Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Các nhân tố chủ quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.25 KB, 39 trang )

Các nhân tố chủ quan
Cạnh tranh trong đấu thầu - Bài 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp (Tiếp theo)
Xem với cỡ chữ
Bài viết trước chúng ta đã nhận biết các công cụ cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng, để có cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong
đấu thầu đối với doanh nghiệp, trong bài viết này tác giả sẽ nêu ra những nhân tố
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh để các nhà thầu tham khảo.
Bài viết trước chúng ta đã nhận biết các công cụ cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng, để có cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong
đấu thầu đối với doanh nghiệp, trong bài viết này tác giả sẽ nêu ra những nhân tố
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh để các nhà thầu tham khảo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là điều kiện tiên
quyết quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường, để có được năng lực
cạnh tranh thì doanh nghiệp phải trải qua một quá trình xây dựng bộ máy tổ chức,
xây dựng chiến lược kinh doanh (trong đó bao gồm các chiến lược về sản phẩm, thị
trường, nhân lực, công nghệ, cạnh tranh). Việc tạo dựng môi trường bên trong và
thích ứng với môi trường bên ngoài tốt sẽ làm cơ sở cho vững chắc cho doanh
nghiệp hoạt động. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp có thể chia làm hai nhóm:
Nhóm các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong là các nhân tố phát sinh từ trong lòng doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến việc củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là:
Nguồn lực tài chính
Đây là nguồn lực quan trọng nhất và quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều là hoạt động đầu tư mang tính chất sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường sản
xuất kinh doanh hàng hóa, doanh nghiệp phải có vốn bằng tiền hay bằng nguồn lực
tài chính để thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh. Với nguồn lực tài
chính này doanh nghiệp sẽ chi cho các hoạt động như đầu tư mới, mua nguyên vật
liệu, trả lương cho công nhân.


Trong đấu thầu xây dựng năng lực tài chính được xét trên hai phương diện:
- Năng lực tài chính mạnh giúp doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ thi công, bảo
đảm chất lượng, tiến độ và tạo niềm tin cho chủ đầu tư đồng thời nâng cao uy tín,
thương hiệu của nhà thầu.
- Trong đấu thầu với khả năng tài chính mạnh sẽ được chủ đầu tư đánh giá cao vì
đối với các nguồn vốn không phải ngân sách nhà nước trong các hồ sơ mời thầu
chủ đầu tư thường yêu cầu nhà thầu tự ứng vốn trước thi công cho đến khi có khối
lượng nghiệm thu rồi mới thanh toán, do đó chỉ có những doanh nghiệp có năng
lực tài chính mạnh mới đáp ứng được. Mặt khác, với nguồn lực tài chính mạnh sẽ
cho phép doanh nghiệp quyết định ra giá bỏ thầu một cách sáng suốt và hợp lý.
Nguồn nhân lực
Ngày nay, tất cả chúng ta đều biết rằng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, then chốt,
có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp thì chủ đầu tư thường chú
trọng đến các vấn đề:
(i) Cán bộ quản trị cấp cao (ban giám đốc) là những người có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng chiến lược, điều hành và quản lý mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào các quyết định
của họ. Khi đánh giá bộ máy lãnh đạo chủ đầu tư thường quan tâm đến các tiêu
thức như kinh nghiệm lãnh đạo, trình độ quản lý doanh nghiệp, phẩm chất kinh
doanh và các mối quan hệ và xa hơn nữa là khả năng xây dựng một tập thể đoàn
kết, vững mạnh, thúc đẩy mọi người hết mình cho công việc. Điều này sẽ giúp
doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh, tăng thêm năng lực cạnh tranh.
(ii) Cán bộ quản trị cấp trung gian là những người đứng dưới quản trị viên cao cấp
và đứng trên quản trị viên cấp cơ sở. Ở vị trí này họ vừa quản trị các quản trị viên
cấp cơ sở thuộc quyền, vừa điều khiển các nhân viên khác. Chức năng của họ là
thực hiện các kế hoạch và chính sách của doanh nghiệp bằng cách phối hợp thực
hiện các công việc nhằm dẫn đến hoàn thành mục tiêu chung. Để đánh giá năng lực
trình độ của đội ngũ cán bộ cấp này chủ đầu tư thường xem xét trên các mặt:
+ Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, thâm niên nghề nghiệp, tác

phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và pháp luật.
+ Cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ qua đó cho biết
trình độ chuyên môn hoá và khả năng đa dạng hóa của doanh nghiệp. Thường thì
đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản trị và công nhân lành nghề có chuyên môn
về lĩnh vực chính của doanh nghiệp phải chiếm tỷ trọng ít nhất là 60%.
(iii) Các chuyên viên, đây là một trong những khác biệt so với các ngành khác. Họ
là những người không làm quản lý mà chỉ làm nhiệm vụ chuyên môn đơn thuần.
Đó là những kỹ sư, cử nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh
như lập dự toán, giám sát thi công và vai trò của họ cũng rất quan trọng. Chẳng hạn
như cá nhân người kỹ sư giám sát thi công có quyền quyết định mọi vấn đề trong
quá trình thi công một hạng mục mà họ được phân công, quyết định của họ có ảnh
hưởng đến tiến độ thi công công trình.
(iv) Cán bộ quản trị cấp cơ sở, công nhân là đội ngũ các nhà quản trị ở cấp cuối
cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị một doanh nghiệp. Thông thường
họ là những đốc công, tổ trưởng, trưởng ca. Nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đôn
đốc, điều khiển công nhân hoàn thành các công việc hàng ngày theo tiến độ kế
hoạch để đưa đến hoàn thành mục tiêu chung của cả doanh nghiệp. Đây là đội ngũ
quản trị viên lãnh đạo lực lượng lao động trực tiếp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
doanh nghiệp qua khía cạnh như chất lượng, tiến độ thi công. Và cuối cùng là là
đội ngũ lao động với trình độ tay nghề cao, có khả năng sáng tạo trong công việc,
họ chính là những người thực hiện những ý tưởng, chiến lược của các quản trị cấp
cao, tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
(v) Một vấn đề mà chủ đầu tư quan tâm là khả năng huy động lực lượng công nhân
kịp thời về số lượng và chất lượng để phục vụ cho quá trình thi công công trình.
Đây là việc rất khó vì khác với các ngành sản xuất khác trong ngành xây dựng, nhu
cầu sử dụng công nhân tuỳ thuộc vào tiến độ thi công, số lượng không ổn định, có
khi chỉ cần vài chục công nhân nhưng có khi phải huy động hàng trăm, thậm chí
hàng ngàn công nhân vào phục vụ dự án.
Hoạt động Marketing
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Marketing là một công cụ cạnh tranh đóng

vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, tăng doanh thu, hiệu quả của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu xây dựng được chiến lược marketing và biết
cách sử dụng nó trong những tình huống, thời điểm thích hợp thì sẽ giúp doanh
nghiệp đó giữ được ưu thế trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.
Trong lĩnh vực xây dựng, do đặc thù sản phẩm của các doanh nghiệp ngành này là
không thể đưa sản phẩm ra thị trường cho khách hàng lựa chọn như các ngành
công nghiệp khác được mà chủ yếu dựa vào danh tiếng, thương hiệu, chất lượng
của của những công trình đã thi công để khách hàng xem xét và tìm đến yêu cầu
sản xuất sản phẩm. Sự cạnh tranh trực tiếp giữa các doanh nghiệp xây dựng chủ
yếu là sự so sánh về thành tích, về thương hiệu. Thành tích và thương hiệu của
doanh nghiệp càng lớn thì khả năng trúng thầu của doanh nghiệp càng cao. Do đó
trước khi đấu thầu cần phải làm tốt công tác quảng cáo, tiếp thị để nâng cao mức
độ tin cậy của chủ đầu tư với doanh nghiệp, từ đó góp phần vào việc nâng cao khả
năng trúng thầu.
Khả năng liên danh, liên kết
Khả năng liên danh, liên kết là sự kết hợp giữa hai hay nhiều pháp nhân kinh tế để
tạo thành một pháp nhân mới nhằm tăng sức mạnh tổng hợp về năng lực kinh
nghiệm, tài chính và thiết bị công nghệ, giúp doanh nghiệp phát huy điểm mạnh,
khắc phục điểm yếu nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với những dự án, công trình có quy mô lớn, những yêu cầu kỹ thuật đôi khi
vượt quá khả năng của doanh nghiệp thì để tăng khả năng trúng thầu các doanh
nghiệp thường liên danh, liên kết với nhau để tăng năng lực của mình trên thị
trường. Đây là một trong những giải pháp quan trọng và phù hợp nhất, qua đó
doanh nghiệp có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về công nghệ, mức độ phức
tạp cũng như quy mô của công trình, của dự án .
Trình độ và công tác tổ chức lập hồ sơ dự thầu
Đây là công việc hết sức quan trọng vì khả năng cạnh tranh trong đấu thầu phụ
thuộc trực tiếp vào trình độ lập hồ sơ dự thầu. Nhà thầu có thể bị loại ngay từ vòng
đầu do hồ sơ không đảm bảo yêu cầu. Do đó chất lượng hồ sơ thầu là một trong
những tiêu chí cơ bản quyết định nhà thầu có trúng hay không. Việc tổ chức lập hồ

sơ dự thầu đòi hỏi phải trải qua các bước sau:
Trước tiên là nghiên cứu hồ sơ mời thầu, đây là bước quan trọng nhất quyết định
sự thành công hay thất bại của nhà thầu khi tham gia đấu thầu, vì vậy công việc
này đòi hỏi phải tiến hành một cách tỷ mỷ, nghiêm túc, đầy đủ các nội dung trong
hồ sơ mời thầu. Yêu cầu phải nắm được tính chất, quy mô, phạm vi đấu thầu, mức
độ phức tạp về kỹ thuật, các yêu cầu về tiến độ thi công, thời hạn hoàn thành,
nguồn vốn đầu tư, phương thức thanh toán, các thông tin về cơ quan tư vấn, giám
sát,
Đồng thời tiến hành tìm hiểu môi trường đấu thầu, khảo sát hiện trạng mặt bằng thi
công, lập phương án thi công, xây dựng giá dự thầu. Việc tìm hiểu môi trường đấu
thầu bao gồm việc tìm hiểu các điều kiện về thi công, vị trí địa lý, điều kiện địa
hình địa chất, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điều kiện cung ứng vật tư,
nguyên liệu, giá cả thị trường, khả năng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, lao động
phổ thông, khả năng về cung cấp lương thực, thực phẩm, môi trường thiên nhiên
và các điều kiện kinh tế xã hội của dự án những điều kiện này ảnh hưởng trực
tiếp đến phương án thi công và giá thành công trình. Vì thời gian chuẩn bị hồ sơ dự
thầu rất ngắn nên để khảo sát và xử lý hàng loạt số liệu, thông tin nói trên đòi hỏi
nhà thầu phải có một đội ngũ cán bộ lập hồ sơ dự thầu có trình độ chuyên môn, có
kinh nghiệm và am hiểu kỹ càng tất cả các lĩnh vực.
Công việc cuối cùng, sau khi tiến hành điều tra, khảo sát, xử lý tất cả các vấn đề có
liên quan là công tác xác định giá dự thầu, đây là công việc quan trọng, phức tạp
quyết định đến việc trúng thầu, do đó công việc này đòi hỏi phải do một bộ phận
chuyên nghiệp thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng và kịp thời của các
bộ phận chuyên môn khác.
Nhóm các nhân tố bên ngoài
Cùng với các nhân tố bên trong như đã phân tích ở phần trên, thì các yếu tố bên
ngoài cũng có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các
nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp rất nhiều,
nhưng trong khuôn khổ bài viết này chỉ xét những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp,
đó là các nhân tố sau:

Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm luật và các văn bản dưới luật. Luật gồm có luật trong
nước và luật quốc tế, các văn bản dưới luật cũng vậy, có những quy định do Chính
phủ Việt Nam ban hành, có những quy định do các tổ chức quốc tế (WTO, AFTA,
ASEAN) ban hành mà các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hội nhập và
toàn cầu hoá phải tuân theo. Mọi quy định và luật lệ trong hợp tác kinh doanh quốc
tế đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, nó tác động trực
tiếp đến mọi phương diện như tín dụng, thuế, chống độc quyền, bảo hộ, ưu đãi, bảo
vệ môi trường, những chính sách này khi tác động lên nền kinh tế sẽ ra cơ hội cho
doanh nghiệp này nhưng đồng thời cũng sẽ tăng nguy cơ cho doanh nghiệp khác.
Sự ổn định của môi trường pháp lý cũng như sự ổn định chính trị sẽ là một nhân tố
thuận lợi tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, làm tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp đồng thời góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia.
Ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn khi phải đối diện với những
thay đổi liên tục của pháp luật, dẫn đến suy yếu năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chủ đầu tư
Chủ đầu tư (hay còn gọi là bên mời thầu) là người sở hữu vốn hoặc được giao trách
nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án. Vì
vậy có thể xem chủ đầu tư là cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện các vấn đề liên
quan đến dự án trước pháp luật, là người trực tiếp quyết định và lựa chọn hồ sơ dự
thầu của doanh nghiệp. Do vậy, chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh
nghiệp tham gia đấu thầu xây dựng.
Theo Luật đấu thầu thì bên mời thầu có quyền lựa chọn nhà thầu trúng hoặc huỷ bỏ
kết quả lựa chọn theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Việc bên mời thầu tự
thực hiện hay lựa chọn tư vấn lập hồ sơ mời thầu, chọn tư vấn đánh giá hồ sơ dự
thầu có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Họ có thể
đưa ra những yêu cầu mà chỉ có một vài doanh nghiệp định trước mới thắng thầu
được.
Trong quá trình đấu thầu, bên mời thầu có quyền yêu cầu các các bên dự thầu cung

cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc lựa chọn nhà thầu. Nếu bên mời thầu
có tinh thần trách nhiệm cao, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt sẽ tạo nên cạnh
tranh lành mạnh trong đấu thầu và từ đó sẽ lựa chọn ra được nhà thầu tốt nhất,
ngược lại dễ tạo ra sự quan liêu, tiêu cực trong đấu thầu.
Các đối thủ cạnh tranh
Khi doanh nghiệp tham gia dự thầu cũng có nghĩa là doanh nghiệp phải tham gia
vào cuộc cạnh tranh công khai trên thị trường, trong đó các đối thủ cạnh tranh là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến khả năng trúng thầu của doanh nghiệp. Mức
độ cạnh tranh quyết liệt hay không phụ thuộc vào năng lực và số lượng nhà thầu
tham gia. Để giành chiến thắng thì doanh nghiệp bắt buộc phải vượt qua được tất
cả các đối thủ trong tham dự cuộc đấu thầu, muốn vậy doanh nghiệp phải đảm bảo
có năng lực vượt trội hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh. Do đó, yêu cầu doanh nghiệp
phải coi trọng công tác thu thập thông tin và tiến hành nghiên cứu các đối thủ cạnh
tranh trong quá trình đấu thầu, tìm hiểu điểm mạnh, điểm yếu để có biện pháp đối
phó.
Các nhà cung cấp vật tư
Cuối cùng một nhân tố nữa có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong đấu thầu xây dựng cần phải đề cập đó là các nhà cung ứng vật tư,
thiết bị. Trong thời đại của sự phân công lao động và chuyên môn hóa cao thì
không có một doanh nghiệp nào có thể tự lo cho mình các đầu vào được. Để kinh
doanh đạt hiệu quả thì doanh nghiệp phải tìm mua các vật tư đầu vào từ bên ngoài
với điều kiện là người cung ứng phải giao hàng đúng hẹn, đúng chủng loại, đảm
bảo yêu cầu về chất lượng và giá cả phải ổn định trong thời gian dài. Nếu các nhà
cung cấp tăng giá hoặc giao vật liệu kém phẩm chất thì chất lượng và giá thành
công trình sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến lợi nhuận và uy tín của doanh nghiệp sẽ giảm,
điều này đồng nghĩa với việc năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút
và cơ hội thắng thầu cũng giảm đi.
Vì vậy, để việc cung cấp vật tư, nguyên liệu đúng hạn và đảm bảo yêu cầu chất
lượng thì doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn nhà cung cấp một cách cẩn
thận. Tức là phải điều tra các điều kiện và hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà

cung cấp đó có phù hợp với mình hay không, mặt khác không ngừng củng cố mối
quan hệ tốt đẹp với các nhà cung ứng, cùng nhau giải quyết những khó khăn trong
quá trình thực hiện hợp đồng, tạo niềm tin cho nhau. Ngoài ra, nếu có điều kiện các
doanh nghiệp xây dựng đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng
như gạch, đá, xi măng như vậy doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong quá trình thi
công và hiệu quả mang lại sẽ lớn hơn.
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự
tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ chính bản thân doanh
nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào bản
thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác của môi
trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố
cơ bản sau.
- Môi trường vĩ mô.
- Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter.
- doanh nghiệp,.
Môi trường vĩ mô.
Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động. Môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh hưởng
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng thể các
nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhan tố xã hội ,
nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố này tác động và chi phối mạnh
mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội hoặc
thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về các
nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những biến
động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này cần
được coi trọng.
Nhân tố kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất
trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo

đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một
tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền
kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội
tố cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không
ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với
những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp
nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt
động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế
bị suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân
giảm sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách
hàng, lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị
trường lại càng trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái
cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Nhân tố chính trị và pháp luật.
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp
nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật
là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay
nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát
triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến
hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống
pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn
định là môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng
của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế Các doanh nghiệp
này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự

khác biệt này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
những đièu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến
lược phát triển, loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường
pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả năng cạnh tranh.
Nhân tố xã hội :
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi
khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà bất cứ doanh
nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có muốn sống
hay không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.
-Lối sống, phong tục, tập quán.
-Thái độ tiêu dùng.
-Trình độ dân trí.
-Ngôn ngữ.
-Tôn giáo.
-Thẩm mỹ
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản phẩm,
dịch vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu muốn tồn
tại trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng đề cao sản
phẩm nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng
cạnh tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn
đến việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó
có được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có
đủ khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh
nghiệp phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như
thị trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được
những giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhân tố tự nhiên.

Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm
công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay
các trục đường giao thông quan trọng sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát
triển, giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng
phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực
có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết định và
các biên pháp hoạt động liên quan.
Nhân tố công nghệ.
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất
ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết
định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh
nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách
chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát
thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối
thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị
trường doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền
đề cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường
cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận.
Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh, người mua,
người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố thuộc
mô hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh

giữa các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như các cơ hội và thách
thức mà doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp phải.

Đối thủ cạnh tranh.
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng" Do đó
doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh.
Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để
giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số
lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được
những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Khách hàng .
Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh nghiệp bất
cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng luôn luôn đúng
nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách hàng mua sản phẩm
của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của
ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch
vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp
kia.
Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường hợp sau.
Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường về sản phẩm
nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả.
Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của người mua.
Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người mua thì gía cả là
một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ mua với giá có lợi và sẽ
chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp.
Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp đầy đủ về
thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng của sản phẩm thì

họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị trường với nhau họ sẽ
có xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp vì họ không thể đánh giá
cũng như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất.
Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc khách
hàng với người bán nhất định.
Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc mua bán của
mình.
Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành người cung cấp
cho chính mình.
Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị trường hiện
hành và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ càng lớn.
Nhà cung cấp.
Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ
có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà
cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng họ có thể tạo ra sức ép lên
doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung
cấp Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng
sản phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp.
Đối thủ tiềm năng.
Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngành
doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay
thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ
có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng lên các hàng
rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh tièem năng.
Sức ép của sản phẩm thay thế.
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức
giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.

Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn
đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để phát
triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
Doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện
có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực
tài chính tổ chức, kinh nghiệm.
Nguồn nhân lực.
Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người
ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công
của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những
gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho
doanh nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là những thứ vô
cùng quý giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành
thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các
đối thủ cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm,
trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết sẽ đem lại cho doanh nghiệp
không chỉ là lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của
doanh nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát
triển và trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị
trường.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự đồng bộ này
không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ
những nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng hợp riêng thu
được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý
thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng
suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Nguồn lực vất chất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù
hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản
xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một cơ sở vật chất tốt ,
chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản
phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả năng chiến thắng trong cạnh
tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có
khả năng cạnh tranh cao khi mà công nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ
kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có
thể là:
- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ mối tác
động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
- Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng .
- Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc đảm bảo cho
sản xuất được liên tục, ổn định.
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai,
nhà cửa, lao động, ) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng.
Nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng
như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân phối,
quảng cáo cho sản phẩm đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính
của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng
trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có một hoạt động đầu tư mua
saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của
doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng
trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành
sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh
mẽ nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh,
doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành

sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu
lợi nhuận nhiều hơn.
Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.
Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có
phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ
dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách
hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các
nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu
động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập
sẽ có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn
tự có có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần lợi nhuận được
để lại từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được
huy động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài
chính cần thiết , doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính
được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ
cạnh tranh .
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng
mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
Tổ chức.
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn các công
việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm
của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ
chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược
hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các
thành viên trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng
động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác.
Kinh nghiệm.
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu

trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản
xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều sản phẩm tiết kiệm được
nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành
công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh
nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm
của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận
Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Thứ tư, 31 Tháng 8 2011 09:13 Email In PDF.
inShare
Bài viết của TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao đề cập một số khía cạnh về
lý luận và thực tiễn của khái niệm hội nhập quốc tế, tập trung vào vấn đề định
nghĩa và xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập quốc
tế; phân tích tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của
thế giới hiện đại.

Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới
nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp
đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh
mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế
là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với hầu
hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố, thậm chí
cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông dụng. Tuy vậy, nhưng
không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ
và ngọn nghành thì chẳng có mấy người. Giới học thuật và những nhà hoạch định
chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía
cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội

nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác
định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội
nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến
lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.
Để đóng góp vào cuộc thảo luận nói trên, bài viết này đề cập một số khía cạnh về
lý luận và thực tiễn của khái niệm hội nhập quốc tế, tập trung vào vấn đề định
nghĩa và xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập quốc
tế; phân tích tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của
thế giới hiện đại.
1. Định nghĩa khái niệm hội nhập quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước
ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực
chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu
Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự
hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến
tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm
“hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng hội
nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là
sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để đánh giá
sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các khía cạnh
luật định và thể chế[1].
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch[2] là trụ cột, xem hội nhập trước hết là
sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại,
đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng
đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh:
loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa
nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa

là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các nước
mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao
động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội nhập trong
quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh luật
định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà nước liên
bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực tiễn của quá
trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như hiện nay trên
thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một Nhà nước liên bang.
Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện tượng hội nhập vừa trong
quá trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được
những nội dung khá cụ thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân
tích và giải thích nhiều vấn đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung
vào hành vi của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết
quả cuối cùng của hội nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng
giải thích bản chất của quá trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng
giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những
năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”)
được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế
quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc
tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh
tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử
dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic
integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và
lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu
trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng
Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.

Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện tượng
phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước không
phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt
là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế châu Âu
(EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị
trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị trường chung
(CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v Trong thực tiễn
sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc
tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội
nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm
chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính.
Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc
tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và
tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập
hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã
đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội
nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù hợp
đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội
nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận
phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện
và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc
tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn
kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền
lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn
khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi
các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối
nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi
sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá

trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là
các chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới
dạng: (i) hoặc là một tổ chức liên chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền
quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc,
ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ
quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mô
hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ
chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ quyền quốc
gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình,
chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ
quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết
quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng
tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
2. Nội hàm của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể
đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi
(gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên
khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
a) Hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế
giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức
khác nhau, từ đơn phương[3] đến song phương[4], tiểu khu vực/vùng[5], khu
vực[6], liên khu vực[7] và toàn cầu[8]. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều
mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành năm
mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau[9]:
(i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho
nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế về
phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức độ cắt

giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001),
Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở
giai đoạn thấp nhất.
(ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt
giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể bao
gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại hàng hóa
nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài
khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc
Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm gần đây,
phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều.
Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối
với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ…
Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình dương (TPP- đang đàm phán).
(iii) Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại bỏ
thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế
quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên
minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
(iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế quan
và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế quan
chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn chế đối với việc
lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để tạo thành một nền
sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây
dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước khi trở thành một liên
minh kinh tế.
(v) Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao
nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện
chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương
thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính chất,

phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước hội
nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra trong những điều
kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã đồng
thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan trong
những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn
tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị
và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác
và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa[10].
b) Hội nhập chính trị
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực tập
thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành
xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể hiện mức độ liên kết
đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về các giá trị cơ bản (tư tưởng
chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và đặc biệt là quyền lực. Một
quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký hiệp ước với một
hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ
(hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu
vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn
như Liên Hiệp quốc).
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên còn hạn chế và
các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách riêng. ASEAN
hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu quá trình hội nhập chính trị, nên vẫn còn tồn
tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các thành viên còn hạn chế. Về mặt tổ
chức quyền lực, ASEAN là một khuôn khổ liên chính phủ. Hoàn tất xây dựng
Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng
Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội) sẽ giúp tăng cường quá trình hội nhập
chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện để ASEAN bước tới một giai đoạn hội nhập
cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính trị và độ
tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các thành viên chỉ

giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các quyền lực còn lại
cho một cơ cấu siêu quốc gia. EU hiện nay là một mô hình hội nhập chính trị cao.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×