phù hợp giữa nhu cầu của nước NKLĐ và khả năng cung ứng của nước
XKLĐ là yếu tố quyết định đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động XKLĐ giữa
các quốc gia.
Trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ là yếu tố có tác động
mạnh mẽ tới quan hệ cung- cầu về lao động giữa các nước, quyết định loại hình
và số lượng lao động mà một nước sẽ nhập khẩu hay xuất khẩu. Các nước có
trình độ công nghệ tiên tiến như Mỹ, Đức, Nhật Bản thực hiện các chính sách
khuyến khích và ưu đãi để thu hút lao động có trình độ chuyên môn cao từ các
nước khác, hạn chế tuyển dụng lao động phổ thông, trong khi những nước có
trình độ kém hơn như Đài Loan lại nhập khẩu nhiều loại lao động đáp ứng nhu
cầu lao động bị thiếu hụt trong nước, phần lớn là lao động có trình độ kỹ thuật
thấp, lao động phổ thông…
Sự cạnh tranh: Thị trường lao động quốc tế vừa là thị trương tự do cạnh
tranh, vừa là thị trường cát cứ giữa các quốc gia. Do đó, hoạt động XKLĐ vừa
diễn ra sự hợp tác giữa các nước vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là
yếu tố bắt buộc, yếu tố cạnh tranh bảo đảm cho sự sống còn của hoạt động
XKLĐ. Sự cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp
XKLĐ của nước XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua một số hợp đồng XKLĐ, cơ
11
chế quản lý lao động ở nước ngoài, mức lương, sự đa dạng về ngành nghề, trình
độ, kỹ thuật lao động, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại nơi làm việc,
khả năng tích nghi về văn hóa, khả năng giao tiếp của người lao động. Ngoài ra
còn có sự cạnh tranh giữa LĐXK với lao động bản địa về việc làm ở nước
NKLĐ. Do sự cạnh tranh này, công đoàn tại các nước NKLĐ thường tạo sức ép
với chính phủ để hạn chế số lượng LĐNN được tiếp nhận vào làm việc.
Chất lượng lao động: Chất lượng hàng hóa sức lao động được xem xét
dưới góc độ là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao động của người lao
động như thể lực, trí lực, các mối quan hệ xã hội của người lao động có ảnh
hưởng tới năng lực làm việc của người lao động ở nước NKLĐ. Chất lượng lao
động phải đảm bảo được việc tạo ra giá trị tăng thêm trong thời gian sử dụng lao
động đó, bảo đảm cho người lao động duy trì và tái tạo sức lao động, phát huy
được các khả năng sáng tạo đảm bảo được cường độ lao động, tạo được nhiều
giá trị thặng dư cho người sử dụng. Yếu tố này có tác động quan trọng tới quyết
định của chủ sử dụng về quy mô tuyển dụng LĐNN. Chính vì vậy, chất lượng
lao động là yếu tố căn bản quyết định khả năng cạnh tranh và lợi thế trong việc
chiếm lĩnh thị trường XKLĐ, bảo đảm cho sự phát triển của hoạt động XKLĐ.
Các chính sách pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều nước,
nhiều tổ chức, liên quan đến các nước XKLĐ và nước NKLĐ, liên quan đến các
tổ chức quốc tế như Tổ chức di cư quốc tế ( IOM ), Tổ chức quốc tế ( ILO ), do
đó nó chịu sự tác động mạnh mẽ của môi trường chính trị, pháp luật và chính
sách của chính phủ cả nước XKLĐ và nước NKLĐ cũng như luật pháp quốc tế.
Hoạt động XKLĐ của một quốc gia luôn có sự tham gia của chính phủ
nước đó nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, hoạt động XKLĐ
chịu sự tác động trực tiếp của chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý, điều
tiết của chính phủ nước XKLĐ. Các văn bản, chính sách đó có thể khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XKLĐ nhưng cũng có thể gây khó
khăn, cản trở hoạt động này. Trong khi đó, bất cứ một sự điều chỉnh trong chính
sách tiếp nhận LĐNN, những quy định, điều kiện nhập cư, thậm chí những thay
12
đổi trong chính sách đầu tư tái cơ cấu kinh tế… của chính phủ các nước NKLĐ
đều có những tác động có thể làm thay đổi nhu cầu LĐNN ở nước NKLĐ, thậm
chí trở thành rào cản hạn chế số lượng lao động nhập khẩu, do đó làm thay đổi
mức cung ứng lao động của nước XKLĐ.
Các yếu tố truyền thống văn hóa và con người: Các chính sách tuyển
dụng LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ các
giá trị truyền thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì vậy,
một quốc gia sẽ có chủ trương ưu đãi hơn đối với lao động đến từ các quốc gia
có nền văn hóa tương tựu ( về tôn giáo, phong tục tập quán, về ngôn ngữ …)
Hơn nữa, thị trường thực chất là sự kết hợp của con người và nền văn hóa của
thị trường đó. Vì thế, một số thị trường lao động có thể tạo ra rất nhiều cơ hội
đối với một loại việc làm cho LĐNN do tính chất riêng có của thị trường ấy
hoặc đơn thuần chỉ vì thị trường đó không có đủ lao động có khả năng đảm nhận
công việc đó. Ví dụ, ở châu Âu, Nhật Bản có nhu cầu về y tá là rất lớn gắn liền
với sự già hóa dân số ở các nước này, nhưng các nước ở Trung Đông lại it khi có
ý định thuê y tá nữ chăm sóc cho bệnh nhân nam; hoặc ở những nước mà phụ
nữ tích cực tham gia vào lực lượng lao động hoặc đấu tranh để khẳng định
quyền bình đẳng về việc làm, thu nhập, trình độ và địa vị trong xã hội như Đài
Loan thì nhu cầu về người giúp việc gia đình, trông trẻ và chăm sóc người già
cũng cao hơn. Điều này cũng có tác động nhất định về số lượng, ngành nghề,
loại lao động trong việc cung ứng lao động của nước XKLĐ.
1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động chủ yếu
1.2.1. Phân loại theo cách thức tổ chức đưa lao động ra nước ngoài
- Hiệp định Chính phủ ký kết giữa hai nước
- Hợp tác lao động và chuyên gia
- Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công
trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
- Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động
(chủ yếu)
13
- Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức
nước ngoài.
1.2.2. Phân loại theo trình độ người lao động
Theo trình độ người lao động, XKLĐ bao gồm các hình thức:
- XKLĐ phổ thông: là những lao động không có trình độ chuyên môn, chưa
từng được qua đào tạo nhưng có khả năng tham gia vào các công việc giản đơn.
- XKLĐ chuyên môn: là lao động đã được đào tạo, có trình độ chuyên môn
trong một hay nhiều lĩnh vực nhất định, thường hoạt động trong các ngành kinh
tế tri thức. Khi được xuất khẩu, những lao động này không cần đào tạo lại mà có
thể tham gia ngay vào công việc.
- Tu nghiệp sinh (TNS): (Mới chỉ có ở Nhật Bản, Hàn Quốc) chỉ những
người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn của nước
nhập khẩu lao động và nếu muốn vào làm việc ở các nước này họ phải được hợp
pháp hoá dưới hình thức TNS, nghĩa là vừa làm vừa được đào tạo tiếp tục về
trình độ chuyên môn kỹ thuật.
1.2.3. Phân loại theo địa điểm xuất khẩu lao động
- XKLĐ tại chỗ: là việc lao động trong nước làm việc cho các doanh
nghiệp FDI hay các tổ chức quốc tế qua internet. Đối với loại hình xuất khẩu
này, người lao động không cần ra khỏi biên giới quốc gia của mình.
- XKLĐ trực tiếp: là việc người lao động của một quốc gia đi làm tại một
quốc gia khác, vượt ngoài biên giới quốc gia của họ và bán sức lao động cho chủ
sử dụng lao động (có thể là tư nhân hay Nhà nước).
1.3. Tác động của xuất khẩu lao động đến các bên liên quan
1.3.1. Đối với nước xuất khẩu lao động
- Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của
người lao động. XKLĐ là một biện pháp tốt nhất để góp phần giải quyết một
phần lao động dôi dư ở nhiều nước nhất là các nước đang phát triển và chậm
phát triển, những nông dân thiếu việc làm và có thu nhập thấp, tỷ lệ thất nghiệp
lớn trong khi dân số tăng nhanh. Đây cũng là mục tiêu quan trọng trong chính
14
sách XKLĐ ở các nước này. Đối với những nước có tỷ lệ thất nghiêp cao,XKLĐ
được coi là một giải pháp lâu dài, con đối với những nước xảy ra khủng hoảng
kinh tế thì XKLĐ là đối sách trước nạn thất nghiệp tạm thời. Lao động xuất
khẩu khi ra nước ngoài làm việc có mức lương cao hơn nhiều lần so với mức
lương của những lao động có cùng ngành nghề và trình độ ở trong nước, vì vậy
người lao động có điều kiện tích lũy được một lượng vốn lớn mà ở trong nước
họ khó có thể có cơ hội để có được.
- Góp phần đào tạo tay nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Trong thời gian làm việc ở nước ngoài, bên cạnh việc rèn luyện
và nâng cao trình độ các thao tác, kĩ năng đã được học trước khi đi XKLĐ,
người lao động có cơ hội, điều kiện tiếp cận và học tập được các kiến thức về kỹ
thuật, công nghệ sản xuất mới, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, vận hành dây
chuyền sản xuất hiện đại,… khi hết hợp đồng về nước họ sẽ trở thành đội ngũ
lao động có đủ khả năng đáp ứng các công việc trong quá trình đổi mới, thực
hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, hoạt động XKLĐ là biện
pháp giúp nước xuất khẩu lao động đào tạo tay nghề, trình độ cho người lao
động, tạo điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng và kỷ luật lao động, đồng thời
giảm được các chi phí đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đội ngũ lao động đi XKLĐ sau thời gian làm việc ở nước ngoài sẽ có
được những kinh nghiệm, tác phong lao động công nghiệp, thành thạo về
chuyên môn kĩ thuật. Những người này sẽ dễ dàng thích ứng với việc tiếp thu và
chuyển giao công nghệ hay đáp ứng được các nhu cầu lao động của các công ty
nước ngoài hay các xí nghiệp liên doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút
đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nguồn lao động đủ khả năng đáp ứng cho quá
trình phát triển kinh tế thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Tạo nguồn thu quốc gia, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Lượng
tiền do người lao động đi làm việc ở nước ngoài tích lũy được gửi về nước là
nguồn vốn quan trọng cho nhiều quốc gia XKLĐ. Đối với nhiều nước đang phát
triển, lượng tiền do người lao động gửi về ngang với thu nhập từ xuất khẩu một
15
số loại hang hóa và là một trong những nguồn thu ngoại tệ nhiều nhất, giúp cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế, đối phó với tình trạng nợ nần, nhập siêu. Đặc
biệt tiền lương gửi từ nước ngoài về thường được xem là phương thuốc để phá
vỡ chiếc vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Trong dân chúng, lượng tiền này được
dành cho tiêu dùng hang ngày, mua sắm vật dụng trong gia đình giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống hoặc có thể được gửi tiết kiệm hay đầu tư như mua đất đai,
công cụ sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh doanh, từ đó lại tạo ra nguồn thu
mới trong dân chúng, tăng tích lũy vốn trong nền kinh tế. Đây cũng là nguồn
vốn tiêm năng, rất cần thiết và quan trọng có thể huy động được cho các chương
trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
- Góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước XKLĐ
và các nước NKLĐ. Hoạt động XKLĐ có diễn ra sự giao thoa, hòa nhập của các
yếu tố lịch sử và tinh thần của người lao động xuất khẩu với người bản địa. Do
đó, hoạt động XKLĐ là cầu nối, hình thức để trao đổi, giao lưu các nền văn hóa,
phong tục tập quán các dân tộc, góp phần tăng cường sự hiểu biết giữa các quốc
gia, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước XKLĐ và NKLĐ. Hơn
nữa, hoạt động XKLĐ tạo ra một đội ngũ lao động có hiểu biết về phong tục tập
quán, được đào tạo tay nghề và rèn luyện tác phong lao động ở các nước NKLĐ.
Đây là một trong những điều kiện thuận lợi giúp nước XKLĐ thu hút các dự án
đầu tư từ các nước NKLĐ, tạo điều kiện duy trì và phát triển các quan hệ nhiều
mặt giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ.
Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định
tới sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Nó có khả năng làm giảm bớt
một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa, chuyên môn tương đối cao,
do đó có thể làm giảm bớt sức sản xuất của nước XKLĐ. Hoạt động XKLĐ
cũng có thể gây ra biến động về sức mua trong nước; ảnh hưởng đến an ninh
kinh tế quốc gia, trật tự an toàn xã hội như xảy ra tình trạng chảy máu chất xám,
bí mật quốc gia,… nhất là đối với các nước phát triển, người lao động có thể làm
gián điệp cho nước ngoài, cung cấp thong tin gây thiệt hại cho đất nước; người
16
lao động có thể mang theo lối sống không phù hợp, các bệnh xã hội từ nước
ngoài về sau thời gian đi XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể tác động xấu tới
quan hệ quốc tế của nước XKLĐ khi lao động xuất khẩu có các hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng ở nước NKLĐ làm phương hại đến quan hệ hợp tác giữa
nước XKLĐ và nước NKLĐ.
1.3.2 Đối với nước nhập khẩu lao động
Giữa hai quốc gia, hoạt động XKLĐ của nước này sẽ là hoạt động NKLĐ
của nước kia. Do đó, nghiên cứu vai trò của hoạt động xuất khẩu lao động đối
với nước nhập khẩu lao động là nghiên cứu vai trò của hoạt động nhập khẩu lao
động đối với nước này.
- Bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động trong nước. Hoạt động NKLĐ cung
cấp nguồn nhân lực từ nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động ở các
ngành, các lĩnh vực mà lực lượng lao động trong nước không đáp ứng được. Vai
trò này thể hiện rất rõ ở các nước phát triển ở châu Âu, Nhật Bản, những nước
phải đối mặt với xu hướng già hóa dân số ngày càng tăng, lực lượng lao động
đang già đi, tỷ lệ sinh đẻ thấp không kịp bổ sung lực lượng lao động kế cận và
một bộ phận trong lực lượng lao động không muốn làm việc. Thông qua việc sử
dụng lao động nước ngoài, các nước NKLĐ có điều kiện giải quyết các áp lực
kinh tế - xã hội do tình trạng thiếu lao động ở nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế gây
ra, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh tiếp tục vận hành
bình thường, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo phân công lao động
quốc tế.
- Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Người lao động xuất khẩu đã được đào tạo cơ bản về kỹ
năng lao động, trình độ tay nghề do đó họ có thể tham gia làm việc luôn mà
không cần hoặc chỉ mất ít thời gian và vốn để đào tạo lại. Hơn nữa, sử dụng lao
động nước ngoài sẽ giúp nước NKLĐ tiết kiệm được một khoản tài chính lớn do
người lao động nước ngoài thường chấp nhận mức lương thấp hơn rất nhiều so
với người lao động bản sứ ở cùng một công việc. Ngoài ra, người lao động hầu
17
hết làm việc trong thời gian ngắn hạn do đó nước NKLĐ thường không phải chi
trả nhiều cho các khoản chi phí về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đặc biệt là
tiền lương hưu. Những khoản tiết kiệm từ chi phí thấp trong việc tuyển dụng lao
động nước ngoài làm giảm được chi phí đầu vào, tăng được lợi nhuận, tạo sức
mạnh và lợi thế cạnh tranh quốc tế.
- Tận dụng được nguồn lao động nước ngoài trẻ có hiệu suất lao động
cao, tạo điều kiện thực hiện phân công lao động và tái cơ cấu nền kinh tế. Lao
động đi XKLĐ hầu hết là lao động trẻ, đang ở độ tuổi sung mãn về thể lực và trí
lực, được đảm bảo về sức khỏe. Đây là giai đoạn người lao động có khả năng
làm việc với hiệu suất cao nhất, tạo ra được nhiều giá trị thặng dư nhất cho chủ
sử dụng, nhất là trong việc sử dụng, khai thác chất xám từ lao động xuất khẩu
chất lượng cao như các chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên ngành,… Đây là nhân
tố thuận lợi để nước nhập khẩu lao động tăng năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản
phẩm thặng dư và tăng lợi nhuận. Không những thế, nhập khẩu lao động làm
tăng cạnh tranh về việc làm trong nước, kích thích tăng năng suất lao động. Số
lượng công việc giảm đã tạo sức ép làm cho người lao động, kể cả lao động
nước ngoài và lao động bản địa ở các ngành phải tập trung làm việc để cạnh
tranh nhau về chỗ làm, do đó tạo ra năng suất lao động cao hơn và hiệu quả làm
việc tốt hơn cho người chủ sử dụng và nền kinh tế.
Hơn nữa, việc sử dụng lao động nước ngoài tạo điều kiện cho các nước
NKLĐ phân bổ lại các nguồn lực sản xuất và cơ cấu lại các lĩnh vực, ngành
nghề. Đối với các nước phát triển, các lĩnh vực ngành nghề có lương thấp, nặng
nhọc sẽ dần tập trung nhiều cho lao động nước ngoài, người lao động bản địa sẽ
tập trung nhiều vào các ngành mới, những ngành có mức lương cao hơn. Do đó,
hình thành lên một cơ cấu sử dụng lao động mới tương ứng với quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế ở các nước này. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát
triển, việc sử dụng lao động nước ngoài có chất lượng cao bù đắp được sự thiếu
hụt các kỹ thuật viên, chuyên gia làm việc trong các ngành công nghiệp mới,
giúp họ thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
18
đại hóa đất nước nhanh hơn. Ngoài ra, nước NKLĐ cũng có thể đánh cắp được
bí quyết công nghệ cần thiết từ các nước khác thong qua lao động nước ngoài.
Tuy nhiên, NKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định, làm giảm
bớt số lượng việc làm ở nước NKLĐ, người lao động bản địa sẽ phải chia sẻ
việc làm với người lao động nước ngoài và ít có cơ hội lựa chọn việc làm hơn,
phải cạnh tranh mạnh hơn, làm việc tích cực hơn để giữ chỗ làm, chấp nhận một
mức tiền lương thấp, nhất là đối với các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ
thông. Ở khía cạnh này NKLĐ tác động tới sự phân phối lại thu nhập và phúc
lợi xã hội với người lao động của nước NKLĐ, trong đó bộ phận lao động chất
lượng thấp bị tác động mạnh nhất. Hơn nữa, việc NKLĐ nước ngoài cũng có thể
gia tăng các vấn đề xã hội, đặc biệt vấn đề lao động bỏ trốn đang trở thành vấn
đề nghiêm trọng. Người lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, không
được bảo vệ, không có sự quản lý của các cơ quan chức năng do đó dễ gây nên
các vấn đề xã hội như bị bóc lột sức lao động, cưỡng bức lao động, tệ nạn xã
hội,… Đây là những vấn đề cản trở hoạt động NKLĐ và quản lý lao động nước
ngoài cũng như bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở các nước NKLĐ, gây căng
thẳng trong quan hệ hợp tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ.
1.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động
1.4.1 Nhân tố khách quan
1.4.1.1 Điều kiện kinh tế chính trị, tình hình dân số - nguồn lao động của
nước tiếp nhận lao động
Các nước tiếp nhận lao động thường là các nước có nền kinh tế phát triển
hoặc tương đối phát triển nhưng trong quá trình phát triển kinh tế của mình họ
lại thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động cho một hoặc một vài lĩnh vực nào
đó. Vì thế, họ có nhu cầu tiếp nhận thêm lao động từ nước khác. Sự thiếu hụt lao
động càng lớn trong khi máy móc chưa thể thay thế hết được con người thì nhu
cầu thuê thêm lao động nước ngoài là điều tất yếu.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn chịu nhiều tác động từ sự phát triển kinh
tế có ổn định hay không của nước tiếp nhận. Nếu nền kinh tế có những biến
19
động xấu bất ngờ xảy ra thì hoạt động xuất khẩu lao động cũng sẽ gặp rất nhiều
khó khăn.
Chính trị cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu lao động. Nếu nước tiếp nhận có
tình hình chính trị không ổn đình thì họ có thể cũng không có nhu cầu tiếp nhận
thêm lao động và nước xuất khẩu lao động cũng không muốn đưa người lao
động của mình tới đó.
1.4.1.2 Sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu lao động khác
Sự cạnh tranh này mang tác động hai chiều.
- Chiều tích cực: thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động của nước mình
không ngừng tự nâng cao chất lượng hàng hoá sức lao động để tăng tính cạnh
tranh trên thị trường, tạo ra sự phát triển mới cho hoạt động xuất khẩu lao động.
- Chiều tiêu cực: cạnh tranh không lành mạnh hoặc tính cạnh tranh yếu sẽ
bị đào thải.
1.4.1.3 Điều kiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc giữa quốc gia xuất
khẩu lao động và quốc gia tiếp nhận
Nếu những điều kiện này tốt sẽ góp phần làm giảm chi phí trong hoạt
động xuất khẩu lao động cũng như thuận lợi trong quá trình đưa lao động đi và
nhận lao động về. Vì thế hoạt động xuất khẩu lao động sẽ diễn ra thường xuyên
và mạnh mẽ hơn.
1.4.2 Nhân tố chủ quan
1.4.2.1 Chính sách, chủ trương và luật pháp của nhà nước về hoạt động
xuất khẩu lao động
Bao gồm hệ thống các quan điểm, chính sách và chủ trương của nhà nước
về hoạt động xuất khẩu lao động. Nếu coi trọng xuất khẩu lao động, xác định
đúng vị trí của nó trong phát triển kinh tế-xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất khẩu lao động và ngược lại. Đồng thời với quá trình này thì công
tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là
người lao động và các tổ chức kinh doanh hoạt động này. Xuất khẩu lao động
20
không còn là việc làm của một cá nhân, mà liên quan đến nhiều người, nhiều tổ
chức cung ứng lao động, đến các nước xuất khẩu lao động, IOM, và ILO Vì
vậy, quản lý xuất khẩu lao động ngoài việc phải tuân thủ những quy định, những
chính sách, những hình thức, quy luật của quản lý kinh tế, còn phải tuân thủ
những quy định về quản lý nhân sự của cả nước xuất cư và nhập cư. Chúng ta
cần chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu
lao động phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo dõi chặt chẽ tình hình lao động làm
việc ở nước ngoài; bảo vệ quyền lợi người lao động, đồng thời xử lý kịp thời
những vi phạm kỷ luật của người lao động làm ảnh hưởng đến thị trường; theo
dõi, hỗ trợ và phát huy lực lượng lao động này khi về nước.
1.4.2.2 Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất
quyết định đến hoạt động xuất khẩu lao động . Hiện nay trong thời buổi bùng nổ
về công nghệ thông tin và toàn cầu hóa, người lao động không chỉ cần có sức
khỏe mà còn cần có những hiểu biết về công nghệ, máy móc và nhất là có vốn
ngoại ngữ trong giao tiếp.
1.4.2.3 Giá cả của lao động
Giá cả của lao động cũng quyết định tới số lượng lao động xuất khẩu của
một quốc gia. Xét với trình độ lao động tương đương nhau, nếu mức lương của
người lao động xuất khẩu ở một quốc gia rẻ tương đối so với một quốc gia khác thì
lao động nước đó sẽ được ưa thích hơn. Đặc biệt với những công việc không đòi
hỏi hàm lượng vốn và tri thức cao, mức lương càng thấp, lao động càng cạnh tranh.
1.5 Tính tất yếu của hoạt động lao động xuất khẩu đối với Việt Nam
1.5.1 Khái quát thị trường lao động Việt Nam
Cung lao động Việt Nam có quy mô lớn tốc độ tăng nhanh. Việt Nam có
cơ cấu dân số trẻ, đang trong giai đoạn dân số vàng và có thế được duy trì trong
30 năm tới. Mức sinh giảm đi đáng kể trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng
tăng, Tổng cục Thống kê cho biết, dân số Việt Nam có xu hướng già đi thấy rõ
với tỉ lệ dân số trẻ giảm và số người già ngày càng tăng .
21
Quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội việc làm cho
người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy hiện tình trạng
thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta hiện nay còn chiểm tỉ lệ lớn, thu nhập
của đại bộ phận dân cư còn ở mức thấp.Thị trường lao động của Việt Nam có
những đặc điểm sau:
1.5.1.1 Tốc độ gia tăng lao động lớn do tốc độ tăng dân số nhanh
Dân số trung bình cả nước năm 2012 ước tính là 88,78 triệu người. Dân
số nước ta đứng thứ ba ở khu vực ASEAN và thứ 13 trong tổng số hơn 200 quốc
gia và lãnh thổ trên thế giới. Theo Bộ Lao động - Thương binh xã hội cho biết
năm 2013 dân số nước ta đạt trên 90 triệu người, và trong thời gian tới con số
này còn tăng lên nếu như không có biện pháp hiệu quả.
Tỷ lệ tăng dân số bình dân năm trong giai đoạn 2008-2012 là 1.058%/
năm, giảm 0.15% so với 10 năm trước và là tỷ lệ tăng thấp nhất trong vòng 50
năm qua.
Với tốc độ tăng dân số nhanh như hiên nay, mỗi năm sẽ cung cấp cho thị
trường lao động một khối lượng lớn lao động và không ngừng tăng lên. Điều
này vừa đem lại lợi thế dồi dàovề lao động nhưng đồng thời cũng gây nên gánh
nặng việc làm cho nền kinh tế.
1.5.1.2 Lực lượng lao động rất trẻ
Dân số trẻ nên lược lượng lao động của nước ta chiếm khoảng 60% tổng
số dân. Hàng năm xã hội có thêm khoảng 0,6 triệu lao động. Điều đó gây nên
những khó khăn về sắp xếp việc làm cho lao động gia tăng. Tuy nhiên lực lượng
lao động Việt Nam có khả năng tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý, họ sẽ trở thành nguồn lực quyết định
để xây dựng đất nước. Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ dân số vàng và có thể
duy trì trong 30 năm tới.
22
Bảng 1.1: Số liệu dân số 2008-2012
(đơn vị: triệu người)
Dân số Tổng Phân theo giới tính Phân theo
khu vực
Trong độ tuổi lao
động
Lao
động từ
15 tuổi
trở lên
Nam Nữ Thành
Thị
(%)
Nông
thôn
(%)
Tổng Tỷ lệ thất
nghiệp
(%)
Tổng Ty lệ
(%)
Tổng Tỷ lệ
(%)
Năm
2008
85,1 41,9 49,3 43,2 50,7 27,9 72,1 44,8 4,7
Năm
2009
86,03 42,6 49,5 43,4 50,5 29,6 70,4 45,2 4,6
Năm
2010
86,9 43,0 49,4 43,9 50,6 29,9 70,1 46,2 2,9 50,5
Năm
2011
87,8 43,5 49,5 44,4 50,5 30,6 69,4 46,5 2,3 51,4
Năm
2012
88,7 43,9 49,5 44,9 50,5 32,5 67,6 47,0 1,9 52,6
(Báo cáo tổng kết chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình 5 năm
2008-2012, năm 2013- Ủy ban dân số quốc gia)
Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công Châu Âu, nền kinh tế
thế giới bất ổn. Kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi khủng hoảng, suy
thoái, khó khăn dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp thực tế tăng, lao động không có việc
làm ổn định. Nhu cầu việc làm hiện nay là rất lớn.
1.5.1.3 Trình độ lao động nước ta còn thấp
Bên cạnh việc lao động Việt Nam có khả năng tiếp thu nhanh, chăm chỉ…
thì còn rất nhiều hạn chế.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng lao động của Việt Nam
chỉ đạt 3,79/10 điểm. Trong tổng số 49,5 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên chỉ có
7,3 triệu người qua đào tạo, chiếm 14,6%. Mặc dù có nhiều thay đổi tích cực
trong những năm qua, nhưng lực lượng lao động của Việt Nam vẫn chủ yếu là
lao động có trình độ thấp, gần 2/3 chưa được đào tạo, gần 3/4 tổng số lao động
23
đang làm những công việc bấp bênh với tiền công và điều kiện làm việc nghèo
nàn. So với các nước trong khu vực, tỉ lệ người có trình độ học vấn đại học còn
thấp. Sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta thiếu rất nhiều các kỹ
năng làm việc cần thiết, chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao
động
Năng suất, hiệu quả lao động trong các ngành kinh tế còn thấp, chỉ bằng
61,4% mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN, cao hơn Campuchia
và Myanmar, bằng 12% so với Singapore, 22% so với Malaysia.
Nhìn chung, nước ta là nước có nguồn lao động dồi dào, tốc độ phát triển
tương đối cao tuy nhiên lao động nước ta còn yếu về kỹ năng và trình độ lao
động, một cơ cấu lao động bất hợp lý nên đã tạo ra một khó khăn lớn trong quá
trình giải quyết việc làm. Trong tương lai nếu không được khắc phục thì nguồn
nhân lực không còn là điểm mạnh của nước ta trong quá trình phát triển đất
nước và thực tế ưu thế về lao động của Việt Nam đang mất dần.
1.5.2 Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu đối với Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào. Do
có đến hơn 40% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và làm việc
theo mùa vụ và đồng thời do điều kiện kinh tế chưa phát triển nên cung việc làm
chưa đủ cung cấp cho toàn bộ lực lượng lao động.
Bên cạnh đó, trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay, cùng với vốn và tư
bản, lao động cũng được phép di chuyển giữa các quốc gia. Các quốc gia có
ngành công nghiệp phát triển thường có nhu cầu thuê mướn lao động từ các
nước đang phát triển có nguồn nhân công dồi dào và giá rẻ.
Xuất phát từ những đặc điểm, lợi thế của Việt Nam cũng như bối cảnh quốc
tế thuận lợi, có thể thấy xuất khẩu lao động là một hoạt động vô cùng cần thiết đối
với các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi lẽ, xuất khẩu
lao động không chỉ mang lại nhưng lợi ích trước mắt như giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, tăng thu nhập và nâng cao đời sống người dân, tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, thu hút FDI vào Việt Nam. Về lâu dài, nhờ có xuất
khẩu lao động, người lao động có cơ hội được tiếp xúc với môi trường lao động
24
chuyên nghiệp, máy móc và công nghệ hiện đại từ đó giúp nâng cao tay nghề và
đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ của Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình chung qua các năm từ 2007-2013
Theo báo cáo kết quả thị trường XKLĐ Việt Nam và vấn đề việc làm
( 2013) – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Trong nhiều năm qua, lao động Việt Nam đã được xuất khẩu ra khá nhiều
nước trên thế giới. Cho dù kinh tế thế giới trong giai đoạn khó khăn nhưng trong
năm 2011 vừa qua số lượng người lao động xuất khẩu ra nước ngoài đã đạt
101,15% đề ra, tăng 2,9% so với năm 2010. Trước đó trong 3 năm, từ 2006 đến
2008, gần 250.000 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi
năm khoảng 83.000 người, chiếm 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm.
Trong năm 2011, sự kiện ở Libya cũng khiến cho hơn 10.000 lao động
Việt Nam phải quay về nước và tất nhiên cũng không thể đưa thêm lao động
sang thị trường này. Một số thị trường lao động ở châu Á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Malaysia, Lào vẫn chiếm một số lượng lớn lao động xuất khẩu
của nước ta, với khoảng hơn 200.000 người đang lao động tại thị trường này.
Một số thị trường mới tiềm năng ở Trung Đông hay Úc, New Zealand, và một số
nước châu Âu.
Các lao động xuất khẩu đem về ngoại tệ cho đất nước, có điều kiện học
hỏi nâng cao tay nghề, kinh nghiệm cho bản thân, giúp ích nhiều cho nền kinh
tế. Nhưng sau khi về nước, nhiều người không được bố trí vào công việc phù
hợp để tận dụng vốn kỹ năng và kinh nghiệm quý giá của mình tích lũy được khi
xuất ngoại. Đây cũng là một điều rất đáng tiếc, lãng phí khả năng của lao động
xuất khẩu.
25