Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

ĐỀ TÀI: Áp dụng mô hình SWOT trong việc đánh giá môi trường kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.21 KB, 40 trang )

DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN
( Nhóm 7 KTB_K10 )
1. Hoàng Xuân Phương ( nhóm trưởng )
2. Phí Thanh Vân
3. Phạm Lan Hương
4. Võ Thu Giang
5. Hàn Thị Loan
6. Nghiêm Thị Hân
7. Lê Thị Thanh Xuân
8. Đoàn Thùy Linh
Phần I: CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH TÁC
ĐỘNG LÊN DOANH NGHIÊP
I. MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
1. Yếu tố kinh tế :
Kết quả hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà
nước đã mang lại cho VN nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, giảm đói
nghèo, nâng cao mức sống cho người dân. Chính sách đổi mới cũng đã đưa
nền kinh tế VN ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong bối
cảnh VN là thành viên của khối ASEAN, tham gia AFTA và APEC, thực
hiện có hiệu quả Hiệp định thương mại với Mỹ, trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới (WTO), thị trường xuất khẩu của VN ngày càng
mở rộng, xu hướng các nguồn vốn từ bên ngoài đổ vào VN ngày càng tăng
qua các kênh đầu tư trực tiếp và gián tiếp… Tất cả những nhân tố trên đã
tạo điều kiện cho kinh tế VN phát triển.
Và thực tế đã cho thấy, Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần
đây đạt mức tăng trưởng cao. Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ
tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình
quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong
khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình
quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu
người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã


đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước tính đạt
khoảng 1.047 USD/người
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu
người của VN giai đoạn 1990-2008
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
Như vậy, năm 2008 đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN
chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập
trung bình dưới (nhóm 2). Và so với các nước trong khu vực, VN có mức
tăng trưởng cao thứ ba, sau Trung quốc và Ấn độ.
Những đóng góp về phát triển kinh tế nêu trên đã góp phần cải thiện
mức sống dân cư và giảm tỷ lệ nghèo đói tại VN. Chuẩn nghèo thay đổi
theo các năm. Chuẩn nghèo của Chính phủ VN thời kỳ 2006-2010 là
200.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 260.000
đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Chuẩn nghèo thực phẩm là
146.000 đồng/người/tháng đối với nông thôn và 163.000 đồng/người/tháng
đối với khu vực thành thị. Đây là một thành tích đáng khích lệ về giảm
nghèo tại VN đã được các tổ chức quốc tế công nhận. VN là một trong số ít
các nước đã và đang thực hiện tốt chiến lược thiên niên kỷ-tăng trưởng và
giảm nghèo.
Điều này đã tác động tích cực đến sức mua trong nước, trong đó có
nghành chế biến sữa. Thu nhập của người dân được nâng cao, người dân sẽ
quan tâm hơn đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là
trẻ em và sẽ tăng chi tiêu cho việc tiêu dùng các sản phẩm giàu chất dinh
dưỡng như sữa.
2.Yếu tố chính trị, luật pháp
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên
một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn
tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị
hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế
luật pháp của khu vực đó.

Việt Nam là một đất nước có thể chế chính trị và pháp luật ổn định,
các chính sách của nhà nước đưa ra có ảnh hưởng rất lớn tới doanh nghiệp,
như các chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển
kinh tế, thuế, các chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng
Nó đã tạo ra điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam ra nhập WTO là cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp nước ngoài cùng nghành thâm nhập và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình tại Việt Nam. Đặc biệt, các công ty này
thường có vốn lớn và được sự hỗ trợ của nước sở tại của họ thông qua các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu…Bên cạnh đó,việc giảm thuế nhập khẩu(0%)
đối với các sản phẩm sữa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm sữa
ngoại nhập. Điều đó cũng tạo ra nhiều thách thức cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của Vinamilk đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội để doanh
nghiệp có thể thực hiện liên doanh để khai thác những mặt mạnh về kỹ
thuật, tiếp thị của các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Yếu tố văn hóa – xã hội
Việt Nam là một đất nước có dân số trẻ và có quá trình đô thị hóa
phát triển. Hiện nay trên 50% dân số đang ở độ tuổi từ 29 trở xuống.
Trên thực tế, sữa nước được người tiêu dùng sử dụng ở hầu hết các
lứa tuổi, đặc biệt lứa tuổi từ 7-29 tuổi. Điều này tạo ra cơ hội rất tốt cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sữa nói chung và mặt hàng sữa nước nói
riêng với một thị trường tiêu thụ lớn và đang ngày càng phát triển.
4. Yếu tố công nghệ
Cho đến nay, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) vẫn đang
là doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa của Việt
Nam. Ban lãnh đạo Vinamilk luôn coi trọng yếu tố khoa học và công nghệ,
tuỳ thuộc vào nguồn vốn, nhu cầu của thị trường, cơ cấu sản phẩm để đầu
tư chuyển đổi công nghệ kịp thời
Vinamilk đã triển khai 3 đợt đánh giá trình độ công nghệ của sản

xuất. Việc tổ chức đánh giá trình độ công nghệ nhằm mục tiêu nhận biết
xuất phát điểm của từng thời kỳ, mà ở đó, có thể so sánh trình độ công
nghệ của Công ty so với trình độ công nghệ của thế giới. Sau mỗi đợt đánh
giá trình độ công nghệ, Vinamilk lại điều chỉnh hoạt động đầu tư chuyển
đổi công nghệ. Hiện nay, có thể khẳng định được rằng, lĩnh vực chế biến
sữa Việt Nam nói chung và của Vinamilk nói riêng đã đạt tới trình độ tiên
tiến, hiện đại của thế giới cả về công nghệ lẫn trang thiết bị qua một vài ví
dụ sau đây:
- Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất sữa bột sấy phun từ công
nghệ “gõ” sang công nghệ “thổi khí”;
- Công nghệ và thiết bị thu mua sữa tươi của nông dân, đảm bảo
thu mua hết lượng sữa bò, thúc đẩy ngành chăn nuôi bò sữa trong nước;
- Công nghệ tiệt trùng nhanh nhiệt độ cao để sản xuất sữa tươi tiệt
trùng;
- Đầu tư và đổi mới công nghệ sản xuất vỏ lon 2 mảnh;
- Đổi mới công nghệ chiết lon sữa bột, nhằm ổn định chất lượng
sản phẩm, nâng cao thời gian bảo quan và đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm;
- Đầu tư đổi mới dây chuyền đồng bộ sản xuất sữa đậu nành;
- Đầu tư thiết bị mới hiện đại trong lĩnh vực đa dạng hoá bao bì
sản phẩm;
- Đầu tư công nghệ thông tin và điều khiển tự động chương trình
trong dây chuyền công nghệ, nhằm kiểm soát chặt chẽ các thông số công
nghệ để tạo ra sản phẩm luôn đạt các chỉ tiêu chất lượng theo mong muốn
và ổn định
- Thay đổi công nghệ quản lý chất lượng sản phẩm theo đối tượng
sản phẩm sang quản lý chất lượng theo hệ thống mang tính khoa học như:
ISO-9000-2000, HACCP (phân tích mối nguy hại và kiểm soát điểm tới
hạn). Hiện tại, tất cả các đơn vị thành viên của Vinamilk đã áp dụng ISO
9000-2000, HACCP và đang đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải

hiện đại, đồng bộ, đạt các chỉ tiêu môi trường của Việt Nam về BOD,
COD, TSS
II. MÔI TRƯỜNG VI MÔ
1. Khách hàng
Tai sao khách hàng lai có nhu cầu sử dụng sữa?
Có thể vì mục đích bản thân: mua sữa cho mình uống, cho gia đình,
người thân: uống sữa nhằm đỡ đói, bồi bổ sức khoe, giải độc với các lao
động làm việc ở các khu vực, lĩnh vực độc hại.
Có thể vì người khác: mua cho bạn bè, người quen, thăm nom người
ốm
=>từ đó mà họ lựa chọn các loại hình sữa thích hợp cho mình: sữa
đặc có đường, sữa tươi, sữa bột……
Trong hoàn cảnh nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng thì người tiêu
dùng thường nghĩ tới khái niệm tiết kiệm tới mức tối đa nhằm giảm tối đa
mức chi phí hàng ngày hàng tháng.
Một số đối tượng điều kiện sống của họ đã quá dư thừa, có thể nghĩ
tới các mặt hàng cao cấp hơn hoặc ko đủ điều kiện để sử dụng các sản
phẩm sữa của vinamilk.
Người mua hàng là người sẽ cho ra quyết định cuối cùng là sẽ mua
hay ko, nếu mua thì sẽ mua sản phẩm loại gi. Bạn bè, người thân: là những
người sẽ có những ý kiến đóng góp , tư vấn cho khách hàng khi mua hàng,
nên mua những gì, và họ rất có ảnh hưởng tới quyết định của người mua
hàng.
Các chuyên gia trong lĩnh vực chế biến sản xuất sữa, chuyên gia
nghiên cứu về phẩm chất của sữa đưa ra kết luận, tư vấn.
Các đặc tính và thông tin của sp ( tốt, độ đạm cao, lương chất béo,
đường, lượng năng lượng mà sp sữa mang lại).
Năm 2008, trong khi nhiều nhà sản xuất sữa lao đao vì “cơn bão
Melamine”, Vinamilk vẫn vững vàng và khẳng định vị thế cũng như chất
lượng. Vinamilk đã chủ động gửi tất cả các mẫu nguyên liệu đầu vào và

thành phẩm của mình đi kiểm nghiệm và kết quả cho thấy không có mẫu
nào nhiễm melamine.
Sữa và các sản phẩm từ sữa của công ty chiếm khoảng 50% thị phần
toàn quốc. Danh mục sản phẩm của Vinamilk bao gồm: sản phẩm chủ lực
là sữa tươi, sữa bột và sản phẩm có giá trị cộng thêm như sữa đặc, yoghurt
ăn và yoghurt uống, kem và phô mai.
Với bề dày lịch sử có mặt trên thị trường Việt Nam, Vinamilk có khả
năng xác định và am hiểu xu hướng và thị hiếu tiêu dùng. Điều này giúp
Vinamilk tập trung những nỗ lực phát triển những sản phẩm cho các phân
khúc thị trường có thể mang lại thành công cao. Cụ thể như dòng sản phẩm
sữa Vinamilk dành cho trẻ em như Milk kid … đã trở thành một trong
những sản phẩm sữa bán chạy nhất dành cho phân khúc thị trường trẻ em
từ 6 đến 12 tuổi trong năm 2007.
2. Đối thủ cạnh tranh
Tính thị phần theo giá trị thì Vinamilk và Dutch Lady hiện là 2 công
ty sản xuất sữa lớn nhất cả nước, đang chiếm gần 60% thị phần.
Sữa ngoại nhập từ các hãng như Mead Johnson, Abbott, Nestle
chiếm khoảng 22% thị phần, với các sản phẩm chủ yếu là sữa bột.
Còn lại 19% thị phần thuộc về khoảng trên 20 công ty sữa có quy mô nhỏ
như Nutifood, Hanoi milk, Ba Vì…
Sữa bột hiện đang là phân khúc cạnh tranh khốc liệt nhất giữa các
sản phẩm trong nước và nhập khẩu. Trên thị trường sữa bột, các loại sữa
nhập khẩu chiếm khoảng 65% thị phần, Vinamilk và Dutch Lady hiện đang
chiếm giữ thị phần lần lượt là 16 % và 20%.
Hiện nay các hãng sản xuất sữa trong nước còn đang chịu sức ép
cạnh tranh ngày một gia tăng do việc giảm thuế cho sữa ngoại nhập theo
chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các cam kết
CEPT/AFTA của khu vực ASEAN và cam kết với Tổ chức Thương mại
thế giới WTO.
Công ty Vinamilk với sản phẩm đa dạng, có lợi thế về hệ thống phân

phối rộng khắp, do đó ngành hàng sữa tươi - tiệt trùng được dự báo vẫn sẽ
được người tiêu dùng tin tưởng trong thời gian tới. Tuy vậy, Vinamilk
cũng sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Dutch Lady, Netslé, Mộc Châu và
HanoiMilk.
Số liệu khảo sát cho thấy, số người tiêu dùng cho biết sẽ tiếp tục
chọn mua sữa tươi - tiệt trùng của Vinamilk cao nhất, chẳng hạn sữa tươi
100% nguyên chất có đường của Vinamilk là 26,5%. Đối với Dutch Lady,
có 15,3% số người tiêu dùng trả lời sẽ sử dụng sữa tiệt trùng 100% nguyên
chất có đường trong thời gian tới; 10,9% chọn sử dụng sữa có đường.
Sữa chua uống Dutch Lady và Vinamilk có tỷ lệ người tiêu dùng dự
định lựa chọn trong thời gian tới khá cao. Có 12,4% người tiêu dùng cho
biết sẽ sử dụng sản phẩm sữa chua uống Yomost của Dutch Lady. Trong
khi đó, sản phẩm sữa chua uống của Vinamilk cũng có tỷ lệ khá cao với
8,5% người tiêu dùng cho biết sử dụng sản phẩm sữa chua uống vị trái cây
tổng hợp. Điều này cho thấy, Dutch Lady đang duy trì được sự cạnh tranh
cần thiết với Vinamilk trong phân khúc thị trường sữa chua.
Thông thường, các doanh nghiệp không đủ tiềm lực tài chính để dẫn
đầu trong toàn bộ các lĩnh vực, vì vậy họ cần phải tập trung nguồn lực của
mình vào một số lĩnh vực để dẫn đầu trong lĩnh vực đó. Có 3 cách lựa chọn
định vị thương hiệu rộng mà người ta phải chú ý, bao gồm:
Một là, trở thành nhà sản xuất sản phẩm độc đáo phân biệt với các
sản phẩm khác. Điển hình của phương pháp lựa chọn này là Dutch Lady.
Năm 2006, nhãn hàng Friso Gold của công ty sữa Dutch Lady tăng cường
miễn dịch cho trẻ em, tạo đột biến về sản phẩm sữa, làm cho những nhãn
hàng theo sau như Dumex Gold và sữa mới Arla của Đan Mạch không thể
địch nổi.
Cũng lựa chọn phương pháp định vị này, LachiFood đã sản xuất ra
những sản phẩm sữa bột cũng dành cho trẻ em, nhưng có sự phân biệt sữa
của bé trai và sữa của bé gái, với nhãn hiệu LachiEQ của mình. Công ty
Vinamilk thì chọn sữa đậu nành Soya độc đáo.

Hai là, dẫn đầu về giá thành thấp nhất. Công ty sữa NutiFood đã
chọn cách thức này cho sản phẩm sữa bột Nuti của mình. Nuti vừa có thêm
loại 20g với giá cực rẻ (với dung lượng nhỏ) cũng kiếm được rất nhiều thị
phần ở khu vực vùng nông thôn và bên cạnh những khu công nghiệp.
Ba là, khai thác thị trường chuyên biệt hay trở thành người phục vụ
các thị trường chuyên biệt. Thị trường chuyên biệt trong ngành sữa thường
là dinh dưỡng cho người lớn tuổi và dinh dưỡng dành cho theo bệnh lý như
(suy dinh dưỡng, bệnh lý…). Vượt trội trong cung cấp calcium cho người
lớn tuổi, nhãn hàng Anlene của công ty Fonterra đã chiếm đến 80% thị
phần trong ngành hàng chuyên biệt này.
Cũng như nhãn hàng Fristi của Dutch Lady chuyên về sữa tươi dành
cho trẻ em hiếu động và mê truyện tranh ra đời tạo đột biến về một phân
khúc thị trường mới lạ. Công ty Nestlé thì chọn phân khúc sản phẩm ăn
dặm cho trẻ nhỏ làm một đối trọng để kích sản phẩm sữa bột của mình.
Người tiêu dùng thường cho rằng đồng tiền họ bỏ ra để sở hữu một
hàng hóa phải xứng đáng với giá trị của nó. Vì vậy, trong định vị thương
hiệu, các công ty thường định vị một cách an toàn để người mua lượng hóa
được chi phí họ bỏ ra để có được một giá trị hữu dụng thỏa đáng. Trong
ngành sữa, giá trị hữu dụng đó chính là dinh dưỡng cho người tiêu dùng và
người thân của họ.
3. Khả năng của công ty
a. Vị trí đầu ngành được hỗ trợ bởi thương hiệu được xây dựng
tốt
Kể từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 1976, Vinamilk đã xây dựng
một thương hiệu mạnh cho sản phẩm sữa tại thị trường Việt Nam. Thương
hiệu Vinamilk được sử dụng từ khi công ty mới bắt đầu thành lập và hiện
nay là một thương hiệu sữa được biết đến rộng rãi tại Việt Nam.
Vinamilk đã thống lĩnh thị trường nhờ tập trung quảng cáo, tiếp thị
và không ngừng đổi mới sản phẩm và đảm bảo chất lượng. Với bề dày lịch
sử có mặt trên thị trường Việt Nam, Vinamilk có khả năng xác định và am

hiểu xu hướng và thị hiếu tiêu dùng, điều này giúp Vinamilk tập trung
những nỗ lực phát triển để xác định đặc tính sản phẩm do người tiêu dùng
đánh giá. Chẳng hạn, sự am hiểu sâu sắc và nỗ lực của mình đã giúp dòng
sản phẩm Vinamilk Kid trở thành một trong những sản phẩm sữa bán chạy
nhất dành cho khúc thị trường trẻ em từ 6 đến 12 tuổi tại Việt Nam trong
năm 2007.
b. Danh mục sản phẩm đa dạng và mạnh
Vinamilk cung cấp các sản phẩm sữa đa dạng phục vụ nhiều đối
tượng người tiêu dùng. Có các dòng sản phẩm nhắm đến một số khách
hàng mục tiêu chuyên biệt như trẻ nhỏ, người lớn và người già cùng với
các sản phẩm dành cho hộ gia đình và các cở sở kinh doanh như quán café.
Bên cạnh đó, thông qua việc cung cấp các sản phẩm đa dạng đến người
tiêu dùng với các kích cỡ bao bì khác nhau, Vinamilk mang đến cho khách
hàng tại thị trường Việt Nam các sản phẩm sữa tiện dụng có thể mang theo
dễ dàng.
c. Mạng lưới phân phối và bán hàng rộng khắp
Mạng lưới phân phối và bán hàng rộng khắp của là yếu tố thiết yếu
dẫn đến thành công trong hoạt động, cho phép Vinamilk chiếm được số
lượng lớn khách hàng và đảm bảo việc đưa ra các sản phẩm mới và các
chiến lượng tiếp thị hiệu quả trên cả nước. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2007, Vinamilk đã bán sản phẩm thông qua 201 nhà phân phối cùng với
hơn 141.000 đểm bán hàng tại toàn bộ 64 tỉnh thành của cả nước. Đội ngũ
bán hàng nhiều kinh nghiệm gồm 1.787 nhân viên bán hàng trên khắp đất
nước đã hỗ trợ cho các nhà phân phối phục vụ tốt hơn các cửa hàng bán lẻ
và người tiêu dùng, đồng thời quảng bá sản phẩm của chúng tôi. Đội ngũ
bán hàng còn kiêm nhiệm phục vụ và hỗ trợ các hoạt động phân phối đồng
thời phát triển các quan hệ với các nhà phân phối và bán lẻ mới. Ngoài ra
còn tổ chức nhiều hoạt động quảng bá, tiếp thị với các nhà phân phối địa
phương nhằm quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu trên khắp đất
nước.

Cùng với mạng lưới phân phối trong nước, Vinamilk hiện tại đang
đàm phán các hợp đồng cung cấp với các đối tác tiềm năng tại các nước
như Thái Lan, Úc và Mỹ.
Vinamilk cũng là một trong số ít các công ty thực phẩm và thức
uống có trang bị hệ thống bán hàng bằng tủ mát, tủ đông. Việc đầu tư hệ
thống bán hàng tủ mát, tủ đông là một rào cảng lớn đối với các đối thủ
cạnh tranh muốn tham gia vào thị trường thực phẩm và thức uống, bởi việc
trang bị hệ thống bán hàng tủ mát, tủ đông này đòi hỏi một khoản đầu tư
rất lớn.
d. Quan hệ bền vững với các nhà cung cấp, đảm bảo nguồn sữa
đáng tin cậy.
Nguồn cung cấp sữa nguyên liệu chất lượng và ổn định đặc biệt quan
trọng đối với công việc kinh doanh . Do vậy, Vinamilk đã xây dựng các
quan hệ bền vững với các nhà cung cấp thông qua chính sách đánh giá, hỗ
trợ tài chính cho nông dân để mua bò sữa và mua sữa có chất lượng tốt với
giá cao. Ký kết hợp đồng hàng năm với các nhà cung cấp sữa và hiện tại
40% sữa nguyên liệu được mua từ nguồn sản xuất trong nước. Các nhà
máy sản xuất được đặt tại các vị trí chiến lược gần nông trại bò sữa, cho
phép duy trì và đẩy mạnh quan hệ với các nhà cung cấp. Đồng thời cũng
tuyển chọn rất kỹ vị trí đặt trung tâm thu mua sữa để đảm bảo sữa tươi và
chất lượng tốt. Nhập khẩu sữa bột từ Úc, New Zealand để đáp ứng nhu cầu
sản xuất cả về số lượng lẫn chất lượng. Vinamilk cho rằng khả năng duy trì
nguồn cung sữa nguyên liệu ổn định vô cùng quan trọng đối với việc kinh
doanh, giúp chúng tôi duy trì và tăng sản lượng.
e. Năng lực nghiên cứu và phát triển theo định hướng thị trường
Vinamilk có một đội ngũ tiếp thị và bán hàng có kinh nghiệm về
phân tích và xác định thị hiếu và xu hướng tiêu dùng, đồng thời hỗ trợ các
nhân viên bán hàng trực tiếp, những người hiểu rõ thị hiếu người tiêu cùng
thông qua việc tiếp cận thường xuyên với khách hàng tại nhiều điểm bán
hàng. Chẳng hạn, sự am hiểu về thị hiếu của trẻ em từ 6 đến 12 tuổi đã

giúp chúng tôi đưa ra thành công chiến lược tiếp thị mang tên Vinamilk
Milk Kid vào tháng 5 năm 2007. Kết quả của chiến lược tiếp thị này là
Vinamilk Milk Kid trở thành mặt hàng sữa bán chạy nhất trong khúc thị
trường trẻ em từ 6 đến 12 tuổi vào tháng 12 năm 2007.
Ngoài ra, Vinamilk còn có khả năng nghiên cứu và phát triển sản
phẩm trên quan điểm nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng dòng sản
phẩm cho người tiêu dùng. Có đội ngũ nghiên cứu và phát triển gồm 10 kỹ
sư và một nhân viên kỹ thuật. Các nhân sự làm công tác nghiên cứu phối
hợp chặt chẽ với bộ phận tiếp thị, bộ phận này liên tục cộng tác với các tổ
chức nghiên cứu thị trường để xác định xu hướng và thị hiếu tiêu dùng.
Vinamilk tin tưởng rằng khả năng phát triển sản phẩm mới dựa trên thị
hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng là yếu tố then chốt mang lại thành
công, đồng thời sẽ tiếp tục giữ vai trò chủ đạo cho sự tăng trưởng và phát
triển trong tương lai. Với nỗ lực nhằm đảm bảo rằng sản phẩm của
Vinamilk sánh vai với với xu hướng tiêu thụ mới nhất, chủ động thực hiện
nghiên cứu và hợp tác với các công ty nghiên cứu thị trường để tìm hiểu
các xu hướng và hoạt động bán hàng, phản hồi của người tiêu dùng cũng
như các phương tiện truyền thông có liên quan đến vấn đề thực phẩm và
thức uống.
Kinh nghiệm quản lý tốt được chứng minh bởi kết quả hoạt động
kinh doanh bền vững
Vinamilk được quản lý bởi một đội ngũ nhiệt tình và giàu kinh
nghiệm trong ngành. Chủ tịch Mai Kiều Liên có 30 năm kinh nghiệm trong
ngành sữa tại công ty và giữ một vai trò chủ chốt trong quá trình tăng
trưởng và phát triển của công ty cho đến hôm nay. Đội ngũ tiếp thị được
lãnh đạo bởi ông Trần Bảo Minh, người có 10 năm kinh nghiệm về tiếp thị
và xây dựng thương hiệu trong ngành thức uống và đã có công khôi phục
lại hình ảnh của thương hiệu và một cuộc cách mạng sản phẩm. Các thành
viên quản lý cấp cao khác có trung bình 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh
vực sản xuất, phân phối và bán sản phẩm sữa. Chúng tôi cũng có một đội

ngũ quản lý bật trung vững mạnh được trang bị tốt nhằm hỗ trợ cho quản lý
cấp cao đồng thời tiếp thêm sức trẻ và long nhiệt tình vào sự nghiệp phát
triển của Công ty.
f. Thiết bị và công nghệ sản xuất đạt chuẩn quốc tế
Vinamilk sử dụng công nghệ sản xuất và đóng gói hiện đại tại tất cả
các nhà máy. Nhập khẩu công nghệ từ các nước châu Âu như Đức, Ý và
Thụy Sĩ để ứng dụng vào dây chuyền sản xuất. Vinamilk là công ty duy
nhất tại Việt Nam sở hữu hệ thống máy móc sử dụng công nghệ sấy phun
do Niro của Đan Mạch, hãng dẫn đầu thế giới về công nghệ sấy công
nghiệp, sản xuất. Các công ty như Cô gái Hà Lan (công ty trực thuộc của
Friesland Foods), Nestle và New Zealand Milk cũng sử dụng công nghệ
này và quy trình sản xuất. Ngoài ra, Vinamilk còn sử dụng các dây chuyền
sản xuất đạt chuẩn quốc tế do Tetra Pak cung cấp để cho ra sản phẩm sữa
và các sản phẩm giá trị công thêm khác.
Phần II: ÁP DỤNG MÔ HÌNH SWOT TRONG VIỆC
ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
A. Cụ thể hóa các nhân tố tác động thành sức mạnh (S), điểm
yếu (W), cơ hội (O) và thách thức (T)
I. Điểm mạnh của công ty Vinamilk (strength)
1. Đa dạng về chủng loại sản phẩm
Hiện nay, Cty Vinamilk có trên 200 mặt hàng sữa và sản phẩm từ sữa,
cung cấp cho thị trường một danh mục các sản phẩm, hương vị và qui cách
bao bì có nhiều lựa chọn nhất. Sản phẩm của Vinamilk rất đa dạng về
chủng loại :
Sữa tươi Dành cho bà mẹ Sữa đậu nành Café hoà tan Ông Thọ
Sữa chua ăn Dành cho trẻ em Nước trái cây Café rang xay Ngôi sao Phương Nam
Sữa chua uống Smoothie
Sữa chua men sống
Kem
Phô mai

Trong đó, các nhãn hàng hiện đang dẫn đầu trên thị trường bao gồm: Sữa
tươi Vinamilk, Sữa đặc, Sữa bột Dielac, Nước ép trái cây V-Fresh,
Vinamilk Café
2. Hệ thống trang trại bò sữa có quy mô lớn giúp Vinamilk chủ động
tạo lập được nguồn nguyên liệu sữa tươi ổn định, bền vững.
Hiện nay công ty sữa Vinamilk có 4 trang trại bò sữa lớn đặt tại các tỉnh
Nghệ An, Tuyên Quang, Lâm Đồng và Thanh Hóa. Đây đều là những địa
bàn có nhiều thuận lợi cho việc phát triển trang trại chăn nuôi bò sữa quy
mô lớn do còn quỹ đất, đất đai màu mỡ và thời tiết tương đối thuận lợi.
Đặc biệt, trang trại bò sữa Nghệ An - khánh thành ngày 25/09/2009 vừa
qua là một trang trại chăn nuôi bò sữa hiện đại bậc nhất Việt Nam và Đông
Sản phẩm
Vinamilk
Vinamilk DIELAC V - fresh Vinamilk café Sữa đặc
Nam Á với vốn đầu tư hơn 100 tỷ đồng. Trang trại này có quy mô chăn
nuôi là 3.000 con với 1.500 vắt sữa, cung cấp mỗi ngày 30 tấn sữa cho nhà
máy chế biến sữa của Vinamilk tại Nghệ An.
3. Áp dụng công nghệ hiện đại trong quy trình sản xuất
3.1.Bò được vắt sữa trong hệ thống vắt sữa hiện đại và tự động.
Mỗi con bò sẽ được đeo con chíp điện
tử để kiểm tra sản lượng sữa chính xác
từng cá thể. Cũng thông qua các chíp
điện tử, đàn bò sẽ được quản lý bằng hệ
thống Alpro hiện đại do công ty Delaval
cung cấp. Đàn bò được cho ăn theo
phương pháp TMR (Khẩu phần trộn tổng hợp Total Mixed Ration) và được
phân phối bằng các thiết bị chuyên dùng. Bên cạch đó, trang trại cũng
được đầu tư hệ thống sử lý chất thải hiện đại nhằm bảo vệ môi trường.
Toàn bộ chất thải rắn từ trang trại sẽ được thu hồi sản xuất phân bón cho
các đồng cỏ. Nước thải sẽ được xử lý sinh học thông qua hồ lắng và sử

dụng tưới cho đồng cỏ.
3.2.Áp dụng công nghệ phối giống tinh giới tính toàn cái
Vinamilk là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam áp dụng công nghệ này và
những bê cái gieo từ tinh giới tính đầu tiên tại Việt Nam đã ra đời tại trang
trại Phú Lâm Tuyên Quang.
3.3 Ngoài ra trang trại bò sữa còn có những hệ thống máy móc hiện
hiện đại khác như hệ thống nệm cho bò nằm nghỉ, hệ thống máy cào phân
tự động
Bò nằm nghỉ thoải mái trên hệ thống nệm Hệ thống máy cào phân tự động
4. Sản phẩm của Vinamilk có chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực
phẩm và không có chất Melamine
Để tránh mọi rủi ro và tạo sự yên tâm tuyệt đối cho người tiêu dùng,
Vinamilk đã cho kiểm nghiệm chất Melamine với tất cả các mẫu nguyên
liệu sữa bột nhập khẩu (từ New Zeland, Mỹ và châu Âu) và sữa bò tươi thu
mua từ nông dân tại Trung Tâm Dịch Vụ Phân Tích Thí Nghiệm thuộc sở
Khoa học và Công Nghệ Tp.HCM. Kết quả kiểm nghiệm của tất cả các
mẫu nguyên liệu đều không phát hiện Melamine trong thành phần. Người
tiêu dùng chắc chắn yên tâm khi sử dụng các sản phẩm từ sữa của
Vinamilk.
Dư luận gần đây một lần nữa lại nêu lên hiện tượng có một số doanh
nghiệp sử dụng sữa bột hoàn nguyên nhưng lại ghi nhận là sữa tươi để
đánh lừa người tiêu dùng. Để tránh sự hiểu lầm, Bà Mai Kiều Liên - Tổng
Giám Đốc Công Ty cổ phần sữa Việt Nam - Vinamilk đã chủ động cung
cấp những thông tin liên quan đến sản phẩm sữa tươi và khẳng định sữa
tươi tuyệt trùng Vinamilk làm từ sữa tươi nguyên chất 100%
5. Doanh nghiệp đã có thị phần lớn trên thị trường trong nước và đang
tiến hành xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài
Hiện nay, Vinamilk chiếm gần 75% thị trường các sản phẩm sữa trên cả
nước, là một trong những công ty có giá trị vốn hoá lớn nhất thị trường
(chiếm 7%).

Với mục tiêu mở rộng thị trường ra nước ngoài, từ năm 1998 đến nay,
Vinamilk đã xuất khẩu các sản phẩm của mình sang các nước Mỹ, Úc, Ấn
Độ, Trung Đông, Châu Phi, Ba Lan, Đức, Trung Quốc và các nước
ASEAN với tổng kim ngạch đạt 649,1 triệu USD.
6. Ban lãnh đạo có tài, chủ động, sáng tạo trong kinh doanh
Vinamilk không chỉ nổi tiếng về chất lượng sản phẩm mà còn rất nổi
tiếng vì có vị lãnh đạo tài ba: Bà Mai Kiều Liên- chủ tịch HĐQT kiêm
Tổng giám đốc công ty.
Bà là người đặt nền móng đầu tiên cho việc sản xuất công nghiệp sữa
chua, sữa tươi tiệt trùng, sữa bột dinh dưỡng cho trẻ em tại Việt Nam; Là
tác giả và
Đồng tác giả của 90% sản phẩm sữa đang lưu hành trên thị trường. Thị
phần nội địa chiếm 50- 90% tùy từng chủng loại; Vốn sở hữu chủ tăng 10
lần; Giá trị thương hiệu Vinamilk đạt gần 1 tỷ USD; thu nhập bình quân
của người lao động tăng 28% (5,5 triệu đồng/ tháng). Nguồn vốn luôn được
bảo toàn và phát triển không ngừng. Năm 2005, bà được Tổ chức Sở hữu
trí tuệ Thế giới trao tặng Giải Nhất Sáng Tạo năm 2004 và vinh dự được
Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh Hùng Lao Động thời kỳ đổi mới (năm
2005), Huân chương Lao động Hạng I (năm 2006).
7. Vinamilk có đội ngũ kỹ sư chuyên ngành sữa giỏi và có chính sách
đầu tư tạo nguồn nhân lực tri thức cao.
Với chiến lược phát triển của ngành sữa hiện nay, Công ty Sữa
Vinamilk đã xác định yếu tố “con người” sẽ quyết định đến sự thành công
hay thất bại của doanh nghiệp. Xây dựng lực lượng lao động kế thừa gắn
bó với công ty trong tương lai, năm 1993, Vinamilk đã ký hợp đồng dài
hạn với Trường Đại học Công nghệ sinh học ứng dụng Moscow thuộc
Liên bang Nga để gửi con em cán bộ, công nhân viên sang học ở các
ngành: công nghệ sữa và các sản phẩm từ sữa; tự động hóa quy trình công
nghệ và sản xuất; máy móc thiết bị sản xuất thực phẩm; quản lý trong
ngành sữa.

Con em của cán bộ công nhân viên nào vừa đậu đại học hoặc đang học
tại các trường đại học chính quy, học lực giỏi, có nhu cầu về làm tại
Vinamilk, công ty sẽ đài thọ chi phí đưa các em sang học chuyên ngành
sinh vật tại Nga trong thời gian 6 năm. Đến nay, công ty đã hỗ trợ cho hơn
50 em đi học theo diện này.
Không chỉ hỗ trợ con em trong ngành, Vinamilk còn tuyển sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi ở các trường đại học tại TPHCM và đưa đi du học chuyên
ngành ở nước ngoài. Nhờ những chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” được thực
hiện một cách bài bản, Vinamilk đã đào tạo được đội ngũ kỹ sư chuyên
ngành sữa giỏi.
8. Chiến lược quảng cáo có hiệu quả
Vinamilk đã và đang có chiến dịch quảng cáo rất hiệu quả:
+) Tham gia sáng lập Quỹ 1 triệu ly sữa cho trẻ em nghèo Việt Nam từ
ngày 30/06/2008 cùng với Quỹ Bảo trợ trẻ em VN. Quỹ đã đi tới hơn 28
tỉnh thành trong cả nước cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của xã hội như: Cao
Bằng, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Bến Tre, Bình Phước…
Sau 4 tháng hoạt động, với sự đóng góp, ủng hộ của Người tiêu dùng
trong cả nước và Khách Hàng, đối tác chiến lược của Công Ty, Nhà Cung
Cấp và cả cán Bộ Công nhân viên Công Ty Vinamilk, từ số lượng
1.000.000 ly sữa ban đầu với tổng trị giá là 3 tỷ đồng đã tăng lên thành
13,5 tỷ đồng, tương đương 4.300.000 ly sữa.
Với chiến dịch thành công này, Vinamilk đã tạo được một hình ảnh
đẹp và ấn tượng rất tốt đối với người tiêu dùng, các đối tác, các nhà phân
phối, các nhà cung cấp cũng như toàn xã hội. Không những thế, chương
trình cũng đánh một hồi chuông cảnh tỉnh mọi người về tầm quan trọng
của việc uống sữa đối với trẻ em, cảnh tỉnh mọi người về con số trẻ suy
dinh dưỡng, thiếu chất ở Việt Nam. Đây sẽ là một yếu tố kích thích lượng
cầu về sữa dành cho trẻ em trên thị trường Việt Nam.
+) Các sản phẩm của Vinamilk được quảng cáo rất rộng rãi trên các
phương tiện truyền thông như Tivi, báo… đem đến thông tin và hình ảnh

về các sản phẩm của Vinamilk với người tiêu dùng một cách thường
xuyên, liên tục.
9. Hệ thống kênh phân phối rộng nhất tại Việt Nam
Từ khi bắt đầu đi vào hoạt động năm 1976, Công ty đã xây dựng hệ
thống phân phối rộng nhất tại Việt Nam và đã làm đòn bẩy để giới thiệu
các sản phẩm mới như nước ép, sữa đậu nành, nước uống đóng chai và
café cho thị trường. Hiện nay, công ty đã sở hữu một hệ thống phân phối sỉ
gồm 220 nhà phân phối, có mặt tại 64 tỉnh thành.
10. Vinamilk đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh vào ngày 19 tháng 01 năm 2006, khi đó vốn của Tổng Công ty Đầu
tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước có tỷ lệ nắm giữ là 50.01% vốn điều lệ
của Công ty. Việc Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán tạo điều
kiện cho việc công ty huy động vốn từ công chúng trở nên thuận lợi hơn.
Bên cạnh đó, ngày 12/11/2008 Vinamilk cũng đã niêm yết trên thị
trường chứng khoán Singapore SGX-ST. Công ty được phép phát hành và
niêm yết 8763784 cổ phiếu phổ thông mới trên sàn giao dịch chính của
SGX – ST. Ngoài mục tiêu quốc tế hoá thương hiệu Vinamilk, việc niêm
yết này còn tạo điều kiện cho việc huy động vốn từ thị trường tài chính
quốc tế và chiến lược mở rộng và phát triển của công ty
11. Vinamilk đã xây dựng được cho mình một thương hiệu nổi tiếng
Phần lớn sản phẩm của Công ty cung cấp cho thị trường dưới thương
hiệu “Vinamilk”, thương hiệu này được bình chọn là một “Thương hiệu
Nổi tiếng” và là một trong nhóm 100 thương hiệu mạnh nhất do Bộ Công
Thương bình chọn năm 2006. Vinamilk cũng được bình chọn trong nhóm
“Top 10 Hàng Việt Nam chất lượng cao” từ năm 1995 đến năm 2007.
II. Điểm yếu (weakness)
1. Hình thức khuyến mại đưa ra hấp dẫn nhưng khâu thực hiện phát
sinh nhiều vấn đề gây tranh cãi :
Vinamilk khuyến mãi thiếu trung thực :Từ ngày 15.11.2008 đến

15.1.2009, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk tổ chức chương trình
khuyến mãi “Thời trang cho mẹ, quà thông minh cho bé” dành cho các sản
phẩm Dielac Alpha 123, Dielac Alpha 456, Dielac Mama và Dielac Pedia.
Ngày 13.1.2009, 1 khách hàng đủ 7 màng nhôm hộp thiếc 900g (14
điểm), đủ số điểm mà chương trình đưa ra để đổi được chiếc máy tính
thông minh dành cho trẻ. Khi đưa ra cửa hàng đổi quả, Chủ cửa hàng đã
gọi điện ngay cho nhân viên giao hàng của đại lý Vinalmilk ở TP. Quy
Nhơn để hỏi thông tin. Người phụ trách trả lời là chương trình khuyến mãi
đã hết hạn Chủ tiệm đành xin lỗi và hẹn sẽ gọi ngay khi có quà khuyến
mãi.
Sáng ngày 15.1.2009 chủ tiệm tạp hóa cho biết hàng khuyến mãi
máy vi tính thông minh dành cho địa bàn TP. Quy Nhơn chỉ có 10 máy.
Anh Ngọc, nhân viên đại lý Vinamilk đã nỗ lực hỏi thăm quà khuyến mãi
nhưng vì số lượng có hạn nên trường hợp của tôi không được chấp nhận
mà sẽ chuyển qua nhận túi xách.
Chương trình khuyến mãi của Vinamilk lại làm cho khách cảm thấy
mình bị xúc phạm, bị lừa.
Trần Mỹ Hoa là học sinh trường Diên Hồng, đến quầy Vinamilk chờ
đổi quà từ hồi 13h ngày 15/11. Hơn 19h cùng ngày, xung quanh quầy còn
nhiều em nhỏ là fan hâm mộ của bộ sưu tập quà tặng Vinamilk cũng đang
chờ đổi hộp bút.
Trong suốt ngày 15/11 - hạn chót đổi quà khuyến mãi, hàng trăm
người đến các quầy đổi quà khuyến mãi Vinamilk để nhận thưởng nhưng
được nhân viên trực thông báo không có hàng và hẹn chờ. Tình trạng hỗn
độn, bực tức, chửi bới diễn ra ầm ĩ tại 15 siêu thị ở TP HCM. Nhiều khách
hàng nổi giận vì bị hẹn quá nhiều lần và thái độ ứng xử của nhân viên
Vinamilk chưa đúng mực.
Trưởng bộ phận Marketing Coopmark Lý Thường Kiệt, bà Nguyễn
Thị Kim Dung xác nhận có xảy ra tranh cãi to tiếng giữa khách hàng và
nhân viên Vinamilk. Theo bà Dung, nguyên nhân từ bộ phận đổi quà chưa

có cách giải thích thỏa đáng và viết giấy hẹn quá nhiều lần đã làm khách
hàng nổi giận.
Trao đổi với VnExpress, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần sữa
Vinamilk, ông Trần Bảo Minh giải thích, do khách hàng nhỏ tuổi quá yêu
thích hộp bút nên loại quà này hết sạch. Công ty đã đặt mua thêm 20.000
hộp từ nước ngoài. Song, do ảnh hưởng của lũ miền Trung, lô hàng đã về
chậm so với dự tính.
Qua đợt khuyến mãi này, Vinamilk đã gây nhiều thất vọng cho đối
tượng chính tiêu thụ sản phẩm của mình. Mong rằng, công ty sẽ rút được
kinh nghiệm về tâm lý, sở thích của trẻ ở những đợt sau.
2. Giá thành sản xuất cao do phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài
Vì nhu cầu sử dụng lớn, Vinamilk phải tìm kiếm những nhà cung
cấp uy tín có khả năng cung cấp ổn định cả về chất lượng và số lượng. Đó
chính là New Zealand, Châu Âu và Mỹ - những quốc gia tiên tiến chuyên
xuất khẩu sữa nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài việc giá mua
nguyên liệu sữa của nước ngoài cao, Vinamilk còn phải chịu thêm một
khoản thuế nhập khẩu và chi phí vận chuyển, kho hàng bến bãi cho nên giá
thành sản phẩm tăng dẫn đến giá bán tăng khiến sản phẩm của Vinamilk
giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường
3. Vinamilk chưa canh tranh tốt được ở thị trường trong nước
Trong vài năm trở lại đây, sữa là một trong những mặt hàng có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành thực phẩm đóng gói ở Việt Nam.
Mức tăng trưởng hàng năm trong các năm 2005, 2006 và 2007 lần lượt là
43,2%, 26,4% và 25,6%. Sữa nước (bao gồm sữa tươi và sữa tiệt trùng),
cùng với sữa chua ăn và sữa chua uống là các ngành hàng chiếm tỷ trọng
lớn, đều có tốc độ tăng trưởng mạnh và khá ổn định.
Tuy nhiên trong tình trạng giá sũa ngoại tăng cao, vinamilk có lợi
thế về giá so với sữa nhập khẩu nhưng trên thực tế giá của các sản phẩm do
vinamilk sản xuất đều cao hơn các sản phẩm khác cùng loại được sản xuất
trong nước như sữa tươi mộc châu v v Lý do chính để người tiêu dùng

mua vinamilk là do vấn đề quảng cáo và thương hiệu mạnh, còn trên thưc
tế chủng loại sản phẩm của vinamilk vẫn chưa đa dạng bằng nhiều công ty
khác yếu hơn. Bên cạnh đó vinamilk vẫn chưa khai thác hết thế mạnh của
các sản phẩm làm từ sữa như pho mát hay bơ và váng sữa….
Thử đặt ra câu hỏi, nếu chỉ thay đổi mẫu mã bao bì sản phẩm và các
chiêu quảng cáo bắt mắt liệu với cùng một loại sản phảm cũ, vinamilk có
đủ sức cạnh tranh với các hãng sữa khác có nhiều loại sản phẩm đáp ứng
nhu cầu khách hàng hay không ?
Hãy thử so sánh về giá sản phẩm tưong đương của 2 công ty
Vinamilk vs Sữa tươi Mộc châu ta có thể thấy rõ sự chênh lệch:
VINAMILK
- mặt hàng
Trọng
lượng
Giá thị
trường
MỘC CHÂU
- mặt hàng
Trọng
lượng
Giá thị
trường
Sữa tươi 100%
nguyên chất
180 g 3.800 đ Sữa tươi thanh
trùng túi
180 g 3.000 đ
Sữa giàu canxi ít
béo FLEX
180 g Sữa tươi thanh

trùng ít béo
900 g 15.500
đ/chai
Sữa tiệt trùng
milkplus-
vinamilk
(hương dâu,
không đường, có
đường,
chocolate)
180 g 3.986 đ
11.000
đ với
vfresh
Sữa tươi tiệt
trùng (không
đường, có đường,
hương chocolate,
dâu, dừa, mật
ong, cam)
180 g 3.000 đ
Sữa đặc có
đường (ông thọ,
300 g 11.000-
16.000
Sữa đặc có đường
Nguyên chất
300 g Khoảng
10.000
ngôi sao phương

nam)
đ/hộp đ/hộp
Chưa có Sữa bánh (ca cao,
tươi) 200 g
Chưa có Bơ tươi 200-500 g
Chưa có Váng sữa 200 g
Chưa có Pho mát 200-500 g
4. Chưa có thông điệp quảng bá ấn tượng, hiệu quả, chiến lược
marketing chưa tốt
Điểm yếu của Vinamilk là có những sản phẩm tốt, thậm chí có
những thương hiệu mạnh, nhưng khâu marketing yếu, dẫn đến chưa tạo
được một thông điệp hiệu quả để quảng bá đến người tiêu dùng về những
điểm mạnh của công ty”. Tuy trong các sản phẩm có lượng sữa tươi chiếm
70% - 99%, nhưng do chưa biết cách khai thác thương hiệu nên Vinamilk
chưa có một thông điệp nào để người tiêu dùng hiểu sự khác biệt của sữa
tươi so với sữa hoàn nguyên, sữa tiệt trùng. Chủ động trong nguồn nguyên
liệu, giá thu mua sữa cao hơn các doanh nghiệp khác, hệ thống xe đông
lạnh vận chuyển tốt, dây chuyền chế biến hiện đại là một lợi thế vượt trội
của Vinamilk, nhưng tất cả thế mạnh hơn hẳn này lại chưa được chuyển tải
đến người tiêu dùng. Ông Minh cho biết thêm, thời gian tới, Vinamilk sẽ
gấp rút xây dựng lại bộ phận marketing, chiến lược marketing ngắn hạn,
dài hạn với các tiêu chí rõ ràng, đặt mục tiêu xây dựng hệ thống thương
hiệu mạnh lên hàng đầu.: Ông P.N.C, phó tổng giám đốc công ty sữa có
nhà máy ở cả miền Bắc và miền Nam nhận xét: “Nếu so với tiềm lực của
Vinamilk, thì cách làm thương hiệu lẫn các chiến dịch tiếp thị của đơn vị
này do ông Trần Bảo Minh lãnh đạo trong ba năm vừa qua là chưa xứng
tầm của công ty sữa quốc gia, cũng như chưa đáng với số tiền phải chi.
Quan trọng hơn, là Vinamilk được coi là đầu đàn của ngành sản xuất sữa
Việt Nam, nhưng bao lâu nay các chương trình của Vinamilk chưa kết hợp
với các đơn vị trong nước, chưa tạo vị thể dẫn dắt cho các công ty sản xuất

sữa nhỏ khác”.
5. Khâu quản lí chưa tốt dẫn đến nhiều tai nạn, gây lãng phí, ảnh
hưởng lớn đến uy tín;
- Về sự cố hạt chống ẩm nghi ngờ có thể bị lẫn trong thành phẩm: Số
lượng sản phẩm cô lập là 6.928 hộp và 30 tấn bán thành phẩm chưa vô hộp.
Nguyên nhân là do có một gói chống ẩm 30 gram dùng cho 01 bao 5kg
DHA (dùng cho 900kg thành phẩm) bị rách. Tuy nhiên để an toàn tuyệt
đối, theo quy trình ISO nhà máy vẫn giữ lại toàn bộ lô hàng 30 tấn bán
thành phẩm chưa vô hộp để kiểm tra , đồng thời niêm phong giữ lại 6.928
hộp tại nhà máy
- Về sự cố vết xước nắp máy gây đến có mạt sắt: số lượng sản phẩm
cô lập là 10.872 hộp nghi ngờ có sự không phù hợp
-Trong thời gian gần đây, Báo điện tử Dân trí nhận được rất nhiều
phản ánh của người tiêu trong cả nước về sữa Vinamilk có những dấu hiệu
không bình thường như: sữa bị mốc, vón cục, sữa tươi bị chua, không ăn
được, hộp sữa bị biến dạng
Đơn cử như trường hợp: Chị Lê Thuý Nga (phường Bách Khoa,
quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) phản ánh ngày 23/1 chị mua 1 thùng sữa tươi
Vinamilk không đường tại 1 cửa hàng quen nhưng khi lấy sữa trong thùng
ra sử dụng, chị Nga phát hiện 1 hộp có những dấu hiệu “lạ” như: vỏ hộp bị
biến dạng, khi cắm ống hút vào hộp thì có tiếng nổ nhẹ phát ra còn sữa tươi
thì có vị chua như nước dừa để lâu ngày bị hỏng…
Trước đó, ông Nguyễn Công Phúc, ngụ tại ấp Cửu Hòa, xã Thân
Cửu Nghĩa (Châu Thành, Tiền Giang), mua một thùng sữa tươi Fino (50
túi) của Vinamilk tại siêu thị Co.op Mart Mỹ Tho. Khi dùng hết nửa thùng
thì các bịch sữa còn lại bị căng phồng lên, mở ra xem thì sữa có mùi hôi
(hạn sử dụng vẫn c Gần đây nhất là trường hợp của chị Trần Thị Hải Oanh
ở Hà Nội. Chị Oanh mua 8 hộp sữa chua tại siêu thi BigC, nhưng khi mở
sữa ra dùng thì sữa đã bị mốc.
Sau tất cả những lần bị khách hàng “phàn nàn”, cách giải quyết của

Vinamilk là đền sản phẩm khác cùng loại. Tuy nhiên, nguyên nhân của “sự
cố” thì lần nào cũng được cho là do “vận chuyển”?!
Bà Hòa giải thích thêm: “Do thị trường của Vinamilk rất rộng, bao
quát cả nước nên việc quản lý, giám sát cũng chỉ tới những nhà phân phối,
các đại lý chính, uy tín. Còn những các quầy tạp hoá, nhà phân phối nhỏ lẻ
ở “cấp dưới” thì Vinamilk không có đủ nhân lực để giám sát đến tận nơi xa
xôi này được?!
III. Cơ hội phát triển (opportunity) :
Sau khi khảo sát và phân tích được các yếu tố thị trường, doanh
nghiệp sẽ tiến hành đánh giá, tổng hợp các yếu tố theo định hướng phân
tích môi trường tham gia.Cơ hội là nhưng nhân tố bên ngoài của doanh
nghiệp, là những thay đỏi của môi truờng kinh doanh theo chiều hướng có
lợi cho doanh nghiệp. Khi thời cơ đến các doanh nghiệp cần phỉa nắm bắt
cơ hội một cách kịp thời để khai thác được những yếu tố có lợi, tìm kiếm
thêm lợi nhuận và điều kiện phát triển.
Theo phân tích của các chuyên gia cũng như nhận định của ngừoi
tiêu dùng, thị trường sữa việt nam đang chứa đựng rất nhiều cơ hội . Tiềm
năng đó, một phần được hình thành từ những quy định mới của nhà nước
về việc sản xuất kinh doanh mặt hàng sữa, phần còn lại được hình thành
bởi thói quen tiêu dung, nhu cầu tiêu thụ sữa và xu hướng thay đổi trong
tiêu dùng của khách hàng. Đây là cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh sản phẩm này nói chung và công ty Vinamilk nói riêng.
1. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO không
chỉ là cơ hội vàng cho đất nước mà còn là cơ hội của từng người dân,
doanh nghiệp.
Đối với DN, dù lớn hay nhỏ, sẽ bước vào một sự cạnh tranh khốc liệt
với các DN của các nước thành viên WTO.
Bà Mai Kiều Liên-Tổng Giám đốc của Vinamilk khẳng định:
“Vinamilk là thương hiệu của người Việt Nam, được xây dựng bởi bàn tay
và khối óc của người Việt Nam nên chúng tôi đủ sức để cạnh tranh lành

mạnh với các DN trong cộng đồng WTO, bởi chỉ có cạnh tranh mới đem
lại sự phát triển”.
Vinamilk là thương hiệu hiện được xếp trong Top 10 thương hiệu
mạnh Việt Nam. Nắm bắt lấy cơ hội này, Vinamilk đã không ngừng đổi
mới công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa sản phẩm để chuẩn bị
cho một hành trình mới.
Bên cạnh đó, Hội nhập còn tạo điều kiện để Vinamilk đến với nhiều
thị trường khó tính trên thế giới như: Mỹ, Thái Lan, Campuchia, Lào,
Trung Quốc, Khu vực Trung Đông…Và đây cũng chính là mục tiêu mà
Vinamilk sẽ vươn tới trong thời gian tới. Với cam kết Chất lượng quốc tế,
chất lượng Vinamilk đã khẳng định mục tiêu chinh phục mọi người không
phân biệt biên giới quốc gia của thương hiệu Vinamilk. Chủ động hội
nhập, Vinamilk đã chuẩn bị sẵn sàng từ nhân lực đến cơ sở vật chất, khả
năng kinh doanh để bước vào thị trường các nước WTO một cách vững
vàng với một dấu ấn mang Thương hiệu Việt Nam.
2. Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp
sữa Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020.
Quy hoạch đề ra mục tiêu từng bước xây dựng và phát triển ngành
sữa đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến sản phẩm cuối cùng, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước đạt mức bình quân 10 kg/người/năm vào
năm 2010 và 20 kg/người/năm vào năm 2020.
Ngành sữa phấn đấu tăng sản lượng sữa toàn ngành trung bình 5-
6%/năm giai đoạn 2006-2010, đồng thời xuất khẩu sữa ra thị trường nước
ngoài. Tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành sữa đến năm 2010 là gần
2.200 tỷ đồng.
Số tiền này sẽ được đầu tư cho các hạng mục như phát triển nguyên
liệu làm thức ăn chăn nuôi bò, phát triển đàn bò, các trạm thu mua sữa và
xây dựng các nhà máy sữa. Ngành sẽ xây dựng các nhà máy chế biến sữa
gắn liền với các vùng tập trung chăn nuôi bò sữa để có thể tự túc được 40%
nhu cầu sữa vắt từ đàn bò trong nước vào năm 2010.

Ngành sữa sẽ huy động tối đa mọi nguồn vốn trong xã hội như vốn
tín dụng, vốn thuộc các chương trình của Nhà nước, huy động từ việc bán
trái phiếu, cổ phiếu, vốn FDI, ODA cho việc đầu tư các dự án chế biến sữa
cũng như các dự án đầu tư phát triển vùng nguyên liệu.
 Tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất và xây dựng
nguồn cung đầu vào ổn định với chi phí thấp.
3. Nhận được sự hợp tác giúp đỡ từ các nước trong khu vực về kỹ thuật
chăn nuôi bò sữa và kiểm soát chất lượng sữa.
Từ những buổi hội thảo đã được tổ chức trong khu vực, Việt Nam
cũng như các nước bạn đã chia sẻ được khá nhiều kinh nghiệm quý. Ngoài
những kinh nghiệm khắc phục 2 cuộc khủng hoảng lớn về chăn nuôi bò sữa
của Đài Loan cùng những kinh nghiệm đang được triển khai rất tốt tại
nước này như các vấn đề tiếp thị, chăn nuôi bò sữa chất lượng cao, quản lý
giống, thì nhiều kinh nghiệm hiệu quả của các nước khác cũng được chia
sẻ khá thoải mái như vấn đề sử dụng thảo dược trong thức ăn để nâng cao
sản lượng sữa và hạn chế dịch bệnh cho bò sữa của Malaysia; chính sách
cứu đàn vật nuôi (STH) của Philippines cũng thu hút được nhiều chú ý bởi
cách sử dụng loại trợ cấp tài chính đặc biệt nhờ đó nông dân (thường là các
hộ chăn nuôi nhỏ) có thể dễ dàng tiếp cận ngay nguồn tài chính từ các Hiệp
hội mẹ, điều này giúp các chủ chăn nuôi không phải bán đàn vật nuôi trong
trường hợp khẩn cấp; kinh nghiệm thành lập và phát triển các Hiệp hội chế
biến sữa của Indonesia,
Bên cạnh sự chia sẻ, trao đổi các kinh nghiệm phát triển ngành bò
sữa và sữa của các nước, các hướng mở cho các dự án hợp tác là sự cam
kết sát cánh của các đơn vị tổ chức và các nước tham gia Hội thảo cho sự
phát triển ngành bò sữa và sữa Việt Nam.
Theo TS. Nguyễn Đăng Vang - Cục trưởng Cục Chăn nuôi và ông
Dương Văn Cơ - Phó trưởng đại diện Văn phòng văn hóa kinh tế Việt Nam
tại Đài Bắc Hội thảo là một cơ hội tốt thúc đẩy ngành bò sữa khu vực nói
chung và Việt Nam nói riêng phát triển bởi các nước đã có được diễn đàn

để trao đổi khá chi tiết và bổ ích về mọi vấn đề liên quan đến bò sữa và sữa
từ kỹ thuật đến chiến lược, chính sách quản lý cùng nhiều cơ hội tham
quan, học tập và hợp tác khác.
Về bản chất đây là một cơ hội rất tốt để tiếp cận, trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm để phát triển ngành bò sữa Việt Nam nhưng cũng chứa đựng
những tiềm tàng về một thách thức đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của ngành
bò sữa và sữa Việt Nam trong hội nhập.
Song chúng ta tin rằng, thách thức cạnh tranh sẽ là động lực tốt để
Việt Nam phát triển. Hy vọng sau Hội thảo này, ngành bò sữa Việt Nam có
thêm nhiều kinh nghiệm và cơ hội để nhanh chóng khắc phục những khó
khăn vừa qua góp phần thúc đẩy ngành sữa Việt Nam tiếp tục phát triển để
hội nhập nhanh chóng với khu vực.
4. Mức bình quân tiêu thụ sữa ở Việt Nam hiện nay là rất cao.

×