Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

tổ chức dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn cho học sinh lớp 4 - 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.36 KB, 104 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của các kiến thức làm văn trong dạy học
tập làm văn
Những nội dung kiến thức tập làm văn được đưa vào trong chương
trình, sách giáo khoa Tiếng Việt líp 4-5 phân môn Tập làm văn là thiết thực,
cần thiết. Kiến thức trong phân môn Tập làm văn không phải là lí luận thuần
tuý mà là kiến thức về kiểu bài, về các kĩ năng làm văn. Kiến thức tập làm
văn có vai trò định hướng, hướng dẫn cho một kiểu bài, ví dụ Thế nào là kể
chuyện, Thế nào là miêu tả (SGK Tiếng Việt 4, tập 1) ; kiến thức tập làm
văn còn là những khái niệm lí thuyết làm cơ sở để rèn luyện kĩ năng, ví dụ
Cốt truyện, Nhân vật, Đoạn văn trong bài văn kể chuyện, Đoạn văn trong
bài văn miêu tả đồ vật (SGK Tiếng Việt 4, tập 1),
Kiến thức tập làm văn không phải là tất cả, là quyết định, là đích cuối
cùng của phân môn Tập làm văn nhưng vẫn phải quan tâm thích đáng vì nó
góp phần làm cho nhiệm vụ rèn luyện các kĩ năng làm văn cho học sinh diễn ra
thuận lợi hơn, tốt hơn. Không nên vì Tập làm văn là phân môn thực hành tổng
hợp mà coi nhẹ nhiệm vụ dạy hình thành kiến thức tập làm văn ở tiểu học.
1.2. Xuất phát từ thực tế dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm
văn ở tiểu học
Thực tế cho thấy hiện nay việc dạy học các bài hình thành kiến thức tập
làm văn gặp rất nhiều khó khăn: học sinh không làm được bài tập, không trả lời
được nhiều câu hỏi hoặc mất quá nhiều thời gian cho các câu hỏi, bài tập phần
nhận xét. Các ngữ liệu (bài mẫu) để rót ra ghi nhớ còn nhiều vấn đề phải bàn.
Việc thiết kế và sử dụng câu hỏi đÓ tổ chức hình thành kiến thức tập làm văn
cho học sinh ở một số bài chưa thật phù hợp. Giáo viên áp dụng máy móc cách
1
dạy trong sách giáo viên mà chưa chú ý vận dông sáng tạo, linh hoạt cho phù
hợp với đối tượng học sinh.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “ Tổ chức dạy học các bài
hình thành kiến thức tập làm văn cho học sinh líp 4 - 5”.


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Khảo sát, nhận xét các kiến thức tập làm văn, nhận xét ngữ liệu và
các câu hỏi, bài tập ở các bài hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4 - 5.
2.2. Đưa ra cách điều chỉnh, cách tổ chức dạy học các bài hình thành
kiến thức tập làm văn sao cho phù hợp, hiệu quả.
2.3. Tổ chức dạy thử nghiệm một số bài hình thành kiến thức tập làm văn.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1. Các nội dung kiến thức tập làm văn được dạy ở lớp 4 - 5 và ngữ
liệu, hệ thống câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa, câu hỏi hướng dẫn giảng
dạy trong sách giáo viên.
3.2. Thực trạng dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4 -
5.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
4.2. Phương pháp khảo sát, quan sát sư phạm
4.3. Phương pháp phân tích
4.4. Phương pháp thử nghiệm sư phạm
5. Giả thuyết khoa học
5.1. NÕu lựa chọn, đưa các kiến thức tập làm văn thiết thực và vừa sức
với học sinh tiểu học, nếu chọn được ngữ liệu (bài mẫu) điển hình, xây dựng
được hệ thống câu hỏi hợp lí và sử dụng có hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất
lượng dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn cho học sinh líp 4 - 5.
5.2. Nếu tổ chức thực hiện giờ hình thành kiến thức tập làm văn theo
2
các bước hợp lí thì kết quả dạy học sẽ tốt hơn.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Nhìn nhận, đánh giá các kiến thức tập làm văn được dạy ở lớp 4-5
bậc tiểu học và các ngữ liệu, các câu hỏi, bài tập dạy kiến thức tập làm văn.
6.2. Xác định những khó khăn của giáo viên và học sinh khi dạy học
các bài hình thành kiến thức tập làm văn, những nguyên nhân và giải pháp

khắc phục.
6.3. Vận dụng các biện pháp đề xuất để thiết kế kế hoạch bài học, dạy
thực nghiệm một số bài hình thành kiến thức tập làm văn cho học sinh líp 4 - 5.
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương
1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ TỔ CHỨC DẠY
HỌC CÁC BÀI HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
TẬP LÀM VĂN LỚP 4 – 5
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nhận thức luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và phương hướng
vận dông trong dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn
Nhận thức luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ: con đường nhận
thức của nhân loại là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư
duy trừu tượng lại quay trở lại kiểm nghiệm trong thực tiễn. Thực tiễn là cội
nguồn, động lực của nhận thức và cũng là mục đích cuối cùng của nhận thức.
Nghĩa là “học sinh sẽ đi từ việc quan sát tiếng nói trong đời sống, thông qua
việc phân tích, tổng hợp đến những khái quát hoá, những định nghĩa lí thuyết,
những quy tắc và từ đó lại quay về thực tiễn giao tiếp lời nói sống động trong
dạng nói và dạng viết” (Lê Phương Nga, PPDHTV1, NXBĐHSP).
Cách làm nh trên không chỉ tuân thủ những quy luật chung của quá
trình nhận thức chân lí của loài người mà còn đáp ứng được những đòi hỏi
của lí luận dạy học hiện đại.
Dạy hình thành kiến thức tập làm văn theo con đường nhận thức của
chủ nghĩa Mác- Lênin cần theo các bước:
- Cho HS quan sát, đọc, tìm hiểu các bài văn mẫu theo câu hỏi định hướng.
- HS trả lời các câu hỏi là đã tù rót ra kiến thức tập làm văn.
- Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức, thực hành nhận diện, xây dựng
đoạn văn, bài văn theo yêu cầu.

1.1.2. Đặc điểm tư duy, nhận thức của HS líp 4-5 và việc tổ chức dạy
học các bài hình thành kiến thức tập làm văn
4
Đặc điểm tư duy của HS tiểu học nói chung và HS líp 4-5 nói riêng
thiên về tư duy cụ thể, hình tượng. Nhận biết chủ yếu dựa vào dấu hiệu hình
thức, cảm tính. Bởi vậy khi tổ chức dạy học các kiến thức tập làm văn cần tạo
điều kiện để HS được trực quan, cần gợi mở giúp các em đi từ cụ thể đến trừu
tượng, khái quát.
1.1.3. Ngữ liệu trong dạy học Tiếng Việt và trong dạy học tập làm văn
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên, từ “ngữ liệu” gồm hai nét nghĩa: một là “ Tư liệu ngôn ngữ được dùng
làm căn cứ để nghiên cứu ngôn ngữ”, hai là “Mặt hình thức vật chất của
ngôn ngữ, cần thiết cho sự tồn tại của mặt nội dung trừu tượng của ngôn
ngữ”.
Trong đề tài này, “ngữ liệu” được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Theo cách
định nghĩa trên thì ngữ liệu Tập làm văn chính là các văn bản, đoạn văn được
lựa chọn đÓ làm căn cứ dạy các kiến thức tập làm văn.
Ngữ liệu trong dạy Tiếng Việt nói chung và ngữ liệu phân môn Tập
làm văn lớp 4 - 5 nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
kiến thức, kỹ năng môn Tiếng Việt cho học sinh. Điều này thể hiện ở chỗ bất
kỳ phân môn nào của môn Tiếng Việt cũng cần đến ngữ liệu và ngữ liệu là cơ
sở để triển khai bài học.
Ngữ liệu trong các bài hình thành kiến thức tập làm văn là những bài
mẫu chuẩn mực, qua đó học sinh học tập được cách tạo lập văn bản một cách
chính xác, đúng đắn. Do đó, yêu cầu cơ bản của ngữ liệu trong dạy học tập
làm văn là phải tiêu biểu, tường minh, phù hợp với kiến thức lí thuyết hoặc kĩ
năng tập làm văn được dạy. Ngữ liệu càng điển hình, việc phân tích của học
sinh càng thuận lợi. Số lượng chữ của ngữ liệu cần hạn chế để đảm bảo tính
hiệu quả của việc phân tích và tránh làm mất thời gian học tập.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của câu hỏi trong hoạt động dạy học

5
• Trước hết, cần khẳng định, câu hỏi, bài tập có vị trí rất quan trọng
trong lý luận dạy học, cho dù sự đổi mới mang tính cách mạng cả về nội dung
và phương pháp dạy học (bao gồm cả phương tiện) thì câu hỏi, bài tập vẫn
phải có mặt và vẫn chiếm mét tỷ trọng đáng kể. Để xác định được mục tiêu
dạy học, giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, nội dung của từng
bài học. Mục tiêu đặt ra là cái đích mà học sinh phải đạt được, là những nội
dung học tập mà học sinh phải lĩnh hội được kể cả về kiến thức, kĩ năng và
thái độ, hành vi.
Khi xác định mục tiêu dạy học, câu hỏi, bài tập góp phần cụ thể hoá
mục tiêu và cũng là phương tiện để cụ thể hoá mục tiêu dạy - học, giúp lượng
hoá được mục tiêu đề ra, giúp kiểm tra đánh giá kết quả đạt được của mục
tiêu và điều chỉnh quá trình tiến tới mục tiêu dạy học.
Sử dụng câu hỏi, bài tập trong dạy - học còn tuỳ thuộc vào nội dung
mà câu hỏi, bài tập được sử dụng nh là một phương pháp hay một biện pháp
tổ chức quá trình dạy học. Câu hỏi, bài tập đóng vai trò là phương pháp khi
nó được giải quyết sẽ đem lại kiến thức cơ bản trọng tâm, quyết định tới việc
giải quyết vấn đề học tập giúp học sinh tự chiếm lĩnh được tri thức, làm tăng
hiệu quả của việc sử dụng phương tiện đó. Lúc này, câu hỏi, bài tập đóng vai
trò là biện pháp.
Trong các hình thức tổ chức dạy - học khác nhau thì câu hỏi, bài tập là
phương tiện để tổ chức quá trình nhận thức kết hợp các phương tiện dạy học
khác nhau để tạo thành hệ phương pháp dạy - học tích cực. Điều này khẳng
định tính nguyên tắc khi sử dụng bất kỳ phương pháp dạy học nào đều không
thể tách rời việc sử dụng phương tiện dạy học.
• Có thể nêu một số ý nghĩa cơ bản thể hiện vai trò câu hỏi, bài tập
trong dạy học nh sau:
- Câu hỏi, bài tập dùng để mã hoá nội dung sách giáo khoa, khi đó
6
chúng là nguồn tri thức mới. Nếu giả thuyết sách giáo khoa được biên soạn ở

dạng tường minh và việc dạy học chỉ là sự minh hoạ lại những điều đã được
trình bày một cách tường minh trong sách giáo khoa thì việc dạy thuyết trình
hay học thuộc lòng nội dung sách giáo khoa đều có giá trị như nhau về mặt
nhận thức. Ngược lại, cũng có giả thuyết nh trên nếu nội dung sách giáo khoa
đã tường minh về thuật ngữ, lôgic về diễn đạt, về các sự kiện.
- Câu hỏi, bài tập có tác dụng kích thích định hướng nhận thức, đặc biệt
nó định hướng cho người học tự nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa. Vì vậy,
nó là phương tiện để phát triển kỹ năng đọc sách nhằm cá thể hoá trong dạy
học, giúp học sinh tự rèn luyện phương pháp học, phương pháp nghiên cứu
khoa học bộ môn.[27]
- Câu hỏi, bài tập là phương tiện có hiệu quả trong dạy học vì nó là
nguồn để hình thành kiến thức và kỹ năng cho học sinh.
- Câu hỏi, bài tập giúp rèn luyện các thao tác tư duy, do đó câu hỏi và
bài tập tạo điều kiện để phát triển các thao tác tư duy.
- Câu hỏi, bài tập là công cụ để kiểm tra, đánh giá và tự đánh giá mức
độ nắm vững kiến thức của học sinh.
• Cơ sở phân loại hệ thống câu hỏi, bài tập:
- Dựa vào mức độ tư duy: Với cách phân loại này, nhiều tác giả đã có
những mức độ câu hỏi khác nhau.
- Dựa vào mục đích lý luận dạy học: Có thể chia thành 3 loại nh sau:
+ Loại câu hỏi dùng để dạy bài mới.
+ Loại câu hỏi, bài tập dùng để củng cố và hoàn thiện kiến thức.
+ Loại câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra, đánh giá.[18]
• Câu hái trong dạy học Tiếng Việt:
Có nhiều căn cứ để phân loại câu hỏi: Theo các khâu và giai đoạn của
bài học; theo các đặc điểm của bài học, môn học, theo nội dung cần hỏi; theo
7
chức năng của câu hỏi. Nhưng có lẽ phân loại câu hỏi theo mục đích mà câu
hỏi hướng tới là hợp lý hơn cả.
Phân biệt theo mục đích hỏi - căn cứ vào 3 cấp độ của nhận thức được

thể hiện trong câu trả lời, có những loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi thu thập và tái hiện thông tin.
Loại câu hỏi này gồm những yêu cầu: Nhớ lại, kiểm kê, quan sát, kể
lại, lựa chọn.
- Loại câu hỏi xử lý hay tạo nghĩa cho thông tin.
Loại câu hỏi này gồm những yêu cầu: Giải thích, so sánh, phân tích,
tổ chức.
- Loại câu hỏi hoạt động ứng dụng hay đánh giá:
Loại câu hỏi này gồm những yêu cầu: áp dụng, dự báo, khái quát, đánh
giá.[10]
Câu hái trong các bài hình thành kiến thức tập làm văn chủ yếu là
những câu hỏi phân tích ngữ liệu theo định hướng của bài dạy. Bên cạnh đó
là những câu hỏi so sánh, giải thích, khái quát hoá để rót ra kiến thức tập
làm văn mà HS cần nắm vững (các câu hỏi, bài tập ở phần nhận xét).
Ở phần luyện tập, câu hỏi, bài tập thường yêu cầu vận dụng kiến thức
để nhận diện hoặc nói, viết thành đoạn, bài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4 -
5
1.2.1.1. Những ưu điểm
Qua dự giờ và tìm hiểu tại một số trường tiểu học thuộc huyện Mỹ Đức,
tỉnh Hà Tây, chúng tôi nhận thấy thực tế dạy học các bài hình thành kiến thức
tập làm văn đã đáp ứng được phần nào yêu cầu đổi mới trong dạy học phân
môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Học sinh tích cực,
8
hứng thú khi chính các em, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, khám phá những
đoạn văn, bài văn mẫu để tự rót ra được những kiến thức tập làm văn cần ghi
nhí.
1.2.1.2. Những hạn chế, khó khăn của giáo viên và học sinh
Trong những năm đầu dạy theo chương trình sách giáo khoa mới ở bất

cứ một lớp học nào, môn học nào bao giờ cũng có những khó khăn. Cái khó
bắt nguồn từ sự mới mẻ trong hệ thống kiến thức, kĩ năng được thể hiện trong
sách mới. Ngoài ra, khó khăn còn do nguyên nhân từ nếp nghĩ và cách tổ chức
lớp học đã thành nếp quen thuộc của giáo viên, trong đó có những thói quen
không còn hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đổi mới trong dạy học nhưng
không thể thay đổi ngay được. Các trường tiểu học thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh
Hà Tây (địa bàn không qua dạy thử nghiệm SGK chương trình năm 2000),
thực trạng dạy học các bài hình thành kiến thức tập làm văn cũng vậy. Đa số
giáo viên còn phụ thuộc rất nhiều vào các tài liệu hướng dẫn dạy học. Các câu
hỏi, bài tập trong sách giáo khoa và sách giáo viên được giáo viên áp dụng
một cách máy móc mà chưa có sự sáng tạo, linh hoạt. Việc thiết kế câu hỏi
gợi mở chưa được chú trọng. Điều này dẫn đến nhiều câu hỏi, bài tập học sinh
không trả lời được. Giáo viên chưa thấy được những khó khăn, sai sót mà học
sinh gặp phải trong quá trình tìm hiểu ngữ liệu bởi nhiều khi cách dạy học áp
đặt còn tồn tại, có khi giáo viên làm thay học sinh hoặc giáo viên hỏi những
câu hỏi quá dễ dãi. Do việc hình thành khái niệm còn mang tính áp đặt cho
nên nhiều học sinh chưa hiểu sâu bài học, ghi nhớ một cách máy móc, chưa
vận dụng được vào phân tích những tình huống cụ thể. Có những bài học,
giáo viên sa đà vào việc hướng dẫn học sinh khai thác cả những thông tin
không cần thiết, không đúng nội dung trọng tâm kiến thức yêu cầu, gây áp lực
nặng nề, bộn bề kiến thức cho học sinh. Điều này còn dẫn đến thời gian làm
bài tập thực hành của học sinh còn lại không nhiều. Có những giáo viên
9
hướng dẫn học sinh thực hiện phần nhận xét một cách qua loa, đại khái rồi
cho học sinh đọc ghi nhớ và luyện tập.
1.2.2. Nội dung kiến thức tập làm văn được dạy ở lớp 4 – 5
1.2.2.1. Khảo sát nội dung kiến thức tập làm văn được dạy ở lớp 4-5
Khảo sát nội dung kiến thức tập làm văn theo loại văn bản, theo từng
khối lớp, tuần học, sách giáo khoa có các bài, các nội dung dạy kiến thức tập
làm văn (kiến thức lí thuyết về kiểu bài và kiến thức làm cơ sở để rèn luyện

các kĩ năng làm văn) sau đây:
a - Văn kể chuyện
- Thế nào là kể chuyện (trang 10 SGK, tuần 1, Tiếng Việt 4, tập 1).
- Nhân vật trong truyện (trang 13 SGK, tuần 1, Tiếng Việt 4, tập 1).
- Kể lại hành động của nhân vật (trang 20 SGK, tuần 2, Tiếng Việt 4, tập 1).
- Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện (trang 23 SGK,
tuần 2, Tiếng Việt 4, tập 1).
- KÓ lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật (trang 32 SGK, tuần 3, Tiếng Việt
4, tập 1).
- Cốt truyện (trang 42 SGK, tuần 4, Tiếng Việt 4, tập 1).
- Đoạn văn trong bài văn kể chuyện (trang 53 SGK, tuần 5, Tiếng Việt
4, tập 1).
- Mở bài trong bài văn kể chuyện (trang 112 SGK, tuần 11, Tiếng Việt
4, tập 1).
- Kết bài trong bài văn kể chuyện (trang 122 SGK, tuần 12, Tiếng Việt
4, tập 1).
b - Văn miêu tả
• Các kiến thức về văn miêu tả được dạy ở lớp 4 gồm:
- Thế nào là miêu tả (trang 140 SGK, tuần 14, học kì I).
- Miêu tả đồ vật.
10
+ Cấu tạo của bài văn miêu tả đồ vật (trang 143 SGK, tuần 14, học kì
I).
+ Quan sát đồ vật (cách quan sát) (trang 153 SGK, tuần 15, học kì I).
+ Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật (trang 169 SGK, tuần 17, HKI).
- Miêu tả cây cối:
+ Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối (trang 30 SGK, tuần 21, học kì II).
+ Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối (trang 52 SGK, tuần 23, HK II).
- Miêu tả con vật: Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (trang 10 SGK,
tuần 1, học kì I).

• Các kiến thức về văn miêu tả được dạy ở lớp 5 gồm:
- Tả cảnh: Cấu tạo của bài văn tả cảnh (trang 11 SGK, tuần 1, học kì I).
- Tả người: Cấu tạo của bài văn tả người (trang 119 SGK, tuần 12, HK II).
c - Các loại văn bản khác
• Líp 4:
- Viết thư: Mục đích viết thư, cấu tạo một lá thư (trang 34 SGK, tuần 3,
học kì I).
- Trao đổi ý kiến với người thân (trang 95+109 SGK, học kì I).
- Giới thiệu hoạt động của địa phương (trang 160 SGK, tuần 16, học kì
I và trang 19 SGK, tuần 20, học kì II).
- Tóm tắt tin tức (trang 63 SGK, tuần 24, học kì II).
- Điền vào giấy tờ in sẵn (phiếu khai báo tạm trú, tạm vắng, thư chuyển
tiền, điện chuyển tiền đi, giấy đặt mua báo chí) (trang 122+152+161 SGK,
học kì II).
• Líp 5:
- Làm báo cáo thống kê (trang 23 SGK, tuần 2, học kì I).
- Làm đơn (trang 59 SGK, tuần 6 và trang 111, tuần 11, học kì I).
- Làm biên bản (trang 140+161 SGK, học kì I).
11
- Thuyết trình, tranh luận (trang 91 SGK, tuần 9, học kì I).
- Lập chương trình hoạt động (trang 23 SGK, tuần 20, học kì II).
- Tập viết đoạn đối thoại (trang 77+85+113 SGK, học kì II).
1.2.2.2. Nhận xét các bài dạy hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4-5
a. Nhận xét các kiến thức tập làm văn
Các kiến thức tập làm văn được đưa vào dạy ở lớp 4-5 nhìn chung dừng
ở mức độ sơ giản, cần thiết. Học sinh nắm được đặc điểm của kiểu bài (miêu
tả đồ vật, con vật, cây cối, tả người, lập biên bản, đơn từ,…) sẽ có cơ sở để
làm bài văn đúng yêu cầu về kiểu bài, loại thể. Như vậy sẽ tránh được tình
trạng học sinh làm bài văn miêu tả mà không hiểu thế nào là miêu tả hoặc làm
bài văn kể chuyện mà không biết thế nào là kể chuyện. Do đó, bài làm của các

em sẽ hạn chế các lỗi về kiểu bài, về loại văn bản.
Tuy nhiên, nội dung các kiến thức làm cơ sở để rèn luyện các kĩ năng
làm văn trong sách giáo khoa chưa thật hợp lý. Chẳng hạn cách đưa các kiến
thức về lời nói, ý nghĩ, hành động của nhân vật trong bài văn kể chuyện như
sách giáo khoa dễ gây Ên tượng nặng nề về lý thuyết.
b. Nhận xét ngữ liệu hình thành kiến thức tập làm văn
b
1
. Ngữ liệu các bài hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4-5 bao gồm
các văn bản nghệ thuật (Bài văn Bãi ngô, Hoàng hôn trên sông Hương, ),
văn bản truyền thông (Bài báo Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản
thiên nhiên thế giới - Bài Tóm tắt tin tức, ), văn bản điều hành (văn bản
Biên bản đại hội chi đội - Bài Làm biên bản cuộc họp, ) và văn bản nhật
dụng (Phiếu khai báo tạm trú, tạm vắng, Thư chuyển tiền - Bài Điền vào giấy
tờ in sẵn, ).
b
2
. Ngữ liệu ở một số bài gắn bó với chủ điểm của tuần học và được lấy
từ những bài tập đọc, kể chuyện, chính tả đã học. Chẳng hạn, ở lớp 4, gắn với
chủ điểm Thương người như thể thương thân, học sinh được làm quen với
12
văn kể chuyện với vật liệu mẫu là câu chuyện Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, Sự
tích hồ Ba Bể (là bài tập đọc, kể chuyện đã dùng trong chủ điểm). Ở líp 5,
gắn với chủ điểm Việt Nam – Tổ quốc em, học sinh được làm quen với văn tả
cảnh với bài mẫu là văn bản Quang cảnh làng mạc ngày mùa (là bài tập đọc
đã dùng trong chủ điểm), Điều này giúp học sinh có nhiều thuận lợi trong
quá trình khảo sát bởi các em đã được tìm hiểu nội dung các bài đó trong các
giờ học trước. Việc lấy ngữ liệu từ các bài tập đọc, kể chuyện, chính tả đã học
còn thể hiện tính tích hợp trong dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
b

3
. Một số bài có ngữ liệu hay, tiêu biểu như bài Cấu tạo của bài văn tả
người (bài mẫu: Hạng A Cháng), Viết thư (bài mẫu: Thư thăm bạn), Đoạn
văn trong bài văn miêu tả cây cối (bài mẫu: Cây gạo).
Một số bài ngữ liệu phù hợp với kiến thức ghi nhớ như bài: Nhân vật
trong truyện (bài mẫu: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, Sự tích hồ Ba Bể), Kể lại
hành động của nhân vật (bài mẫu: Bài văn bị điểm không), Tả ngoại hình của
nhân vật trong bài văn kể chuyện (bài mẫu: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu), Kể lại
lời nói, ý nghĩ của nhân vật (bài mẫu: Người ăn xin), Mở bài trong bài văn kể
chuyện (bài mẫu: Rùa và Thỏ), Kết bài trong bài văn kể chuyện (bài mẫu:
Ông Trạng thả diều), Tóm tắt tin tức (bài mẫu: Vẽ về cuộc sống an toàn), Cấu
tạo của bài văn miêu tả con vật (bài mẫu: Con mèo), Làm biên bản cuộc họp
(bài mẫu: Biên bản đại hội chi đội).
b
4
. Bên cạnh các ngữ liệu hay, tiêu biểu, điển hình như đã nêu ở trên
còn có những bài có những điểm chưa thật phù hợp so với mục tiêu tìm hiểu
để bật ra ghi nhớ và so với đặc điểm trình độ học sinh líp 4 – 5.
Ví dô 1: Bài Cốt truyện (bài mẫu: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu) ngữ liệu
quá dài, không tường minh, không tập trung ở một trang giấy (tản mạn ở hai
trang xa nhau) vì thế học sinh mất nhiều thời gian và không tiện quan sát để
liệt kê các sự việc chính.
13
Ví dô 2: Bài Đoạn văn trong bài văn kể chuyện (bài mẫu: Những hạt
thóc giống), ngữ liệu cũng chưa thực sự tiêu biểu.
Ghi nhớ của bài là "Mỗi câu chuyện có thể gồm nhiều sự việc. Mỗi sự
việc được kể thành một đoạn văn". Bài Những hạt thóc giống gồm nhiều sự
việc. Sau đây là các sự việc chính:
- Sự việc 1 (Từ đầu đến sẽ bị trừng phạt): Nhà vua muốn tìm người
trung thực để truyền ngôi, nghĩ ra kế: Luộc chín thóc giống rồi giao cho dân

chúng, giao hẹn ai thu hoạch được nhiều thóc thì sẽ truyền ngôi cho.
- Sự việc 2 (Có chú bé mồ côi chẳng nảy mầm): Chú bé Chôm nhận
thóc, dốc công chăm sóc mà thóc chẳng nảy mầm.
- Sự việc 3 (Đến vụ thu hoạch thóc giống của ta): Mọi người nộp
thóc, Chôm tâu sự thật, vua nói việc thóc giống đã được luộc chín.
- Sự việc 4 (Đoạn còn lại): Nhà vua khen ngợi Chôm trung thực, dũng
cảm, quyết định truyền ngôi cho Chôm.
Học sinh dễ dàng xác định được sự việc chính thứ nhất và thứ hai bởi
vì hai sự việc này dễ nhận biết, được kể thành hai đoạn văn rõ ràng.
Hai sự việc 3 và 4, học sinh khó xác định hơn, đặc biệt là sự việc 3 bởi
vì nó gồm nhiều sù việc nhỏ. Hơn nữa, đoạn văn thứ ba lại có những lời thoại,
phải xuống dòng nhiều lần mới hết đoạn do đó học sinh cũng khó xác định
đoạn văn thứ ba của bài. Điều này chưa thật phù hợp với ghi nhớ của bài (Mỗi
sự việc được kể thành một đoạn văn).
Ví dô 3: Bài Thế nào là miêu tả, bài mẫu là một đoạn văn tả cảnh.
Trong khi đó, ghi nhớ của bài là "Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm
nổi bật của cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình
dung được các đối tượng Êy". Như vậy, bài văn không tả đặc điểm của người,
của vật. Do đó, khi rót ra ghi nhớ, học sinh chỉ nêu được một vế nhỏ là tả đặc
điểm của cảnh. Có những học sinh còn lầm tưởng miêu tả chỉ là tả cảnh
14
không thôi chứ không tả người, vật. Trên thực tế, giáo viên có thể kết luận bổ
sung để ghi nhớ của bài được đầy đủ nhưng làm như vậy bài học mang tính
chất áp đặt. Một điều nữa dễ khiến cho học sinh nhầm lẫn đó là câu văn “Một
làn gió rì rào chạy qua, những chiếc lá rập rình lay động như những đốm lửa
vàng, lửa đỏ bập bùng cháy”. Ở đây, “những chiếc lá” chính là lá sòi và lá
cơm nguội nhưng HS lại lầm tưởng đó là một sự vật được miêu tả trong bài.
Ví dô 4: Bài Cấu tạo của bài văn miêu tả đồ vật, bài mẫu Cái cối tân
rất hay, có cấu tạo rõ ràng, phù hợp với kiến thức ghi nhí. Tuy nhiên, cái cối
xay gạo là đồ vật đã lâu người nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ không dùng.

Ngày nay người ta dùng máy xay xát cho nên cái cối xa lạ với học sinh. Do
đó học sinh khó hình dung về hình dáng bao quát cũng như từng bộ phận của
cối. Mặc dù sách giáo khoa đã vẽ minh hoạ hình ảnh chiếc cối xay song đó
chỉ là mô hình không rõ nét. Nên chăng có thể chọn những bài văn tả đồ vật
có Ých, gần gũi hơn với học sinh để các em có góc nhìn tường tận, như vậy
bài học sẽ hiệu quả hơn.
Ví dô 5: Bài Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối (bài mẫu: Bãi ngô),
ngữ liệu cũng có những điểm sau chưa phù hợp:
Ghi nhớ của bài Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối trong sách giáo
khoa như sau:
Bài văn miêu tả cây cối thường có 3 phần:
1. Mở bài: Tả hoặc giới thiệu bao quát về cây.
2. Thân bài: Tả từng bộ phận của cây hoặc tả từng thời kì phát triển
của cây.
3. Kết bài: Có thể nêu lợi Ých của cây, Ên tượng đặc biệt hoặc tình
cảm của người tả với cây.
Xét cấu tạo của bài Bãi ngô, bài có 3 đoạn văn:
Đoạn 1: Tác giả tả bãi ngô khi cây còn nhỏ và mới lớn.
15
Đoạn 2: Tả bãi ngô khi cây ra hoa và kết quả.
Đoạn 3: Tả bãi ngô khi bắp đã già, có thể thu hoạch.
Nh vậy, bài có ba đoạn văn tương ứng với ba giai đoạn phát triển
của cây ngô.
Nếu đối chiếu cấu tạo của bài Bãi ngô với bài học cần ghi nhí cho học
sinh tiểu học thì bài văn có những điểm chưa phù hợp nh sau:
(1) Ba đoạn văn của bài tả ba giai đoạn phát triển của cây ngô. Đây là
một cách viết phần thân bài trong bài văn miêu tả cây cối mà phần ghi nhớ
của bài đã nêu (tả từng thời kì phát triển của cây). Nh vậy, toàn bộ ba đoạn
văn của bài Bãi ngô đều là phần thân bài trong bài văn miêu tả cây cối. Do
đó, có thể nói, bài Bãi ngô chưa có phần mở bài và phần kết bài.

(2) Nếu chúng ta chấp nhận đoạn 1 của bài văn là phần mở bài nh giáo
viên hướng dẫn học sinh trong thực tế dạy học hiện nay thì đoạn văn có
những điểm sau chưa phù hợp:
Giữa phần mở bài và phần thân bài của bài văn không có sự cân đối cả
về nội dung và hình thức. Mở bài của bài văn có 4 câu, thân bài cũng có 4 câu.
Để cấu tạo nên một bài văn, cả hai phần mở bài và thân bài đều quan trọng.
Tuy nhiên, chúng ta thường dạy cho học sinh tiểu học phần thân bài có nội
dung lớn hơn, hình thức đoạn văn dài hơn phần mở bài. Ngoại trừ những bài
văn dành cho học sinh ở các bậc học cao hơn.
Theo ghi nhớ của bài: Mở bài: Tả (bao quát) hoặc giới thiệu bao quát
về cây thì đoạn 1 của bài văn này lại tả tương đối cụ thể về cây ngô giai đoạn
còn bé đến lúc đã lớn do đó đoạn văn này chưa tiêu biểu.
(3) Có tác giả cho rằng đoạn ba của bài văn là một cách kết bài tự
nhiên. Tuy nhiên, đối với học sinh tiểu học cần rõ ràng, tiêu biểu. Do đó, nếu
đối chiếu nội dung đoạn văn thứ ba với nội dung cần ghi nhí (cho phần kết
bài) thì đoạn văn này chưa thực sự phù hợp.
16
Ví dô 6

: Bài "Cấu tạo của bài văn tả cảnh" - líp 5 (bài mẫu: Hoàng
hôn trên sông Hương), theo chúng tôi, ngữ liệu của bài dạy có những điểm
chưa phù hợp nh sau:
(1) Bài văn này dài về dung lượng, học sinh mất nhiều thời gian để tìm
hiểu trong khi thời lượng của một tiết học hạn chế. Do đó, thời gian để học
sinh luyện tập không nhiều.
Bài văn có nhiều chi tiết nghệ thuật, học sinh tiểu học chưa đủ năng lực
để cảm thụ.
Bài văn mang tính nghệ thuật cao, khó hiểu đối với học sinh tiểu học.
(2) Phần thân bài của bài văn
Ghi nhí cho phần thân bài của bài văn tả cảnh trong sách giáo khoa là

"Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian".
Trình tù miêu tả của bài văn này như sau:
Đoạn 1: "Mùa thu hai hàng cây": Tả sự thay đổi sắc màu của sông
Hương từ lúc bắt đầu hoàng hôn cho đến lúc tối hẳn.
Đoạn 2: "Phía bên sông khoảnh khắc yên tĩnh của buổi chiều cũng
chấm dứt": Tả hoạt động của con người trên sông và bên bờ sông lừ lúc bắt
đầu hoàng hôn cho đến khi thành phố lên đèn.
Như vậy, bài có hai đoạn văn cùng miêu tả ở một thời điểm đó là từ lúc
bắt đầu hoàng hôn cho đến lúc tối hẳn (thành phố lên đèn) nhưng chỉ có đoạn
1 tả sự thay đổi của cảnh (sự thay đổi sắc màu sông Hương) còn đoạn 2 lại tả
hoạt động của con người trên sông và bên bờ sông. Vì thế học sinh khó có thể
nhận ra trình tự miêu tả của bài văn này và càng khó để đưa ra một nhận xét
cho bài văn tả cảnh nói chung. Đó là một điểm chưa thật phù hợp với ghi nhớ
của bài.
(3) Phần kết của bài văn
Ghi nhí trong sách giáo khoa cho phần kết bài của một bài văn tả cảnh
17
là "Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết".
Phần kết của bài Hoàng hôn trên sông Hương, tác giả nêu cảm nhận
của mình về nhịp sống của Huế sau hoàng hôn. Đây có thể là một cách kết
thúc tự nhiên, song đối với học sinh líp 5, các em sẽ khó khăn khi rót ra nhận
xét về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
Cấu tạo của một bài văn tả cảnh gồm ba phần (mở bài, thân bài, kết
bài). Dấu hiệu hình thức để học sinh nhận ra các phần của bài văn là hết một
đoạn văn thì chấm xuống dòng và viết lùi ở đầu đoạn tiếp theo. Nh vậy, nhờ
dấu hiệu hình thức, học sinh có thể nhận ra phần kết của bài Hoàng hôn trên
sông Hương. Nhưng nếu dựa vào nội dung của đoạn, học sinh có thể lầm
tưởng đây vẫn là phần thân bài của bài văn bởi vì tác giả nói đến khoảng
thời gian tiếp sau hoàng hôn.
Nh vậy, học sinh lúng lúng, khó khăn khi rót ra nội dung chính cho

phần kết bài của bài văn tả cảnh nói chung.
Có thể nói rằng, Hoàng hôn trên sông Hương là một bài văn hay.
Nhưng để khám phá và rót ra được kiến thức cần ghi nhớ chứa đựng trong đó,
đối với trình độ học sinh líp 5, quả là khó khăn, phức tạp.
c. Nhận xét câu hỏi, bài tập ở các bài hình thành kiến thức tập làm văn
c
1
. Yêu cầu của câu hỏi, bài tập ở các bài hình thành kiến thức tập
làm văn
Phần nhận xét các bài hình thành kiến thức tập làm văn lớp 4-5 gồm
một hệ thống câu hỏi, bài tập gợi ý HS khảo sát ngữ liệu để tự rót ra kiến thức
cần ghi nhí. Do đó, yêu cầu cơ bản của các câu hỏi, bài tập ở phần này là phải
rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức đối với HS. Đặc biệt, các câu hỏi ở phần này còn
phải giúp HS khai thác đúng trọng tâm nội dung kiến thức chứa đựng trong
ngữ liệu, định hướng cho HS đi đến kiến thức cần ghi nhớ của bài. Chúng
phải tạo thành một hệ thống mà qua đó học sinh dần dần hình thành khái niệm
18
một cách tự nhiên thông qua con đường quy nạp.
Phần luyện tập gồm từ một đến ba bài tập thực hành đơn giản. XÐt về
mục đích, có thể chia các bài tập luyện tập thành hai nhóm: các bài tập củng cố
kiến thức (chủ yếu là bài tập nhận diện) và các bài tập rèn luyện kĩ năng vận
dụng các khái niệm vừa học (bài tập vận dụng). Các bài tập này được sắp xếp từ
dễ đến khó, từ thấp đến cao, trong đó mức độ dễ nhất là nhận diện các kiến thức
ở phần ghi nhớ. Mức độ khó hơn là các bài tập thực hành sử dụng các kiến thức
ghi nhớ vào việc rèn kĩ năng sản sinh văn bản như: viết đoạn văn, lập dàn ý cho
một kiểu bài, kể chuyện theo tình huống hoặc cốt truyện cho sẵn, kể lại câu
chuyện đã học kết hợp miêu tả,…Lệnh bài tập cần phải rõ ràng, bài tập trước là
cơ sở cho bài tập sau. Có nh vậy, học sinh mới nắm vững bài học. Ngoài tác
dụng củng cố kiến thức đã học, các bài tập luyện tập còn có tác dụng hệ thống
hoá và khái quát hoá những kiến thức đó, rèn luyện các thao tác tư duy lôgic

phát triển cao hơn.
c
2
. Nhận xét hệ thống câu hỏi, bài tập
Nhờ hệ thống câu hỏi, bài tập gợi ý, học sinh nhận xét được ngữ liệu từ
đó hình thành khái niệm, rót ra nội dung kiến thức cần ghi nhí. Các bài tập
phần luyện tập cũng đã đảm bảo yêu cầu đặt ra. Nhiều bài tập gợi ý rất cụ thể
cách thực hiện. Các hình thức bài tập ở mỗi bài học còng đa dạng, phong phú,
tạo hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi, bài tập trong sách
giáo khoa còn mang tính định hướng chung, chưa gợi ý cụ thể và mang tính
khái quát cao. Sau đây là một số ví dụ:
Ví dô 1: Bài Thế nào là kể chuyện
Bài tập 1: Trên đường đi học về, em gặp một người phụ nữ vừa bế con
vừa mang nhiều đồ đạc. Em đã giúp cô Êy xách đồ đi một quãng đường. Hãy
kể lại câu chuyện đó.
Bài tập này không có gợi ý để định hướng cho câu chuyện, không
19
hướng dẫn xác định những sự việc chính. Do đó, khi kể, học sinh dễ sa đà, kể
lể mà không có cốt truyện.
Ví dô 2: Bài Nhân vật trong truyện
Phần nhận xét:
Bài tập 2: Nêu nhận xét về tính cách của các nhân vật:
a) Dế Mèn (trong truyện Dế Mèn bênh vực kẻ yếu).
b) Mẹ con bà nông dân (trong truyện Sự tích hồ Ba Bể).
Căn cứ vào đâu mà em có nhận xét như vậy?
Mặc dù học sinh đã được làm quen với các nhân vật này trong giờ tập
đọc hoặc kể chuyện nhưng câu hỏi này vẫn khó đối với học sinh ở chỗ học
sinh không biết căn cứ vào đâu để nêu nhận xét về tính cách của các nhân vật.
Phần luyện tập:
Bài tập 1: Câu hỏi Vì sao bà có nhận xét như vậy? khó trả lời bởi cách

dùng từ Vì sao.
Bài tập 2: Cho tình huống sau: Một bạn nhỏ vui đùa, chạy nhảy, lỡ làm
ngã một em bé. Em bé khóc.
Em hãy hình dung sự việc và kể tiếp câu chuyện theo mét trong hai
hướng sau đây:
- Bạn nhỏ nói trên biết quan tâm đến người khác.
- Bạn nhỏ nói trên không biết quan tâm đến người khác.
Ở bài tập này, từ ngữ người khác dùng chưa cụ thể, chính xác. Có
những học sinh không hiểu người khác ở đây là ai.
Ví dô 3: Bài Kể lại hành động của nhân vật
Bài tập 2 (phần nhận xét): Ghi vắn tắt những hành động của cậu bé bị
điểm không trong truyện Bài văn bị điểm không. Theo em, mỗi hành động
của cậu bé nói lên điều gì?
Ở bài tập này, câu hỏi Theo em, mỗi hành động của cậu bé nói lên điều
gì chưa rõ ràng khiến học sinh khó trả lời.
20
Ví dô 4: Bài Tả ngoại hình nhân vật trong bài văn kể chuyện
Bài tập 2 (phần luyện tập): Kể lại câu chuyện Nàng tiên Èc kết hợp tả
ngoại hình của các nhân vật.
Mặc dù học sinh đã kể bằng lời của mình câu chuyện Nàng tiên Èc
trong giờ kể chuyện, các em đã nắm được tình tiết, cốt truyện nhưng bài tập
này đối với các em vẫn khó và dài bởi lẽ:
- Bài tập không có câu hỏi hướng dẫn.
- Trong mét khoảng thời gian ngắn như vậy, học sinh vừa phải kể lại
toàn bộ câu chuyện vừa phải kết hợp tả ngoại hình của các nhân vật. Điều này
dễ gây áp lực nặng nề cho học sinh.
- Câu chuyện có ba nhân vật: bà cụ, con ốc và nàng tiên. học sinh phải
kết hợp miêu tả ngoại hình của cả ba nhân vật. Điều này tương đối khó bởi
khi miêu tả, học sinh phải chọn những nét tiêu biểu nhất của nhân vật, phải
chắt lọc câu, từ và phải chọn thời điểm thích hợp để tả.

- Đối với những học sinh trung bình, yếu, có thể các em không còn nhớ
rõ cốt truyện do đó việc kể lại câu chuyện cũng đã khó nhưng việc kết hợp
miêu tả lại càng khó hơn.
Ví dô 5: Bài Cốt truyện
Bài tập 3 (phần nhận xét): Cốt truyện gồm những phần nào? Nêu tác
dụng của từng phần?
Bài tập này mang tính khái quát rất cao, lại không có câu hỏi hướng
dẫn nên rất khó. Đặc biệt, câu hỏi Nêu tác dụng của từng phần quá khó đối
với học sinh líp 4.
Ví dô 6: Ở bài Đoạn văn trong bài văn kể chuyện, khi tìm hiểu bài,
học sinh cũng gặp những khó khăn.
Bài tập 1: Hãy nêu những sự việc tạo thành cốt truyện Những hạt thóc
giống. Cho biết mỗi sự việc được kể trong đoạn văn nào?
- Học sinh khó xác định được những sự việc chính của truyện bởi vì
21
câu chuyện có nhiều sự việc nhỏ với nhiều lời thoại đặc biệt là sự việc 3.
- Do khó xác định sự việc chính thứ ba nên học sinh khó xác định đoạn
văn thứ ba của bài.
Bài tập 3 phần a: Mỗi đoạn văn trong bài văn kể chuyện kể điều gì?
Do ngữ liệu của bài tập 1 không tiêu biểu, học sinh khó xác định sự
việc chính cũng như đoạn văn nêu sự việc đó cho nên học sinh khó trả lời mỗi
đoạn văn trong bài văn kể chuyện kể điều gì.
Ví dô 7: Bài Thế nào là miêu tả
Phần nhận xét:
Bài tập 1: Đoạn văn sau miêu tả những sự vật nào?
Câu hỏi này dễ khiến học sinh nhầm lẫn. Học sinh sẽ tìm tất cả các từ
chỉ sự vật được nói đến trong đoạn văn (cây sòi, cây cơm nguội, những chiếc
lá, lạch nước, tảng đá, gốc cây). Trong khi đó, đoạn văn chỉ miêu tả ba sự vật
là: cây sòi, cây cơm nguội và lạch nước.
Phần luyện tập:

Bài tập 1: Tìm những câu văn miêu tả trong truyện Chú Đất Nung.
Lệnh bài tập này không cụ thể làm HS mất nhiều thời gian không cần thiết.
Câu chuyện Chú Đất Nung rất dài, bao gồm hai phần ở hai trang xa nhau do đó
HS không tiện quan sát để tìm câu văn miêu tả. Hơn nữa, toàn bộ câu chuyện chỉ
có một câu văn miêu tả chú Đất Nung ở phần đầu câu chuyện mà thôi.
Ví dô 8: Học sinh cũng gặp những khó khăn và sai sót khi trả lời các câu
hỏi và bài tập phần nhận xét của bài Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối.
• Câu hái 2: Đọc lại bài "Cây mai tứ quý". Trình tự miêu tả trong bài
Êy có điểm gì khác bài "Bãi ngô"?
Để so sánh được sự khác nhau trong trình tự miêu tả ở hai bài văn, học
sinh phải tìm hiểu trình tự miêu tả ở mỗi bài (tức là phải xác định cấu tạo ba
phần và nội dung từng phần ở mỗi bài văn). Trong khi đó, sách giáo khoa và
22
sách giáo viên chỉ đặt ra yêu cầu xác định đoạn văn và nội dung từng đoạn ở
hai bài văn sau đó so sánh sự khác nhau trong trình tự miêu tả. Làm như vậy
chưa rõ ràng, cụ thể bởi học sinh líp 4 mới được làm quen với lý thuyết về
cấu tạo một bài văn.
Do ba đoạn văn của bài Bãi ngô tả cây ngô ở ba giai đoạn phát triển nối
tiếp nhau cho nên khi so sánh, học sinh gặp những khó khăn và sai sót sau:
+ So sánh cho phần mở bài.
Mở bài (đoạn 1) của bài Bãi ngô, tác giả tả cụ thể bãi ngô khi cây còn
nhỏ và mới lớn (tả giai đoạn phát triển thứ nhất của cây ngô). Còn mở bài của
bài Cây mai tứ quý, tác giả lại giới thiệu bao quát về cây mai. Nh vậy, cách
mở bài ở hai bài văn khác nhau. Điều này khiến học sinh khó rót ra một nhận
xét chung cho phần mở bài của bài văn miêu tả cây cối.
Ở đoạn 1 của bài Bãi ngô, tác giả có giới thiệu bao quát về bãi ngô
nhưng chỉ là một ý rất nhỏ trong đoạn. Điều này dễ khiến học sinh mắc sai sót
khi rót ra một điểm chung rằng phần mở bài ở cả hai bài văn đều giới thiệu
bao quát về cây sẽ tả (trong khi chỉ có một bài Cây mai tứ quý).
+ So sánh cho phần thân bài.

Học sinh dễ dàng rót ra được trình tự miêu tả cho phần thân bài của bài
văn Cây mai tứ quý là tả từng bộ phận của cây.
Đối với bài Bãi ngô, phần thân bài (đoạn 2) chỉ là một giai đoạn trong
ba giai đoạn phát triển của cây ngô do đó học sinh rất khó để rót ra trình tự
miêu tả cho phần thân bài.
+ So sánh cho phần kết bài.
Phần kết bài của bài Bãi ngô, tác giả tả bãi ngô khi bắp đã già, có thể
thu hoạch, hoa và lá cũng đến độ tàn (giai đoạn cuối cùng của cây ngô). Còn
phần kết bài của bài Cây mai tứ quý, tác giả nêu cảm nghĩ của mình về cây
mai. Nh vậy, hai bài văn là hai cách kết bài khác nhau. Điều này cũng khiến
23
học sinh khó rót ra nhận xét cho phần kết bài của bài văn miêu tả cây cối.
• Câu hái 3: Từ cấu tạo của hai bài văn trên, rót ra nhận xét về cấu
tạo của một bài văn miêu tả cây cối.
Học sinh có thể nêu được cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối gồm 3
phần (mở bài, thân bài, kết bài) nhưng nh đã đề cập ở trên, học sinh khó có
thể đưa ra nội dung chính cho từng phần.
Mặc dù dưới sự gợi mở, dẫn dắt của giáo viên, học sinh có thể rót ra
nhận xét về cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối nhưng chắc chắn rằng các em
sẽ cảm thấy chưa thoả đáng về ví dụ mà bài Bãi ngô đã minh hoạ.
Ví dô 9: Bài Cấu tạo của bài văn tả cảnh
Phần nhận xét:
Bài tập 1
Yêu cầu của bài tập là: Đọc và tìm các phần mở bài, thân bài, kết bài
của bài văn.
Khi trả lời, học sinh gặp những khó khăn sau:
Học sinh phải tìm các đoạn văn tương ứng với các phần mở bài, thân
bài, kết bài của bài văn.
Bài tập không đặt ra yêu cầu nêu nội dung từng phần của bài Hoàng
hôn trên sông Hương nhưng để rót ra ghi nhớ (nội dung cho từng phần mở

bài, thân bài, kết bài trong bài văn tả cảnh), học sinh phải nắm được nội dung
các phần của bài văn này.
Bài tập không đặt ra yêu cầu nêu thứ tự miêu tả của bài Hoàng hôn
trên sông Hương nhưng để trả lời được bài tập 2 (so sánh thứ tự miêu tả ở
hai bài văn) học sinh phải nắm được thứ tự miêu tả của bài văn này.
Nếu giáo viên không hướng dẫn, gợi ý cụ thể, học sinh sẽ gặp nhiều
khó khăn và chỉ trả lời yêu cầu bài tập đặt ra mà thôi.
Bài tập 2
24
(1) Về ngữ liệu của bài tập:
Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa không có phần kết bài do đó khi
nhận xét cấu tạo ba phần của bài văn tả cảnh, học sinh sẽ có những băn khoăn
vì bài Hoàng hôn trên sông Hương thì có cấu tạo ba phần còn bài Quang
cảnh làng mạc ngày mùa chỉ có hai phần.
(2) Về yêu cầu của bài tập:
Yêu cầu của bài tập là: Thứ tự miêu tả trong bài văn trên có gì khác với
bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa mà em đã học? Từ hai bài văn đó, hãy
rót ra nhận xét về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
Câu hỏi này rất khó, lại không gợi ý. Để trả lời được học sinh phải thực
hiện nhiều thao tác:
+ Tìm hiểu cấu tạo của bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa, nội dung
chính của các phần trong bài văn này từ đó mới rót ra được nhận xét về cấu
tạo của bài văn tả cảnh nói chung.
+ Nắm được thứ tự miêu tả của bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa
mới sánh được sự khác nhau ở hai bài văn.
Như vậy, nếu không được hướng dẫn cụ thể các thao tác theo một trình
tự lôgíc, hệ thống câu hỏi phù hợp, học sinh có thể rót ra cÊu tạo của bài văn
tả cảnh gồm ba phần nhưng rất khó để bật ra nội dung chính của mỗi phần
trong bài văn. Những công việc này sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn nếu ngữ liệu
tiêu biểu, phù hợp.

Phần luyện tập:
Yêu cầu của bài tập : Nhận xét về cấu tạo của bài văn Nắng trưa.
Lệnh của bài tập không cụ thể do đó HS thường hiểu là chỉ cần xác
định cấu tạo ba phần của bài văn nên các em không xác định nội dung chính
của từng phần.
d. Nhận xét ghi nhí
25

×