Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luật về lao động và bóc lột

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.83 KB, 81 trang )

Luận về lao động và bóc lột
Biên tập bởi:
Phùng Văn Hòa
Luận về lao động và bóc lột
Biên tập bởi:
Phùng Văn Hòa
Các tác giả:
Phùng Văn Hòa
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Giới thiệu về Luật lao động và bóc lột
2. Lao động, sức lao động và giá trị của sức lao động
3. Sự chuyển hoá các giá trị thành giá trị sức lao động
4. Định giá giá trị sức lao động
5. Lao động và sự di chuyển của giá trị sức lao động
6. Lợi nhuận và nguồn gốc lợi nhuận
7. Sự bóc lột
Tham gia đóng góp
1/79
Giới thiệu về Luật lao động và bóc lột
2/79
Lao động, sức lao động và giá trị của sức lao
động
Sự sinh tồn của sinh giới, của các loài động vật nói chung và của con người nói riêng
phụ thuộc rất nhiều vào một hoạt động là kiếm ăn. Với các loài động vật bậc thấp thì
hoạt động kiếm ăn chiếm gần hết thời gian của cuộc đời. Các loài động vật bậc cao hơn
có nhiều dạng hoạt động hơn cho nhu cầu sinh tồn ngoài hoạt động kiếm ăn như hoạt
động cho mục đích sinh sản, hoạt động bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nguồn thức ăn, hoạt động
mang tính xã hội. Trong các hoạt động đó thì hoạt động kiếm ăn vẫn là quan trọng nhất
chi phối các hoạt động khác. Để thực hiện các hoạt động sinh tồn, các loài động vật sử
dụng các bộ phận trên cơ thể phát triển trong quá trình tiến hoá như hệ vận động, móng


vuốt, răng, sừng,v.v Một số loài đã biết sử dụng những vật sẵn có trong thiên nhiên để
hỗ trợ cho hoạt động như tinh tinh dùng cành cây hoặc hòn đá làm công cụ đập vỡ hạt
cây, quạ dùng cành cây nhỏ để bắt sâu trong thân cây. Loài người được tự nhiên ưu ái
cho phát triển một bộ phận đặc biệt là bộ óc. Sự phát triển của bộ óc đã giúp con người
tự đẩy nhanh thêm quá trình tiến hoá của mình. Để thực hiện các hoạt động sinh tồn,
loài người không chỉ thực hiện các hoạt động như một số loài động vật cao cấp, mà còn
vượt lên hơn hẳn khi con người còn biết chế tác ra các công cụ phục vụ cho các hoạt
động của mình. Biết chế tác và thường xuyên sử dụng công cụ trong các hoạt động sinh
tồn, con người đã thực hiện một việc mà về tính chất đã vượt lên trên hoạt động kiếm
ăn thông thường của các loài sinh vật nói chung, đó là lao động. Việc sử dụng công cụ
trong lao động đã giúp cho con người thu được nhiều sản phẩm hơn, nhu cầu ngày càng
dễ được đáp ứng hơn. Hoạt động tìm kiếm thức ăn đã không còn chiếm nhiều thời gian
nên con người có điều kiện thực hiện nhiều hoạt động khác. Việc mở rộng thêm nhiều
hình thức hoạt động lại thúc đẩy sự phát triển trí óc. Một sản phẩm của quá trình phát
triển trí óc là tiếng nói. Tiếng nói ra đời đã giúp cho con người tăng cường và mở rộng
khả năng giao tiếp. Khả năng giao tiếp được nâng cao giúp cho con người lao động và
phối hợp với nhau trong lao động ngày càng tốt hơn, hiệu quả của lao động vì vậy ngày
càng được nâng cao hơn, trí tuệ của con người hình thành và ngày càng phát triển. Trí
tuệ phát triển giúp con người sáng tạo được nhiều công cụ tinh xảo có thể làm thay cho
con người trong nhiều công việc. Cứ như vậy, sự phát triển và quá trình phát triển của
loài người ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Lao động đã làm thay đổi về chất hoạt động sinh
tồn và sự tiến hoá cho loài người. Lao động từ mục đích ban đầu là đáp ứng nhu cầu
kiếm ăn đã chuyển sang đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Khả năng đáp ứng nhu cầu
được nâng lên kích thích sự phát sinh các nhu cầu mới. Nhu cầu của con người không
còn chỉ là đủ ăn khi đói, đủ uống khi khát, đủ ấm khi rét mà đã phát triển đến mức cần
được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi, được hiểu biết Sự phát triển nhu cầu thúc đẩy
lao động phát triển. Lao động đã không chỉ có lao động sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng
mà còn có lao động nâng cao nhận thức của con người về tự nhiên, về xã hội, về bản
thân con người, lao động nghệ thuật đáp ứng nhu cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp. Lao
3/79

động không còn chỉ dùng cơ bắp mà xuất hiện lao động trí óc. Lao động trí óc ngày càng
phát triển và thay thế dần cho một số dạng lao động chân tay. Lao động chuyển dần từ
lao động giản đơn sang lao động phức tạp với yêu cầu kiến thức và kỹ năng lao động
cao. Lao động mang tính công nghệ cao, hợp tác chặt chẽ, tập trung, phân công lao động
rõ ràng thay thế dần cho lao động nhỏ lẻ, manh mún và thiếu hợp tác. Sự thay thế này
làm cho năng suất lao động và chất lượng sản phẩm được nâng cao rõ rệt, đồng thời nó
cũng tạo ra nguy cơ làm mất cơ hội có việc làm cho nhiều người lao động có trình độ
lao động thấp. Trong xã hội có nền sản xuất nhỏ và lạc hậu, cơ hội việc làm cho mọi
người có nhiều nhưng năng suất lao động rất thấp nên khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội
của lao động cũng không cao. Trong nền sản xuất phát triển, cơ hội có việc làm chỉ dành
cho những người có kiến thức, có trình độ, có tay nghề vững vàng. Lao động đảm bảo
cho sự sinh tồn phát triển và hoàn thiện con người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng cao và càng
đa dạng, các sản phẩm phục vụ cho con người ngày càng phong phú. Nhu cầu của con
người không còn chỉ là các sản phẩm tiêu dùng, mà còn có các sản phẩm hưởng thụ. Giá
trị của các sản phẩm không chỉ là giá trị sử dụng, mà còn có giá trị hưởng thụ. Để đáp
ứng sự gia tăng của nhu cầu, lao động của con người ngày càng phát triển và đa dạng
về loại hình. Lao động đã có rất nhiều loại hình từ lao động giản đơn đến lao động phức
tạp; lao động chân tay đến lao động trí óc; lao động nặng nhọc hay nhẹ nhàng, lao động
trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật đến lao động trong các lĩnh vực tổ chức, xây dựng
và quản lý xã hội và quản lý sản xuất; lao động tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ như trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao; lao động quảng
bá và truyền thụ tri thức trong các lĩnh vực thông tin văn hoá, tuyên truyền, giáo dục
và đào tạo. Lao động cũng được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi. Môi trường lao động có
thể là môi trường thiên nhiên hay môi trường nhân tạo. Với môi trường thiên nhiên, con
người chịu mọi sự thay đổi về nhiệt độ, về độ ẩm, về mức độ ô nhiễm, chịu mọi biến
động về thời tiết, ảnh hưởng của mưa nắng. Môi trường nhân tạo có thể khắc phục được
mọi tác động tiêu cực của môi trường làm việc nhưng chi phí cho môi trường nhân tạo
cũng là một khoản đáng kể. Khoảng không gian lao động của con người đã trải dài từ độ
sâu hàng trăm mét trong các hầm lò hay trong lòng biển cả đến khoảng không bao la của

vũ trụ nơi có các con tàu vũ trụ có người lái bay đến. Các sản phẩm do con người tạo
ra không chỉ dừng ở việc thu lượm những sản vật sẵn có trong thiên nhiên mà đã phát
triển đến mức đòi hỏi phải có công nghệ cao mới thực hiện được. Có sản phẩm được
tạo ra trong thời gian ngắn và cần ít người tham gia, nhưng cũng có sản phẩm phải mất
rất nhiều thời gian trải qua rất nhiều thời kỳ, nhiều công đoạn, không gian sản xuất rộng
lớn và với sự tham gia của rất nhiều người. Mối liên hệ giữa những người lao động ngày
càng mở rộng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người lao động trong quá trình lao
động ngày càng chặt chẽ.
Một yếu tố rất cần cho lao động là tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất giúp cho lao động
được thực hiện. Trước đây quan niệm tư liệu sản xuất chỉ bao gồm các thành phần vật
chất như đất đai, công cụ, phương tiện lao động, nguyên vật liệu Quan niệm như vậy sẽ
4/79
không đầy đủ bởi trong quá trình lao động, người lao động còn phải sử dụng cả những
sự hiểu biết của họ. Những sự hiểu biết đó là tri thức. Vì vậy tri thức cũng phải được coi
là tư liệu lao động, là dạng tư liệu sản xuất phi vật chất. Khác với tư liệu vật chất có thể
tách rời khỏi người lao động, tri thức do người lao động tiếp nhận hoặc xây dựng và gắn
liền với người lao động. Nói cách khác, người lao động được sở hữu một loại tư liệu lao
động là tri thức về dạng lao động mà mình thực hiện. Còn các loại tư liệu lao động vật
chất có thể hoặc không phải là sở hữu của họ. Tri thức tạo nên sức lao động với giá trị
cao.
Để có tư liệu sản xuất, người lao động có thể tự tạo hoặc trao đổi, mua bán. Nhưng với
những tư liệu có giá trị lớn thì việc tự tạo hay trao đổi là khó hoặc không thực hiện được.
Lúc này vai trò của đồng tiền với sự tập trung cao của nó được thể hiện. Đồng tiền giúp
cho sự hình thành những khối tư liệu sản xuất lớn và với những khối tư liệu này, lao
động có thể tạo được nhiều sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu của con người. Đồng tiền
quan hệ với lao động thông qua tư liệu sản suất và sức lao động. Đồng tiền trở thành
điều kiện của lao động và là môi trường cho lao động. Vai trò của đồng tiền không còn
chỉ dừng ở chỗ làm thay đổi về chất việc trao đổi sản phẩm, hàng hoá mà đã nâng lên
với việc giúp lao động có thể tạo ra số lượng lớn sản phẩm, hàng hoá có chất lượng cao.
Bản thân đồng tiền không tạo ra được bất kỳ sản phẩm , hàng hoá nào nhưng nó giúp

cho lao động được thực hiện. Lao động sẽ không thực hiện được nếu không có tư liệu
sản xuất và không phát triển dược nếu không có sự tập trung của đồng tiền. Đồng tiền
tạo môi trường cho lao động được thực hiện và phát triển. Lao động được thực thực hiện
và phát triển tạo ra nhiều giá trị và do đó làm gia tăng số lượng cho đồng tiền. Vì vậy
mối quan hệ giữa lao động và đồng tiền đã trở thành mối quan hệ giữa hai mặt của một
sự thống nhất. Con người không thiết lập nên hoặc xoá bỏ được mối quan hệ giữa đồng
tiền và lao động. Sự hình thành mối quan hệ đó là tất yếu trong sự phát triển của xã hội
loài người. Nhưng mối quan hệ này không phải là mối quan hệ tự nhiên bởi lao động
là của con người, đồng tiền do con người tạo ra. Vì vậy con người có thể tác động vào
mối quan hệ này. Sự tác động hợp lý sẽ làm cho mối quan hệ phát triển, ngược lại, sự
tác động không hợp lý sẽ đẩy đồng tiền và lao động vào mối quan hệ đối lập, đấu tranh
không khoan nhượng khiến mối quan hệ có thể bị sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của cả lao
động và đồng tiền.
Sự đa dạng các loại hình lao động cũng tạo nên sự đa dạng về sức lao động. Có lao động
không đòi hỏi sức lao động phải có nhiều sự hiểu biết hay sự khéo léo, nhưng cũng có
lao động đòi hỏi người lao động phải có tri thức sâu sắc, phải có quá trình rèn luyện lâu
dài. Sự hao phí sức lao động cũng không giống nhau, có lao động đòi hỏi rất nhiều công
sức với cường độ lao động cao, nhưng cũng có lao động mà phần lớn thời gian chỉ dành
cho việc chờ đợi. Có lao động khiến người lao động luôn trong trạng thái căng thẳng
thần kinh vì dễ sai sót hoặc nguy hiểm. Sự tổn hao sức lao động phụ thuộc vào loại hình
và tính chất của lao động, vì vậy không phải người lao động nào cũng có khả năng đáp
ứng được mọi yêu cầu của lao động. Sự tổn hao sức lao động chỉ thực sự có hiệu quả và
có ý nghĩa khi sức lao động phù hợp với loại hình và tính chất của lao động.
5/79
Quá trình lao động đòi hỏi mỗi cá nhân không chỉ thành thục trong công việc mà còn
phải biết sắp xếp, tổ chức công việc hợp lý nhằm thu được kết quả cao nhất với chi phí
thấp nhất. Đây là yêu cầu về kỹ năng lao động. Kỹ năng lao động không chỉ là một khái
niệm về kỹ thuật, công nghệ, về năng lực, trình độ mà cần hiểu nó còn bao hàm cả nội
dung tổ chức lao động sản xuất. Cơ sở của sự bao hàm này là việc tổ chức lao động
sản xuất cũng do con người thực hiện. Việc con người sử dụng năng lực, trình độ, công

cụ, phương tiện để tổ chức, điều hành lao động sản xuất cũng là lao động. Kỹ năng tổ
chức, điều hành tốt cũng có nghĩa là kỹ năng lao động cao. Yếu tố này rất là quan trọng
trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá phát triển, yêu cầu hợp tác cao và cạnh tranh gay
gắt. Xây dựng và phát triển kỹ năng lao động là một quá trình từ đào tạo, rèn luyện và
thường xuyên rút kinh nghiệm, tích luỹ và bổ xung tri thức về công việc. Quá trình này
chỉ kết thúc khi con người không còn phải làm việc.
Trong quá trình lao động, người lao động sử dụng sức lực kết hợp với trí lực của mình để
tác động lên đối tượng lao động. Tuỳ theo mục đích lao động và đối tượng lao động mà
con người có hoặc cần có sự hỗ trợ của các công cụ, phương tiện lao động. Một đặc tính
đặc biệt của lao động trí óc mà lao động sức lực không có là nó có thể chuyển từ người
này sang người khác thông qua giao tiếp. Điều này có nghĩa người lao động không chỉ
kết hợp được giữa sức lực và trí lực của mình mà còn kết hợp được sức lực của mình
với trí lực của người khác. Sự kết hợp giữa trí lực và sức lực trong mỗi cá nhân tạo nên
sức lao động. Đây là sự kết hợp cần thiết bởi lao động của con người là việc thực hiện
nhiều động tác phức tạp và sự hiểu biết. Quá trình lao động là quá trình tổn hao sức lao
động. Con người sẽ thấy mệt mỏi sau một chu kỳ lao động. Nhưng sự tổn hao sức lao
động không phải là sự mất đi của sức lực và trí lực mà chúng được chuyển hoá vào các
sản phẩm được tạo ra trong quá trình lao động, chúng tạo nên giá trị cho sản phẩm. Phần
giá trị của sản phẩm do sức lao động chuyển hoá thành là giá trị của sức lao động, gọi
tắt là giá trị sức lao động. Nói cách khác, quá trình lao động là quá trình chuyển hoá sức
lao động thành giá trị sức lao động. Sức lực và trí lực của mỗi người là khác nhau, công
việc và điều kiện lao động có thể không giống nhau cho nên sự chuyển hoá sức lao động
của từng người thành giá trị sức lao động sẽ không giống nhau. Lao động nhằm tạo ra
sản phẩm đáp ứng nhu cầu cho mọi người trong xã hội. Giá trị sức lao động là mức độ
đáp ứng nhu cầu xã hội của sức lao động. Nhu cầu xã hội càng cao thì yêu cầu về lượng
giá trị sức lao động càng lớn. Nếu sức lao động có giá trị cao thì sự tổn hao sức lao động
cho đáp ứng nhu cầu hạ xuống. Xã hội càng phát triển, nhu cầu ngày càng tăng cao thì
sức lao động không chỉ gia tăng một phần về số lượng mà cái cần gia tăng mạnh mẽ
là khả năng tạo ra giá trị cao của mỗi sức lao động. Sức lao động là có giới hạn và có
thể đo được. Vì vậy việc tính toán về sức lao động là có thể thực hiện được. Giá trị sức

lao động phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu của sức lao động. Khả năng đáp ứng
càng cao thì sức lao động càng có giá trị. Giá trị sức lao động chỉ được thực hiện bởi sức
lao động. Sức lao động được phục hồi khi người lao động thu được giá trị sức lao động.
Điều này nói lên rằng giữa sức lao động và giá trị sức lao động có mối quan hệ biện
chứng. Sức lao động sẽ được phục hồi nhanh khi giá trị sức lao động cao. Việc phục hồi
nhanh sức lao động sẽ làm tăng chu kỳ lao động và như vậy giá trị sức lao động càng
6/79
được tạo ra nhiều. Giá trị sức lao động kích thích sức lao động. Trong xã hội có sự phân
công và phân hoá lao động, những người tạo ra sản phẩm mà xã hội có nhu cầu lớn thì
có giá trị sức lao động cao hơn những người lao động tạo ra những sản phẩm mà xã hội
không có nhiều nhu cầu mặc dù sức lao động của họ có thể giống nhau. Sự phân công
lao động xã hội khiến cho mọi người lao động có những mối quan hệ ràng buộc và phụ
thuộc vào nhau trong việc tạo ra và hưởng thụ thành quả lao động. Một sức lao động
trong giai đoạn hiện nay không chỉ thực hiện một giá trị sức lao động mà có thể thực
hiện nhiều giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động của người này nhiều khi phải thông
qua sức lao động của người khác mới được thực hiện hay sức lao động của người đó chỉ
có giá trị bởi lao động của người khác. Nếu không có ca sỹ thể hiện bài hát thì sức lao
động của nhạc sỹ trong việc sáng tác bài hát cũng không có giá trị. Nhưng nếu bài hát
được nhiều ca sỹ hát và được hát đi hát lại rất nhiều lần theo yêu cầu thính giả thì giá trị
sức lao động của nhạc sỹ sẽ là rất nhiều. Đây là biểu hiện của sự kết hợp giữa sức lực
của người này với trí lực của người khác, giữa sức lực của ca sỹ với trí lực của nhạc sỹ.
Như vậy ngoài biểu hiện có mối quan hệ biện chứng, giữa sức lao động và giá trị sức lao
động còn biểu hiện rằng mối quan hệ giữa chúng không phải là tuyến tính. Đây là mâu
thuẫn trong mối quan hệ giữa sức lao động và giá trị sức lao động. Mâu thuẫn này xác
định sức lao động và giá trị sức lao động là hai mặt của lao động. Điều này cho thấy khi
xem xét, định giá về lao động cần phải xem xét, định giá cả hai mặt của lao động là sức
lao động và cái mà sức lao động đem lại là giá trị sức lao động. Nếu định giá lao động
chỉ riêng về sức lao động là không đầy đủ. Sự định giá như vậy sẽ dẫn đến kết quả của
sự định giá chỉ mang tính định tính mặc dù có thể tìm được những số liệu cụ thể về sự
tổn hao thời gian và sức lực. Định giá giá trị sức lao động là sự lượng hoá lao động về

mặt giá trị, định giá lượng giá trị mà mỗi người lao động tạo ra, là định giá giá trị của
một con người.
7/79
Sự chuyển hoá các giá trị thành giá trị sức
lao động
Lao động là sự tổn hao về thời gian, sức lực, trí lực và cả tâm lực. Không có ai lao động
mà không mất thời gian, không có quá trình lao động nào diễn ra trong khoảng thời gian
bằng không. Không có người nào không mệt mỏi sau một thời gian lao động năng nhọc
và căng thẳng. Nhiều công việc không chỉ đòi hỏi về kỹ năng lao động mà còn đòi hỏi
người lao động phải có cả tình yêu và sự say mê đối với lao động. Lao động là quá trình
chuyển hoá các giá trị của bản thân người lao động và những giá trị mà người lao động
tiếp nhận từ bên ngoài thành giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động được thực hiện
bằng sức lao động. Sức lao động là có hạn, do đó nếu không có những yếu tố khác bổ
xung thì giá trị sức lao động cũng bị giới hạn. Sự bổ xung này là sự chuyển hoá các giá
trị thành giá trị sức lao động. Sự chuyển hoá các giá trị khác nhau thành giá trị sức lao
động đã tạo ra các mức rất khác nhau trên những sức lao động tương đương nhau. Bản
chất của giá trị sức lao động là sự chuyển hoá các giá trị của tự nhiên, giá trị của nhân
loại và giá trị của mỗi con người vào trong các sản phẩm của lao động. Nghiên cứu về
sự chuyển hoá các giá trị thành giá trị sức lao động sẽ làm rõ được ý nghĩa của sức lao
động và vai trò của từng cá nhân trong xã hội. Những giá trị sau có thể chuyển hoá thành
giá trị sức lao động:
Giá trị thời gian
Mọi quá trình, mọi sự vận động đều diễn ra trong thời gian. Quá trình lao động cũng
của con người cũng diễn ra trong thời gian. Sức lao động của con người cũng không
thể giải phóng đột ngột trong một khoảng thời gian cực ngắn. Nếu không có thời gian
thì không thể thực hiện được một công việc nào, kể cả việc xuất hiện một ý tưởng mới
trong trí não. Người có giá trị thời gian là người dùng một khoảng thời gian trong cuộc
đời của mình để lao động. Lao động làm hao phí thời gian. Quá trình lao động là quá
trình chuyển giá trị thời gian vào giá trị sức lao động, biến sự hao phí thời gian thành giá
trị. Thời gian không phải là giá trị sức lao động. Giá trị thời gian được chuyển hoá thành

giá trị sức lao động thể hiện ở chỗ thời gian là một chiều của mọi sự vận động trong vũ
trụ và trong đời sống của mỗi con người. Khoảng thời gian hao phí cho lao động chính
là giá trị thời gian. Thời gian là điều kiện tiên quyết cho mọi quá trình lao động và do
đó nó cũng là điều kiện tiên quyết cho mọi quá trình chuyển hoá các giá trị khác thành
giá trị sức lao động. Thời gian có đặc tính là nó bị tiêu hao liên tục và không thể lấy lại,
vì vậy thời gian chỉ thực sự có giá trị khi nó được dùng cho lao động và nó chỉ được
chuyển hoá bởi những người thực sự có và thực sự còn khả năng lao động.
8/79
Giá trị năng lực cá nhân
Để lao động, con người không chỉ huy động hệ thống cơ bắp, mà còn huy động cả bộ
não. Lao động của con người vì vậy không chỉ là sự tổn hao về sức lực, mà còn là sự tổn
hao về trí lực, là sự mệt mỏi của cơ thể, của đầu óc sau một quãng thời gian lao động.
Sự tổn hao về sức lực, về trí lực nhằm tạo ra một sản phẩm của lao động. Sản phẩm của
lao động đó chứa đựng sức lực, trí lực của người lao động. Sức lực và trí lực là năng lực
của người lao động. Khi sức lực và trí lực được chuyển vào sản phẩm và sản phẩm có
giá trị thì có nghĩa là năng lực cá nhân đã chuyển thành giá trị, giá trị năng lực cá nhân
nằm trong sản phẩm. Giá trị năng lực cá nhân biểu hiện trong những dạng sau:
Khả năng sinh công
Đây là khả năng chuyển hoá năng lượng trong hoạt động của hệ thống cơ bắp thành các
thao tác có ích trong lao động để biến các đối tượng của lao động thành các sản phẩm
có giá trị. Khả năng sinh công phụ thuộc vào thể lực của từng cá nhân cụ thể. Người có
thể lực tốt tạo được nhiều công hơn so với người có thể lực yếu. Với những công việc
đòi hỏi nhiều về sức lực thì người có khả năng sinh công cao sẽ chuyển được nhiều giá
trị vào sản phẩm hoặc tạo ra nhiều sản phẩm. Quá trình sinh công là quá trình chuyển
hoá năng lượng do cơ thể tích luỹ từ quá trình tiêu hoá. Sự chuyển hoá năng lượng thành
công làm tổn hao năng lượng. Năng lượng là một đại lượng vật lý có thể đo được. Do đó
khả năng sinh công cũng có thể xác định được, và như vậy giá trị sức lao động, xét trên
khả năng sinh công, cũng là một yếu tố có thể định giá được. Thông thường, khả năng
này được định giá trên cơ sở khối lượng công việc được thực hiện trong một đơn vị thời
gian.

Sự linh hoạt của cơ thể trong lao động
Sự linh hoạt của cơ thể trong lao động là sự mềm dẻo, uyển chuyển, nhanh nhạy của cơ
thể để đáp ứng yêu cầu của công việc, nhằm thực hiện công việc một cách tốt nhất, tốn
ít sức lực nhất và giảm các chi phí khác một cách thấp nhất. Sự linh hoạt của cơ thể là
biểu hiện khả năng điều khiển hệ vận động của bộ não. Mỗi người được sinh ra với bộ
não riêng biệt. Mỗi bộ não lại có một khả năng điều khiển hoạt động cơ thể ở mức độ
nào đó. Sự điều khiển vận động cơ thể của não bộ là một trong những chức năng của bộ
não và mức độ, phương thức điều khiển thể hiện năng lực của bộ não. Do đó sự linh hoạt
của cơ thể trong lao động là biểu hiện của năng lực thần kinh. Sự khéo léo của đôi tay có
nguồn gốc từ bộ não. Sự khéo léo giúp cơ thể thực hiện được những động tác phức tạp
một cách chính xác, kịp thời, đúng mức, đúng yêu cầu. Trong nhiều công việc, sự phức
tạp của sản phẩm đòi hỏi phải có sự linh hoạt của cơ thể trong lao động. Sự linh hoạt của
cơ thể được hình thành do năng lực thần kinh hoặc do rèn luyện, hoặc bao gồm cả hai.
Quá trình lao động cần đến sự linh hoạt sẽ làm hao tổn không chỉ sức lực và trí lực. Do
đó giá trị năng lực cá nhân được chuyển vào sản phẩm bao gồm cả khả năng sinh công
và năng lực của hệ thần kinh. Với những sản phẩm khác nhau nhưng có sự tổn hao về
9/79
sức lực như nhau thì những sản phẩm phức tạp hơn. đòi hỏi sự linh hoạt của cơ thể cao
hơn thì giá trị sức lao động trong sản phẩm đó cũng cao hơn. Việc định giá giá trị sức
lao động trong trường hợp này thường được thực hiện thông qua hình thức phân chia
cấp bậc công việc, mỗi cấp bậc côngviệc xác định một mức giá trị sức lao động tương
ứng.
Năng lực tư duy của hệ thần kinh
Hoạt động tư duy cũng là một chức năng của hệ thần kinh, nhưng nó chỉ có trong các hệ
thần kinh phát triển. Đây là một dạng hoạt động đặc biệt bởi những lý do dưới đây:
Sự hoạt động phụ thuộc nhiều yếu tố
- Cấu trúc của hệ thần kinh.
Sự tiến hoá của sinh giới đã làm hình thành trong cơ thể các loài động vật đa bào một cơ
quan đặc biệt, đó là hệ thần kinh. Hệ thần kinh đảm nhiệm nhiều chức năng hơn so với
các cơ quan khác trong cơ thể. Hệ thần kinh càng phát triển thì chức năng mà nó đảm

nhiệm càng nhiều. Để thực hiện được nhiều chức năng thì hệ thần kinh phải có cấu trúc
tương ứng. Cấu trúc của hệ thần kinh không chỉ bao gồm các bộ phận chức năng mà còn
bao hàm về thành phần hoá học, tỷ lệ giữa các bộ phận chức năng, tỷ lệ thành phần hoá
học, phương thức liên hệ giữa các tế bào thần kinh và giữa các tế bào thần kinh với các
tế bào khác, các bộ phận khác trong cơ thể, số lượng các bộ phận chức năng. Cấu trúc
của hệ thần kinh có ảnh hưởng mang tính quyết định đến khả năng tư duy thể hiện ở khả
năng tư duy trực quan, tư duy lô gích hay tư duy hình tượng. Tuỳ thuộc cấu trúc của hệ
thần kinh mà các khả năng tư duy được thể hiện mạnh hay yếu và do đó sản phẩm của tư
duy có giá trị cao hay thấp trong cuộc sống. Sự hình thành các hệ thần kinh với một sự
khác biệt không nhiều về cấu trúc cũng có thể tạo nên những bộ óc siêu phàm với việc
tạo nên những giá trị đặc biệt cho nhân loại.
-Môi trường nhận thức.
Môi trường nhận thức là điều kiện về tiếp nhận tri thức. Khối lượng tri thức mà một
cộng đồng, một quốc gia có thể cung cấp cho một thành viên của mình, phương pháp
truyền thụ và tiếp nhận tri thức làm tăng khả năng tư duy và một phần tác động đến
phương thức tư duy, do đó làm tăng một phần giá trị của khả năng tư duy. Ngược lại, ở
những nơi mà các cá nhân không có điều kiện tiếp nhận tri thức, hay nói cụ thể hơn là
không hoặc ít được học hành thì khả năng tư duy cũng giảm sút, giá trị sức lao động ở
khả năng tư duy cũng thấp mặc dù có cùng một mặt bằng về cấu trúc hệ thần kinh.
-Môi trường hoạt động.
10/79
Môi trường hoạt động là điều kiện về việc kích thích hay kìm hãm sự bộc lộ khả năng tư
duy. Môi trường dành cho hoạt động của tư duy rất đa dạng và nhiều khi là tập hợp của
rất nhiều yếu tố. Các yếu tố của môi trường hoạt động có thể chia thành hai nhóm sau:
-Môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên là môi trường chứa đựng các yếu tố vật lý, hoá học liên tục tác động
lên hệ thần kinh. Các yếu tố vật lý có thể là nhiệt độ, ánh sáng, âm thanh, các va chạm
cơ học, các yếu tố hoá học là các chất dinh dưỡng, các chất kích thích hay nói chung là
tất cả các chất có thể ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh. Sự tác động của môi
trường tự nhiên có thể làm cho hệ thần kinh hoạt động mạnh hay yếu, nhanh hay chậm,

do đó các sản phẩm của hoạt động tư duy nhiều hay ít, đơn giản hay phức tạp. Một môi
trường tự nhiên tốt sẽ kích thích hệ thần kinh hoạt động có hiệu quả, do đó kết quả lao
động cũng tăng lên.
-Môi trường xã hội.
Môi trường xã hội là cộng đồng nơi người lao động sống và làm việc có những mối quan
hệ với người lao động đủ để có những tác động nào đó tới người lao động. Giống như
môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu
cực tới hoạt động tư duy của người lao động. Trong một cộng đồng, một quốc gia, khi
các sáng kiến, các sáng chế, các phát minh luôn được cổ suý và tôn vinh thì mọi thành
viên đều có niềm hứng khởi trong tư duy sáng tạo và tích cực tham gia đổi mới trong
lao động, giá trị sức lao động được nâng lên. Nếu người lao động không được tôn trọng
và trong đầu óc họ xuất hiện những ý nghĩ tiêu cực thì có thể dẫn họ đến những hành vi
gây hậu quả xấu trong lao động, giá trị sức lao động sẽ thấp hoặc làm triệt tiêu các giá
trị đã có.
Tác động của môi trường hoạt động không chuyển hoá thành giá trị sức lao động, Nhưng
nó làm phát sinh hoặc triệt tiêu giá trị sức lao động tuỳ thuộc vào sự tác động theo chiều
hướng tích cực hoặc tiêu cực của nó.
Kết quả của hoạt động tư duy được thể hiện dưới nhiều hình thức
-Trực tiếp: Tư duy của cá nhân nào do cá nhân đó trực tiếp thể hiện thông qua hành vi
của họ hay các sản phẩm do họ tạo ra.
-Gián tiếp: Kết quả tư duy không được thể hiện ra bên ngoài cùng hoặc sau một khoảng
thời gian ngắn sau tư duy hoặc kết quả tư duy của người này được thể hiện thông qua
hành vi hoặc sản phẩm lao động của người khác.
-Là sản phẩm cụ thể hoặc trừu tượng. Sản phẩm cụ thể của hoạt động tư duy có thể
là các vật phẩm hoặc các hành động, nói chung là những sản phẩm được cảm nhận và
nắm bắt thông qua các cơ quan cảm giác hay cảm nhận trực quan như các sản phẩm vật
11/79
chất ra đời từ một sáng kiến, một sáng chế hay một phát minh mới, một động tác nghệ
thuật hay một động tác mới điều khiển trái bóng Sản phẩm trừu tượng là sản phẩm mà
những người tiếp nhận phải sử dụng hệ thống cơ quan cảm giác và cả tư duy của mình

mới nắm bắt, mới hiểu được. Sản phẩm cụ thể được cảm nhận và được hiểu đúng đắn
hơn so với các sản phẩm trừu tượng. Các sản phẩm trừu tượng đưa đến nhiều cách cảm
nhận, cách hiểu khác nhau nhưng cũng vì vậy nó mở ra được nhiều hướng tư duy mới,
hướng hoạt động mới cho hệ thần kinh.
Tuổi thọ của sản phẩm tư duy không phụ thuộc vào chất liệu chứa đựng sản phẩm
mà phụ thuộc vào nhu cầu của con người
Các sản phẩm bằng vật chất có tuổi thọ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm, do đó nó
có giới hạn về thời gian sử dụng, còn các sản phẩm của hoạt động tư duy có thể được
truyền từ bộ não của người này sang bộ não của người khác, do đó chúng có thể truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác và có thể trường tồn theo thời gian. Nhiều sản phẩm của
hoạt động tư duy như một số phát minh trong khoa học cơ bản là những sản phẩm tồn
tại vĩnh cửu trong lịch sử của nhân loại.
Tính chất của hoạt động tư duy được thể hiện trên các bậc sau:
-Sự thành thục công việc.
Sự thành thục công việc là việc rèn luyện kỹ năng để thực hiện một công việc theo một
quy trình định trước hay đơn giản hơn , là một thao tác. Yêu cầu của sự thành thục dành
cho người thực hiện công việc là thực hiện đúng những thao tác, những trình tự đã được
quan sát, đã được chỉ bảo, áp dụng đúng những kiến thức đã được tiếp thu một cách
thành thạo nhằm mục đích tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp. Sự thành
thục công việc là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện. Học tập giúp cho việc hình
thành các mối liên hệ mới trong tư duy về các công việc phải thực hiện. Rèn luyện làm
cho các mối liên hệ đó rõ ràng và bền vững. Sự thành thục công việc thể hiện ở khả
năng rút ngắn được thời gian thực hiện công việc và do đó nâng cao được giá trị sức lao
động. Mức độ của giá trị sức lao động phụ thuộc vào mức độ thành thục công việc và
phụ thuộc vào sự phức tạp của công việc.
-Tự rút ra được kinh nghiệm, bài học trong hoạt động.
Việc đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động của bản thân là khả năng tự nhận xét, định
giá những cái hợp lý và bất hợp lý trong hoạt động của bản thân, của những người có
hoạt động tương tự với mình, từ đó chọn lọc, xắp xếp, tổ chức lại hoạt động của mình
một cách hiệu quả nhằm mục đích hao tổn ít nhất thời gian và sức lực mà vẫn thu được

kết quả của hoạt động. Việc đúc rút kinh nghiệm, bài học trong hoạt động đòi hỏi phải
có sự hoạt động của tư duy. Đây là bước đầu tiên thể hiện khả năng độc lập về tư duy
của mỗi người lao động và cũng là bước đầu tiên mà người lao động tự nâng cao giá
12/79
trị sức lao động của bản thân mình. Nếu sự thành thục là yêu cầu của công việc thì giá
trị sức lao động chỉ thực sự nâng lên khi sự thành thục vượt mức yêu cầu. Tự rút kinh
nghiệm và bài học là hình thức chủ động nâng cao giá trị sức lao động, còn rèn luyện để
thành thục công việc là hình thức thụ động và nó chủ yếu giúp cho việc nâng cao giá trị
sức lao động bắt đầu từ con số 0. Sự thành thục chỉ giúp làm tốt những sản phẩm quen
thuộc, còn việc rút kinh nghiệm giúp cho việc làm quen với sản phẩm mới một cách
nhanh chóng và có thể không cần có sự học hỏi và hướng dẫn.
- Sáng kiến, cải tiến
Đây là sự đổi mới về phương thức trong một hoạt động nào đó nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động một cách rõ rệt hoặc thay đổi một vài cấu trúc, bổ xung thêm một số tính năng
cho một sản phẩm đang đáp ứng nhu cầu trong xã hội. Sáng kiến có tầm ảnh hưởng rộng
hơn so với khả năng tự rút kinh nghiệm bởi nó có thể tác động đến nhiều người và nhiều
yếu tố khác nhau. Sáng kiến xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu
quả đáp ứng nhu cầu của sản phẩm. Sáng kiến là sự vận dụng hay ứng dụng phương
thức hay một phần của phương thức hoạt động này vào một hoạt động khác, ứng dụng
tính năng, tác dụng của sản phẩm này vào một sản phẩm khác. Nói chung, sáng kiến là
khả năng sử dụng những cái đã có, đã xuất hiện một cách hợp lý vào một hoạt động, vào
một sản phẩm hiện tại. Sáng kiến đòi hỏi người lao động phải có một số kiến thức và
một số kinh nghiệm nào đó trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, đồng thời cũng
phải có khả năng phân tích và định giá các kiến thức, các kinh nghiệm đó, biết định giá
hoạt động hiện tại, những ưu nhược điểm của sản phẩm đang có để tìm ra những yếu
tố có thể áp dụng cho hoạt động tiếp theo hoặc cho loạt sản phẩm sau. Điều này cũng
có nghĩa không phải cứ có kiến thức, có kinh nghiệm là có thể để đề xuất được sáng
kiến. Người có khả năng đề xuất sáng kiến nhưng không có kiến thức và kinh nghiệm
thì cũng không có sáng kiến; ngược lại, người có nhiều kiến thức và kinh nghiệm nhưng
hoạt động tư duy theo cách máy móc thì cũng khó có sáng kiến. Do đó khả năng đề xuất

sáng kiến mang giá trị bản thân của người lao động. Sáng kiến là biểu hiển ban đầu của
khả năng sáng tạo trong hoạt động tư duy.
- Sáng tạo
Là việc tạo ra một phương thức hoạt động mới, một sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu hoạt
động sản xuất, tiêu dùng và hưởng thụ của con người trong một cộng đồng hay toàn xã
hội. Hoạt động sáng tạo bao gồm sáng chế trong kỹ thuật, công nghệ, sáng tác trong văn
học, nghệ thuật. Nhu cầu có thể là nhu cầu đang có mà chưa được đáp ứng tốt hoặc là
nhu cầu mới phát sinh. Do đó sáng tạo có nguồn gốc từ nhu cầu thực tế của cuộc sống,
đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng đa dạng của con người. Nếu
như sáng kiến chỉ có phạm vi ảnh hưởng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó thì sáng
tạo ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, tác động đến nhiều yếu tố khác
nhau của cuộc sống. Sáng tạo giúp thoả mãn được một hoặc một số nhu cầu nào đó của
xã hội. Do phạm vi ảnh hưởng của sáng tạo là khá rộng cho nên giá trị sức lao động
13/79
của việc tạo nên sáng chế cũng rất nhiều. Giá trị sức lao động của sáng tạo giảm dần và
chấm dứt khi các sản phẩm của sự sáng tạo bắt đầu trở nên lạc hậu hoặc xã hội không
còn nhu cầu về sản phẩm đó nữa.
Hoạt động sáng tạo không chỉ đòi hỏi người lao động có kinh nghiệm hoạt động, có một
lượng kiến thức thích hợp, biết định giá hiện thực mà còn có khả năng phát hiện nhu cầu
tiềm tàng của cuộc sống. Phát hiện nhu cầu tiềm tàng và tiến hành các bước chuẩn bị để
khi nhu cầu xuất hiện là đáp ứng được kịp thời có ý nghĩa quan trọng cho sự thành công
của người lao động. Khả năng phát hiện nhu cầu tiềm tàng là khả năng của hoạt động tư
duy, do đó nó mang giá trị của bản thân người lao động và nó sẽ chuyển hoá thành giá
trị sức lao động khi người lao động tạo ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu. Để có kinh
nghiệm thì người lao động phải thực sự trải qua hoạt động, thực sự trải qua cuộc sống về
lĩnh vực cần sáng tạo. Một nhà văn sinh ra và sống ở thành thị, không trải qua cuộc sống
ở thôn quê, không hiểu về phong tục, tập quán, nếp ăn, nếp nghĩ của những người nông
dân thì tác phẩm của anh ta không thể coi là sáng tạo khi anh ta áp đặt cách sống,lối nghĩ
của người thành thị cho nhân vật nông dân. Trái lại, nếu anh ta có thái độ sáng tác không
nghiêm túc thì kiểu sáng tạo này trở nên lố bịch, giá trị sức lao động sáng tạo của anh

ta trở nên vô nghĩa và có thể chuyển sang trạng thái tiêu cực. Một nhà khoa học nghiên
cứu chế tạo ra một chiếc máy phục vụ sản xuất nhưng do chỉ nghiên cứu theo yêu cầu
về tính năng tác dụng trên lý thuyết mà không nghiên cứu về điều kiện sử dụng, cho nên
chiếc máy ra đời mà không thể đưa vào hoạt động do không phù hợp. Giá trị sức lao
động của nhà khoa học cũng không xuất hiện mặc dù sức lao động đã được bỏ ra. Lý
thuyết dạy ta cách làm, còn thực tế dạy ta sáng tạo. Mức độ phát huy giá trị sức lao động
từ sáng kiến và sáng chế, ngoài sự phụ thuộc lĩnh vực của công việc, còn phụ thuộc vào
phạm vi phổ biến hay phạm vi áp dụng chúng. Phạm vi phổ biến càng rộng thì giá trị
sức lao động càng cao. Cùng một sáng kiến được đề xuất khi áp dụng ở một cơ sở tạo
ra số lượng không nhiều sản phẩm sẽ có giá trị sức lao động thấp hơn khi được áp dụng
cho cơ sở tạo ra nhiều sản phẩm. Việc phổ biến rộng rãi các sáng kiến, các sáng tạo có
ý nghĩa thiết thực cho xã hội vì giá trị mới sẽ được tạo ra nhiều hơn do giá trị sức lao
động tăng khi các sáng kiến, sáng tạo được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực.
-Khám phá và phát minh.
Hoạt động khám phá và phát minh là hoạt động không xuất phát từ yêu cầu thoả mãn
các nhu cầu về vật chất hay tinh thần của con người mà xuất phát từ nhu cầu thoả mãn
nhận thức về thế giới tự nhiên, về sự vận động và phát triển của xã hội. Khám phá và
phát minh nhằm tìm ra các quy luật vận động của vật chất, các quá trình hình thành và
tan rã, các quá trình biến đổi của các cấu trúc vật chất, của sự sống, các quy luật vận
động của xã hội loài người v.v Về bản chất, hoạt động khám phá và phát minh cũng
nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Nhưng để đáp ứng thì những sản phẩm của
hoạt động khám phá và phát minh còn phải thông qua một hoạt động nữa là tạo ra các
sản phẩm cụ thể bằng hoạt động sáng tạo. Trong thực tế, hoạt động sáng tạo là hoạt động
ứng dụng các nguyên lý do hoạt động khám phá và phát minh tìm ra để tạo ra các sản
14/79
phẩm cụ thể đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Khám phá và phát minh có thể tạo ra các sản
phẩm đơn lẻ hoặc một nhóm các sản phẩm về một hoặc một số lĩnh vực có quan hệ với
nhau. Mặc dù xuất phát từ nhu cầu nhận thức, nhưng do khả năng nâng cao sự hiểu biết
của con người về thế giới tự nhiên, về xã hội và về bản thân con người, từ đó giúp con
người có thể tìm được cách tạo ra được các sản phẩm đáp ứng tối đa nhu cầu của con

người cho nên giá trị sức lao động của hoạt động khám phá, phát minh là rất cao. Những
định luật, những nguyên lý cơ bản được áp dụng trong nhiều sản phẩm, nhiều lĩnh vực
và giá trị ngày càng được phát huy qua mọi thời đại đã trở thành thứ tài sản vô giá của
nhân loại
-Xây dựng học thuyết và hệ tư tưởng
Xây dựng học thuyết và hệ tư tưởng là bậc hoạt động cao nhất trong hoạt động tư duy
của con người. Xây dựng học thuyết và hệ tư tưởng là việc tập hợp, tìm ra các mối liên
hệ từ các khám phá, các phát minh rời rạc, riêng rẽ và hệ thống hoá thành sự nhận thức
cơ bản, sâu sắc của con người về thế giới tự nhiên, về xã hội, đồng thời định hướng cho
các nghiên cứu khám phá, phát minh tiếp theo, định hướng và dự báo khả năng phát triển
xã hội. Hoạt động xây dựng học thuyết và hệ tư tưởng không chỉ đòi hỏi một vốn tri thức
nhất định mà còn đòi hỏi một khả năng đặc biệt về tư duy lô gích và tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng giúp cho sự khái quát, phán đoán, dự báo những vấn đề, những sự
kiện, những hiện tượng có thể xuất hiện những mối liên hệ với nhau, đồng thời dự báo
những vấn đề, những sự kiện, những hiện tượng có thể xảy ra từ những mối liên hệ đó.
Tư duy lô gích giúp tìm ra và khẳng định các mối liên hệ chặt chẽ giữa các vấn đề, các
sự kiện, các hiện tượng khác nhau, từ đó xác định được bản chất của chúng, xác lập tính
hệ thống của chúng trong một hoặc nhiều lĩnh vực. Bản thân các học thuyết, các hệ tư
tưởng là những khám phá, những phát minh. Nhưng nếu hoạt động khám phá, phát minh
nhiều khi phải có sự hỗ trợ về vật chất, phải có các phương tiện kỹ thuật, nhiều khám
phá và phát minh là tình cờ hoặc cần điều kiện từ bên ngoài thì hoạt động xây dựng học
thuyết và hệ tư tưởng là hoạt động mà trong đó năng lực tư duy là yếu tố quyết định.
Học thuyết và hệ tư tưởng ra đời trên cơ sở các khám phá, các phát minh, nhưng nó
không đơn giản chỉ là việc ghép các khám phá, các phát minh để tạo nên một hệ thống.
Giá trị của học thuyết và hệ tư tưởng do đó cũng không phải là việc cộng các giá trị của
các khám phá, các phát minh mà là phép nhân các giá trị đó. Học thuyết và hệ tư tưởng
làm gia tăng giá trị cho các phát minh, khám phá. Nhưng điều này không có nghĩa là giá
trị của học thuyết và tư tưởng là không có giới hạn. Khi các khám phá, phát minh chưa
đầy đủ hay cơ sở của học thuyết và tư tưởng chưa chắc chắn, quá trình xây dựng chịu
sự chi phối của một số yếu tố không đúng từ bên ngoài thì học thuyết và hệ tư tưởng có

thể sai lệch hoặc chỉ là gần đúng, do đó nó chỉ có giá trị trong phạm vi hẹp hoặc trong
một khoảng thời gian nhất định, thậm trí có thể có những học thuyết, những tư tưởng
trái ngược với các quy luật vận động khách quan của tự nhiên, của xã hội cũng được ra
đời. Những học thuyết, những hệ tư tưởng này không những không làm tăng giá trị cho
con người mà có thể huỷ hoại những giá trị mà loài người đã tạo ra. Nói chúng, những
15/79
học thuyết, những hệ tư tưởng không phản ánh đúng các quy luật khách quan sẽ mất dần
ý nghĩa và sẽ bị thay thế. Chỉ có những học thuyết, những tư tưởng phù hợp với quy luật
khách quan mới trường tồn và đem lại giá trị mãi mãi cho loài người.
Hoạt động khám phá, phát minh và hoạt động xây dựng học thuyết, hệ tư tưởng là những
hoạt động tạo ra nguồn tri thức cho nhân loại. Tri thức là cái không thể thiếu cho sự phát
triển của nhân loại và là nguồn sống chủ yếu trong tương lai của con người. Khi tri thức
được mọi người sử dụng, khi các học thuyết, các tư tưởng đúng đắn trở thành kim chỉ
nam cho mọi hoạt động hữu ích của con người trong toàn xã hội thì các giá trị mới tạo
ra ngày càng lớn, giá trị sức lao động của hoạt động khám phá, phát minh, xây dựng học
thuyết và hệ tư tưởng càng được phát huy mạnh mẽ, nhân loại càng có nhiều giá trị để
sử dụng cho cuộc sống tốt đẹp.
Việc phân chia thành các bậc trong hoạt động tư duy của con người không có nghĩa là
giá trị sức lao động của các bậc sau luôn cao hơn các bậc trước do các giá trị được tạo
ra còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Ngay trong bản thân mỗi bậc cũng còn rất
nhiều nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc mức độ phức tạp mà hoạt động phải thực hiện.
Việc phân chia thành các bậc thể hiện tính chất của hoạt động tư duy, còn mức thể hiện
cường độ hoạt động. Mức thể hiện bằng số lượng sản phẩm tư duy được tạo ra, còn bậc
thể hiện chất lượng của sản phẩm đó. Có thể xảy ra tình trạng lượng giá trị sức lao động
của bậc tư duy thấp nhiều hơn lượng giá trị sức lao động của bậc tư duy cao. Một người
bình thường cũng có thể tìm được cho mình một tư tưởng hành động được gọi là triết lý
sống của riêng mình. Nhiều tư tưởng được thể hiện chỉ bằng một câu châm ngôn nhưng
cũng có những tư tưởng hay hệ tư tưởng được thể hiện bằng cả chồng sách dày. Giá trị
sức lao động được chuyển hoá từ năng lực tư duy bao gồm số lượng các sản phẩm tư
duy được tạo ra và chất lượng của mỗi sản phẩm.

Giá trị đạo đức
Đạo đức là một phẩm chất cá nhân. Đạo đức của mỗi cá nhân được hình thành từ nhiều
yếu tố bao gồm tính cách bẩm sinh, tính cách mới tiếp nhận từ môi trường sống, việc
học tập và tu dưỡng đạo đức Đạo dức trong mỗi con người không trực tiếp tạo ra giá
trị sức lao động nhưng nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm, làm tăng hoặc giảm quá trình
chuyển hoá và sự chuyển hoá các giá trị khác thành giá trị sức lao động, do đó nó cũng
được chuyển hoá thành giá trị sức lao động . Giá trị sức lao động được chuyển hoá từ
giá trị đạo đức mang giá trị dương hay âm tuỳ thuộc vào tính chất của đạo đức. Đạo đức
thường kết hợp với năng lực cá nhân trong quá trình chuyển hoá thành giá trị sức lao
động. Đạo đức tốt hay đạo đức xấu đều có khả năng phát huy năng lực cá nhân. Đạo đức
tốt phát huy năng lực cá nhân theo hướng tạo ra nhiều giá trị mới có ích, còn đạo đức
xấu làm mất trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng, với xã hội, làm tăng tính ích kỷ
và khi kết hợp với năng lực cá nhân cao, nó không tạo ra được nhiều giá trị mới mà trở
thành những thứ xấu xa, thậm trí nguy hiểm cho cộng đồng, cho xã hội thể hiện ở các
16/79
mánh khoé, các thủ đoạn, các mưu mô làm hại người khác, làm hại xã hội, mưu cầu lợi
ích cá nhân không bằng con đường tạo ra giá trị mà bằng con đường chiếm đoạt giá trị.
Giá trị của công cụ, phương tiện lao động
Công cụ, phương tiện lao động là các yếu tố hỗ trợ cho sức lao động của con người trong
nhiều trường hợp đòi hỏi khả năng sinh công vượt quá sức lực của con người, tính chất
lao động là nặng nhọc, phức tạp, nguy hiểm, độ chính xác cao mà con người không có
khả năng trực tiếp thực hiện được. Công cụ, phương tiện giúp cho năng xuất, chất lượng
sản phẩm nâng lên rất nhiều lần, do đó khả năng tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khi có
sự hỗ trợ của công cụ, phương tiện lao động là rất cao. Thời nguyên thuỷ, con người tận
dụng các sản phẩm sẵn có trong thiên nhiên như cành cây, hòn đá, mảnh xương thú làm
công cụ. Sau đó con người đã biết chế tác ra công cụ với những tính năng, tác dụng phù
hợp với từng công việc cụ thể và ngày càng tinh xảo. Ngày nay, nhiều công cụ, phương
tiện tự động đã thay thế cho lao động của con người. Con người không chỉ tạo ra các
công cụ, phương tiện để hỗ trợ, thay thế cho hoạt động cơ bắp, mà còn hỗ trợ, thay thế
cho cả hoạt động trí óc của mình. Công cụ, phương tiện lao động là sản phẩm do con

người tạo ra do đó nó chứa đựng giá trị sức lao động. Tuy nhiên trong khi giá trị của các
sản phẩm tiêu dùng bị tiêu hao dần trong quá trình sử dụng thì giá trị của các công cụ,
các phương tiện lao động lại không mất đi mà được chuyển hoá vào trong các sản phẩm
mới được tạo ra trên các công cụ, phương tiện đó. Sự ra đời của các công cụ, phương
tiện lao động là kết quả của các quá trình tìm tòi, nghiên cứu, là sự vận dụng, tập hợp
của nhiều sự hiểu biết trong các lĩnh vực khác nhau và những quá trình lao động. Giá
trị của các công cụ và phương tiện lao động không chỉ chứa đựng giá trị sức lao động
của người sáng tạo tạo ra chúng, mà còn chứa đựng giá trị tri thức và các giá trị khác.
Sự chuyển hoá giá trị công cụ lao động thành giá trị sức lao động là sự chuyển hoá giá
trị sức lao động của người sáng tạo ra công cụ hay phương tiện. Thực chất, công cụ hay
phương tiện đã làm thay phần công việc của những người đã tạo ra chúng. Một người
sáng chế ra một công cụ giúp tạo ra được nhiều sản phẩm hơn mà người trực tiếp sản
xuất không phải hao phí thêm thời gian và sức lực thì phần tăng năng suất lao động là
giá trị sức lao động của những người đã sáng tạo ra công cụ và xa hơn, là những người
đã tạo nên những cơ sở cho sự sáng tạo. Giá trị của công cụ, phương tiện được chuyển
hoá trong mối quan hệ với sức lao động của người sử dụng chúng. Giá trị của công cụ
lao động trong sản phẩm là giá trị lao động được Mác xác định là lao động quá khứ, nó
là giá trị sức lao động quá khứ.
Giá trị tri thức
Sự xuất hiện của tiếng nói và phát minh ra chữ viết là những sự kiện đặc biệt trong lịch
sử nhân loại. Sự tiến hoá của loài người, sự phát triển và tiến bộ của xã hội gắn liền với
sự ra đời của tiếng nói và thực sự có bước tiến dài khi xuất hiện chữ viết. Tiếng nói làm
cho việc giao tiếp của loài người thay đổi căn bản về chất, khả năng giao tiếp tăng lên
rất nhiều. Sự giao tiếp dễ dàng nhờ tiếng nói không chỉ giúp cho mỗi người nâng được
17/79
việc nhận thức mà quan trọng hơn, đó là giúp cho con người nâng được sức mạnh của
mình lên được nhiều lần nhờ việc hợp tác và hợp đồng trong thực hiện các hoạt động
sống. Với bản tính tò mò, con người luôn muốn tìm hiểu mọi sự vật, mọi sự việc, mọi
quá trình diễn ra xung quanh, diễn ra trong cuộc sống của mình. Thông qua tiếng nói,
con người lại chuyển tải được những sự hiểu biết của mình cho người khác. Việc trao

đổi sự hiểu biết giúp cho nhận thức của mỗi người tăng lên rất nhiều mà họ không cần
phải trực tiếp tìm hiểu, khám phá. Sự hiểu biết sâu sắc dần đã trở thành tri thức. Ngoài
sự giao tiếp, trao đổi bằng tiếng nói, loài người còn tìm ra, sử dụng và phát triển nhiều
hình thức giao tiếp khác như tín hiệu, ký hiệu, báo hiệu bằng âm thanh, ánh sáng Đỉnh
cao của những hình thức này là chữ viết. Chữ viết là một loại ký hiệu giúp con người
ghi lại sự hiểu biết, ghi lại suy nghĩ, và nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ
gìn, phát triển và truyền lại mọi sự hiểu biết, mọi vấn đề liên quan đến sự sống từ đời
này sang đời khác. Vai trò này của chữ viết vượt trội hơn hẳn tiếng nói. Chính nhờ chữ
viết mà kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng phong phú và đồ sộ. Tri thức của con
người càng rộng lớn, càng sâu sắc thì mọi nhu cầu của con người ngày dễ được đáp ứng,
cuộc sống của con người ngày càng phát triển, ngày càng văn minh. Tri thức là một loại
giá trị đặc biệt của con người, do con người tạo ra bằng sức lao động, nó là giá trị sức
lao động. Nhưng nó không phải là sản phẩm dành cho tiêu dùng mà là sản phẩm dành
cho nhu cầu nhận thức. Giá trị của nó là giá trị tiềm tàng. Nó được chuyển hoá thành
giá trị sức lao động khi người lao động tiếp thu nó và dựa vào nó để lao động tạo ra sản
phẩm mới. Nói cụ thể hơn, giá trị sức lao động mới được tạo ra khi lao động sử dụng tri
thức là giá trị bao gồm giá trị của sức lao động mới và giá trị của sức lao động cũ (lao
động quá khứ). Giá trị sức lao động trong tri thức là giá trị được tái tạo. Vì vậy nó là
giá trị lớn khi tri thức được phổ biến rộng rãi và được áp dụng nhiều lần, áp dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Giá trị này càng lớn khi tri thức dùng để tạo ra
các sản phẩm tri thức mới. Có thể nói rằng giá trị sức lao động trong các tri thức dùng
để tạo các tri thức mới là giá trị có thể được phát huy theo cấp số nhân. Những tri thức
đúng đắn sẽ trường tồn và tạo ra những giá trị rất lớn cho loài người. Tri thức là một
nguồn tài nguyên do chính con người tạo ra. Biết khai thác và khai thác một cách hợp
lý nguồn tài nguyên này loài người sẽ không chỉ làm gia tăng giá trị xã hội mà còn làm
phong phú thêm cho kho tàng tri thức của mình.
Giá trị tài nguyên thiên nhiên
Con người và các loài sinh vật đều sống dựa vào thiên nhiên. Loài người khai thác tài
nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu sống của mình. Nhu cầu của con người rất
đa dạng và tuỳ theo nhu cầu mà con người khai thác và sử dụng loại tài nguyên tương

ứng. Giá trị tài nguyên được định giá ở hai dạng : giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của
tài nguyên thường được xác định dựa trên chi phí khai thác, giá trị sử dụng và nhu cầu
của con người cho nên thường bất ổn. Sự bất ổn của giá trị tài nguyên kéo theo sự bất
ổn của giá trị sức lao động khai thác, chế biến tài nguyên. Trong điều kiện thuận lợi, sự
hao phí sức lao động không cao vẫn có thể thu được nhiều nguồn lợi từ tài nguyên thiên
nhiên, còn trong trường hợp bất lợi thì có khi sức lao động bỏ ra rất nhiều nhưng không
18/79
thu được kết quả. Giá trị sức lao động trong những trường hợp này là bằng không. Giá
trị sức lao động của người lao động khi họ khai thác thiên nhiên là giá trị tài nguyên
thiên nhiên mà họ khai thác được. Một nhà khoa học tạo ra một giống cây trồng mới
cho năng xuất rất cao so với giống cũ trong cùng một điều kiện canh tác. Phần năng suất
gia tăng chính là giá trị sức lao động của nhà khoa học. Nhưng giống cây mới này làm
cho đất rất nhanh bị bạc màu, có nghĩa là giống cây mới chỉ có tác dụng làm tăng tốc
độ khai thác giá trị của đất. Mà phần giá trị khai thác tăng thêm này như trên đây đã xác
định đó là giá trị sức lao động. Như vậy bản chất giá trị sức lao động của nhà khoa học
trong trường hợp này là giá trị tài nguyên chuyển hoá thành. Giá trị này bị suy giảm dần
theo tốc độ bạc màu của đất. Giá trị tài nguyên thiên nhiên là đa dạng, vì vậy cũng có
nhiều phương thức chuyển hoá thành giá trị sức lao động và tất nhiên không phải mọi
giá trị tài nguyên đều có thể chuyển hoá thành giá trị sức lao động. Khi con người gán
giá trị cho một tài nguyên và trả giá cho giá trị đó bằng giá trị sức lao động của mình là
con người đã thực hiện việc chuyển hoá ngược từ giá trị sức lao động thành giá trị tài
nguyên thiên nhiên.
Giá trị văn hoá xã hội
Các giá trị văn hoá xã hội do con người tạo ra từ sự giao thoa của các tư tưởng hay ý
thức hệ. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi quốc gia có một nền văn hoá. Trong môi trường
giao lưu văn hoá rộng rãi thì các nền văn hoá lại tiếp tục có những sự giao thoa mới
làm phong phú thêm hoặc làm mất đi một số giá trị văn hoá. Trong các giá trị văn hoá
thì cũng có các giá trị mang tính trường tồn, cũng có những giá trị bị mai một dần, có
những giá trị mới được hình thành nhưng không phù hợp sẽ bị đào thải. Các giá trị văn
hoá giúp hình thành nhân cách, nếp sống, nếp suy nghĩ, thái độ và phong cách làm việc,

giao tiếp v.v Vì vậy các giá trị văn hoá cũng tham gia vào sự hình thành các giá trị mới
thông qua sức lao động và chuyển hoá thành giá trị sức lao động của từng cá nhân. Sự
chuyển hoá các giá trị văn hoá xã hội thành giá trị sức lao động thể hiện ở những dạng
sau.
Các di sản văn hoá
Các di sản văn hoá của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc do thiên nhiên ban tặng hay do các
thế hệ đi trước tạo ra có một tính chất giống như những liều thuốc kích thích tác động lên
hệ thần kinh của người lao động. Khi tiếp xúc với một di sản văn hoá và có những hiểu
biết nào đó về di sản văn hoá và mình đang chiêm ngưỡng, trong mỗi con người không
chỉ trào dâng cảm xúc, mà ý thức con người được nâng lên cao hơn. Điều này càng đậm
nét khi những di sản đó do các thế hệ cha ông của người lao động tạo ra. Những cảm
xúc đó, những ý thức đó kích thích tinh thần làm việc của người lao động và giúp họ
nâng cao giá trị sức lao động. Giá trị văn hoá được chuyển hoá thành giá trị sức lao động
là đại lượng khó được lượng hoá và thậm trí khó được nhận thấy. Vì vậy chúng thường
không được chú ý đến trong lao động.
19/79
Các kiến thức, kinh nghiệm dân gian
Các kiến thức, kinh nghiệm dân gian là những tri thức không thành văn của loài người.
Chúng là tri thức và đặc biệt hơn ở chỗ chúng là những tri thức rất thiết thực và cụ thể
cho từng người lao động. Các kiến thức, các kinh nghiệm dân gian do con người tạo
ra, có thể là từ một người, nhưng thông thường, chúng là sự tổng hợp, đúc kết từ nhiều
người, nhiều thế hệ. Vì vậy chúng không còn mang tính sở hữu cá nhân mà mang tính xã
hội và là giá trị xã hội. Quá trình người lao động sử dụng các kiến thức, các kinh nghiệm
đó trong lao động là quá trình chuyển hoá giá trị xã hội thành giá trị sức lao động. Các
kiến thức, kinh nghiệm dân gian do được lưu truyền qua các thế hệ nên chúng tạo nên
các nét văn hoá, chúng là thành phần của truyền thống văn hoá của mỗi cộng đồng, mỗi
dân tộc. Chuyển hoá các kiến thức, các kinh nghiệm dân gia vào trong mỗi sản phẩm
hiện tại không chỉ là khai thác các giá trị của nền văn hoá, mà còn là giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hoá.
Khi xã hội loài người phát triển, sự lao động của mỗi cá nhân trong xã hội không còn

là độc lập và không thể không dựa vào tri thức thì việc thực hiện và phát huy các giá trị
sức lao động không còn là của mỗi cá nhân. Giá trị sức lao động được thực hiện trong
mối quan hệ lao động phức tạp, có nhiều lớp giá trị sức lao động trong một sức lao động
mới và cũng có nhiều giá trị mặc dù có thể rất lớn nhưng chỉ được thực hiện qua nhiều
lần tái tạo. Có những giá trị dễ được xác định như giá trị thời gian, giá trị của sự hao tổn
sức lực. Nhưng cũng có những giá trị khó xác định hoặc không xác định được ngay như
những giá trị của lao động khám phá, phát minh, lao động xây dựng học thuyết và hệ
tư tưởng. Định giá được đúng đắn giá trị sức lao động là định giá giá trị của mỗi người
trong xã hội, ghi nhận được sự đóng góp của họ vào sự phát triển của loài người
20/79
Định giá giá trị sức lao động
Sự xuất hiện phân công và chuyên môn hoá lao động trong xã hội loài người làm xuất
hiện việc trao đổi các sản phẩm của lao động. Ban đầu, sự trao đổi được thực hiện nhằm
mục đích đáp ứng nhu cầu, người có dư sản phẩm này sẽ đem trao đổi với người có dư
sản phẩm khác mà mình không có. Hình thức trao đổi là một đổi một. Dần dần, xuất
hiện nhiều hình thức trao đổi khác như trao đổi bằng sự tương đương về khối lượng hay
tương đương về kích thước. Sự trao đổi tương đương làm xuất hiện khả năng trao đổi
qua vật trung gian. Sự trao đổi thông qua vật trung gian đã giải quyết được những khó
khăn của người có nhu cầu nhưng chưa có vật đem trao đổi và giúp cho những người có
dư các sản phẩm khó bảo quản đổi lấy các vật có khả năng chuyển đổi dễ bảo quản hơn.
Vật trung gian ban đầu là hạt cây hoặc vỏ sò, vỏ ốc Sự tương đương giữa vật trung
gian với các sản phẩm được quy ước trong một nhóm hay một cộng đồng người. Sau đó
lan rộng sang các cộng đồng khác. Sự trao đổi ngày càng rộng rãi, số lượng sản phẩm
đem trao đổi ngày càng nhiều đòi hỏi phải có những vật trung gian có tính ổn định cao,
dễ bảo quản và có thể vận chuyển dễ dàng. Những vật trung gian này được chọn lọc dần
từ những vật sẵn có trong tự nhiên đến việc sử dụng những miếng kim loại được đúc
theo những hình dạng và kích thước nhất định. Mỗi miếng kim loại này được quy ước
tương đương với một phần hay một số sản phẩm nào đó. Sự quy ước này chính là sự
định giá cho vật trung gian và loại sản phẩm trung gian có khả năng trao đổi với tất cả
các sản phẩm trong xã hội trở thành tiền tệ. Sự ra đời của tiền tệ đã làm thay đổi hẳn về

chất của quá trình trao đổi sản phẩm. Các sản phẩm đem trao đổi đã trở thành hàng hoá.
Sự trao đổi đã trở thành sự mua bán. Người ta đem hàng hoá đổi lấy tiền tệ và đem tiền
tệ đổi lấy hàng hoá. Tiền tệ được gán các giá trị và trở thành thước đo giá trị sản phẩm
hay hàng hoá. Tiền tệ đã và đang giữ một vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế và
phát triển xã hội. Tiền tệ ra đời là một tất yếu của lịch sử.
Hàng hoá và các sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu của con người do con người tạo ra,
chúng là kết quả từ sức lao động của con người, vì vậy chúng mang giá trị của sức lao
động. Việc định giá sản phẩm, hàng hoá là việc xác định giá trị của các yếu tố cấu thành
hoặc có tác động tạo ra các sản phẩm, hàng hoá đó. Sức lao động là một trong các yếu tố
đó. Trả giá cho hàng hoá là trả giá cho các yếu tố nói trên. Sức lao động được định giá
và được trả tiền có nghĩa là sức lao động cũng được coi là một loại hàng hoá. Nhưng sức
lao động chỉ thực sự được coi là hàng hoá khi nó được giải phóng. Sự giải phóng sức lao
động đã cho phép tập trung sức lao động cho việc sản xuất những loại hàng hoá đang có
nhu cầu lớn trong xã hội. Điều này làm cho nhu cầu của mọi người nhanh chóng được
đáp ứng và thoả mãn. Nhu cầu được đáp ứng đầy đủ cũng có nghĩa là cuộc sống của con
người được nâng lên. Nhưng sự đáp ứng đầy đủ cho mọi người hay chỉ cho một số ít
người trong một cộng đồng hoặc trong toàn xã hội còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
có việc xác định giá trị sức lao động và định giá sức lao động. Giá trị sức lao động là
cơ sở cho việc định giá sức lao động. Xác định sai giá trị sức lao động sẽ dẫn đến định
21/79
giá sai sức lao động. Xác định sai giá trị sức lao động sẽ dẫn đến tình trạng thu nhập
của người lao động không tương ứng với giá trị sức lao động của họ. Ưu điểm của việc
giải phóng sức lao động là xã hội có thể tập trung sức lao động cho những cộng việc cần
thiết hoặc tập trung sản xuất nhiều sản phẩm cần thiết trong thời gian ngắn, nhưng mặt
trái của nó là làm cho người lao động không gắn bó chặt chẽ với tư liệu sản xuất, không
còn sở hữu tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động để có thu nhập. Chính vì vậy họ
ở thế bất lợi trong việc định giá sức lao động của họ. Khi đã ở thế bất lợi thì thường
phải nhận phần thua thiệt. Thu nhập của người ở thế bất lợi thường thấp hơn giá trị sức
lao động của họ. Khi thu nhập là thấp thì người lao động khó cải thiện được cuộc sống
của mình. Những người có giá trị lao động thấp ( hay trình độ lao động thấp ) còn lâm

vào thế bất lợi nữa là khó tìm được việc làm hoặc bị thất nghiệp. Việc tạo ra nhiều sản
phẩm đáp ứng cho nhu cầu xã hội trở nên vô nghĩa khi những người lao động là số đông
trong xã hội không đủ khả năng trả tiền cho những sản phẩm đó. Khi sức lao động trở
thành hàng hoá thì nó được định giá và trả giá. Vấn đề đặt ra là định giá sức lao động
như thế nào. Trong thực tế, sức lao động có khả năng chuyển hoá hay chứa đựng những
giá trị sức lao động khác nhau. Do đó cần có những cách nhìn nhận, cách định giá phù
hợp. Sự phù hợp ở đây là sự phù hợp giữa giá trị và sức lao động. Có sự định giá đúng
giá trị sức lao động thì mới có thể định giá đúng sức lao động. Định giá và trả tiền sức
lao động thấp hơn giá trị sức lao động, xét trong một số khía cạnh nào đó, là sự bóc lột.
Ngược lại, nếu định giá trị sức lao động cao hơn giá trị thực thì sẽ có một phần giá trị
sức lao động từ chỗ khác chuyển đến để bù cho phần chênh lệch do sự định giá cao này
tạo ra. Sự dịch chuyển giá trị này có thể từ việc định giá thấp một hoặc nhiều sức lao
động khác. Sự bóc lột sẽ được nghiên cứu ở một chương khác. Chương này nghiên cứu
về vấn đề định giá giá trị sức lao động.
Giá trị sức lao động là mức độ đáp ứng nhu cầu sử dụng và hưởng thụ của mọi cá nhân
trong xã hội của sức lao động. Còn định giá giá trị sức lao động hay định giá sức lao
động là việc xác định mức độ thoả mãn nhu cầu đó. Giá trị sức lao động là cơ sở cho
việc định giá sức lao động. Nhưng do sự biến động của nhu cầu mà sự định giá giá trị
sức lao động không phải luôn luôn phù hợp với giá trị của sức lao động. Đây là vấn đề
quy luật bởi sức lao động và giá trị sức lao động không thay đổi khi tạo ra sản phẩm (
nếu không có sự thay đổi nào về phương pháp tạo ra sản phẩm ), người thụ hưởng được
hưởng đầy đủ giá trị ( giá trị sử dụng và giá trị hưởng thụ ) của sản phẩm, nhưng khi
lượng sản phẩm được tạo ra đạt mức bão hoà thì giá cả xuất hiện xu hướng giảm. Sự
giảm giá này kéo theo việc định giá thấp sức lao động hay sức lao động bị giảm giá, giá
trị sức lao động bị định giá thấp. Giá trị sức lao động nằm trong tổng giá trị sản phẩm
được tạo ra. Còn định giá giá trị sức lao động nhằm hai mục đích : xác định lượng giá
trị sức lao động cần cho việc tạo ra lượng sản phẩm mới và xác định lượng giá trị sức
lao động được thực hiện trong các sản phẩm đã được tạo ra. Vì vậy sức lao động và nhu
cầu xã hội có quan hệ với nhau thông qua giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động được
định giá cao hay thấp thể hiện mối quan hệ giữa nhu cầu và sức lao động là cấp thiết

hay không cấp thiết. Nhu cầu cao đòi hỏi lượng giá trị sức lao động tương ứng. Giá trị
của mỗi sức lao động được xác định bằng tỷ lệ giữa lượng giá trị cần thiết với số sức
22/79
lao động. Số liệu này trong thực tế thường không trùng với số liệu về giá trị mà sức lao
động có khả năng tạo ra. Cách xác định giá trị sức lao động kiểu này thường được sử
dụng để hạ giá sức lao động trong những trường hợp số lượng sức lao động cao hơn yêu
cầu.
Định giá giá trị sức lao động trong thực tế là một vấn đề gặp nhiều khó khăn bởi có
nhiều yếu tố tác động đến việc định giá. Giá trị sức lao động được thực hiện thông qua
sức lao động. Nhưng quan hệ giữa giá trị sức lao động và sức lao động không phải là
một quan hệ tuyến tính. Trong một sức lao động có thể có nhiều lớp giá trị sức lao động.
Mặt khác giá trị sức lao động cũng là giá trị nên nó cũng tuân theo quy luật giá trị. Sức
lao động được định giá cao hay giá trị sức lao động cao khi nó đáp ứng nhu cầu xã hội
đang tăng cao, nó sẽ giảm hoặc không còn giá trị khi nhu cầu đã được thoả mãn. Nhưng
như vậy không có nghĩa là không thể và không thực hiện việc định giá giá trị sức lao
động bởi có như vậy mới động viên được sức lao động và phát huy giá trị sức lao động.
Giá trị sức lao động phải được định giá trong mối liên hệ tổng thể với các yếu tố có liên
quan.
Giá trị sức lao động gồm có các yếu tố cấu thành và các yếu tố ảnh hưởng. Trong chương
trước đã nêu một số yếu tố có khả năng tham gia cấu thành nên giá trị sức lao động và
mối quan hệ phức tạp giữa sức lao động và giá trị sức lao động. Các yếu tố cấu thành
không phải được chỉ ra là có thể được định một giá nhất định, mà chúng chịu tác động
của các yếu tố ảnh hưởng nên sự định giá chúng tại những thời điểm khác nhau, ở những
nơi khác nhau cũng không cố định. Điều này có nghĩa là giá trị sức lao động, khi chịu
sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng sẽ dễ bị định giá sai lệch( và cũng có thể đúng
đắn hơn). Vì vậy tuỳ theo từng loại hình lao động, tuỳ theo từng hoàn cảnh mà xây dựng
các tiêu chí, các phương pháp hiệu chỉnh để định giá. Sức lao động là đại lượng có thể
cân đo đong đếm được, nhưng giá trị sức lao động lại không hoàn toàn tính toán được
thông qua sức lao động bằng một công thức toán học. Những công việc lao động giản
đơn với sức lao động có giá trị nhỏ thì việc định giá giá trị sức lao động không gặp nhiều

khó khăn. Với những công việc phức tạp cần đến nhiều người có trình độ và ngành nghề
khác nhau tham gia thì xác định được giá trị sức lao động cho từng người trong đó là
không đơn giản. Định giá giá trị sức lao động cao hơn giá trị thực dễ gây ngộ nhận về
năng lực cá nhân và tình trạng thu nhập không hợp lý ( mặc dù có thể là hợp pháp ) cho
những người được định giá cao. Ngược lại, việc định giá thấp sẽ không khuyến khích
sức lao động và xuất hiện sự tước đoạt giá trị sức lao động. Nếu giá trị sức lao động đã
được thực hiện nhưng bị định giá thấp hơn giá trị thực một cách cố ý nhằm hạ thấp thu
nhập của người lao động so với giá trị sức lao động của họ thì có nghĩa là hành vi được
gọi là bóc lột đã xuất hiện. Vấn đề này sẽ được đề cập sâu hơn trong chương nói về sự
bóc lột. Định giá giá trị sức lao động là việc định giá tổng hợp các yếu tố cấu thành, các
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả định giá.
23/79

×