Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

ĐỀ TÀI: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN SX KD xi măng thuộc VICEM trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.77 KB, 114 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Sự cần thiết nghiên cứu đề tài.
Thực hiện chủ trương nhất quán phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước nói chung và các DN nhà nước nói riêng, bởi đây là các DN đang SX-KD
những hàng hoá quan trọng hàng đầu của nền kinh tế quốc dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
mục đích nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
quan hệ sản xuất mới, phù hợp trên cả mặt: sở hữu, quản lý, phân phối".
Chính vì vậy, đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trong nền
KTTT cần được tiếp tục đẩy mạnh, đó là yêu cầu hết sức quan trọng để làm tốt
vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước và giải
quyết những vấn đề xã hội. Nó mở đường, hướng dẫn và hỗ trợ cho các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển để làm cho lực lượng sản xuất phát triển và tạo
lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,
xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu đổi mới trong quá trình hoạt động SX-KD, các DN đã bộc
lộ những yếu kém và còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục tháo gỡ để DN thực
hiện sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, góp phần làm cho thành phần kinh tế Nhà
nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Qua thực tiễn hoạt động của mình, trong điều kiện nền KTTT và
1
sự hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, các DN SX-KD xi măng thuộc
VICEM cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục, hoàn thiện
để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.


Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII và IX, đặc
biệt là Nghị quyết Trung ương 3, khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DN Nhà nước, mỗi đơn vị SX-KD của VICEM phải quán
triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng để tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý
kinh tế, phát triển ngày càng mạnh góp phần làm cho kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là công cụ có đủ sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết, dẫn dắt
nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa có hiệu quả và bình đẳng. Vì vậy,
tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi măng
thuộc VICEM trong nền KTTT"
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nâng cao năng lực cạnh tranh nói chung được nhiều tổ chức, DN và các
nhà khoa học lý luận, khoa học kinh tế nghiên cứu từ nhiều cách tiếp cận và
nhằm những mục đích, đối tượng khác nhau và đã có nhiều bài viết dưới dạng
trao đổi, nghiên cứu chuyên khảo, đăng trên các tạp chí, thời báo, Về lĩnh
vực công nghiệp xi măng, có thể nêu ra một số bài viết nghiên cứu như sau: Hội
nhập kinh tế quốc tế của xi măng Việt Nam; Phương thức tổ chức thị trường xi
măng ở Việt Nam nói chung và của VICEM nói riêng; Chiến lược tiêu thụ sản
phẩm xi măng của VICEM đến năm 2010 của Tiến sỹ Bùi Anh Thi; Thị trường,
giá xi măng - bài học và giải pháp của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Hải,
Tuy nhiên, đối với vấn đề nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh tranh của
các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM dưới góc độ kinh tế chính trị một cách
hoàn chỉnh chưa có tác giả nào nghiên cứu.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
2
3.1- Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề cạnh tranh trong nền KTTT.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi măng
thuộc VICEM
Từ đó, đề xuất các giải pháp có tính khả thi để nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM trong nền KTTT.

3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá các lý thuyết cạnh tranh và những vấn đề cơ bản về năng
lực cạnh tranh của DN trong nền KTTT. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM trong nền
KTTT. Nghiên cứu kinh nghiệm năng cao năng lực cạnh tranh của một số DN
kinh doanh xi măng ở một số nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi
măng của VICEM trong những năm qua (thông qua Công ty cổ phần xi măng
Hoàng Mai).
- Đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN SX-
KD xi măng thuộc VICEM.
4- Đối tượng nghiên cứu.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM.
Lấy ví dụ ở Công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai.
5- Phạm vi nghiên cứu.
- Luận văn không có điều kiện đi sâu phân tích năng lực cạnh tranh của
từng DN SX-KD xi măng thuộc VICEM, chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai từ năm 2002
3
đến nay để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường đối với sản phẩm xi măng của VICEM.
6- Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý quan điểm lịch sử cụ thể, phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử.
- Phương pháp thống kê, so sánh và các phương pháp khác để làm rõ đối
tượng nghiên cứu.
- Tổng kết những tài liệu thực tiễn liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
7- Những đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

của các DN trong nền KTTT.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD xi măng thuộc
VICEM trong nền KTTT.
- Phương hướng và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các
DN SX-KD xi măng thuộc VICEM trong nền KTTT.
8- Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DN SX-KD trong nền KTTT.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng
Hoàng Mai.
4
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM trong nền KTTT.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DN SX-KD
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1- CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DN SX-KD
TRONG NỀN KTTT.
1.1.1- Một sè lý thuyết về cạnh tranh trong nền KTTT
1.1.1.1- Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu khách quan trong nền KTTT. Một mặt nó
đào thải không thương tiếc các DN có mức chi phí cao, sản phẩm kém chất
lượng. Mặt khác, nó buộc tất cả các DN không ngừng phấn đấu để giảm chi phí;
hoàn thiện giá trị sử dụng của dịch vụ, tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ để tồn tại và phát triển trên thị trường. Chính ở mặt này, cạnh tranh đã buộc
các DN phải tăng cường sức mạnh của mình, đồng thời phải thay đổi mối tương
quan về “thế và lực” để tạo ra các ưu thế cạnh tranh.
Khi tham gia thị trường, bÊt kỳ một loại sản phẩm nào còng đều phải chịu

một sức Ðp cạnh tranh nhất định. Bởi vì, một loại sản phẩm có thể được sản
xuất bởi nhiều DN khác nhau, do đó, số lượng sản phẩm được cung ứng ra thị
trường rất lớn. Các DN phải cạnh tranh với nhau nhằm tiêu thụ hết sản phẩm
của mình với mức lợi nhuận thu được lớn nhất. Trong cơ chế thị trường, các DN
có quyền chủ động trong SX-KD, do vậy mức độ cạnh tranh giữa các DN ngày
càng trở nên gay gắt.
5
Ở đâu cã sản xuất trao đổi hàng hóa thì ở đó có cạnh tranh. Cạnh tranh tồn
tại cùng với sự tồn tại của KTTT và cạnh tranh trở thành động lực phát triển cho
nền sản xuất xã hội.
Cạnh tranh có rất nhiều khái niệm, tồn tại trong mọi lĩnh vực xã hội chứ
không chỉ riêng trong kinh doanh. Khái niệm cạnh tranh xuất phát từ nền sản
xuất hàng hóa, tuy nhiên cho đến nay cả về mặt lý luận và thực tiễn còn nhiều
quan niệm khác nhau về phạm trù cạnh tranh.
Nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Marx còng nh nhiều nhà
kinh tế học khác đã rót ra được tính quy luật của nền sản xuất hàng hóa là cạnh
tranh. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì cạnh tranh càng quyết liệt và gay
gắt giữa nhiều chủ thể kinh doanh, giữa các quốc gia, các ngành và các DN đều
phải tạo lập cho mình ưu thế thuận lợi nhất để kinh doanh thành công, thu được
lợi nhuận tối đa. Theo Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi nhất trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Trong khi đó, theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt: “Cạnh tranh là
sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm dành
phần hơn, phần thắng về mình” và theo từ điển Thuật ngữ Kinh tế học: “Cạnh
tranh- sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia”. Cạnh tranh
nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng dành lấy thứ mà không phải ai cũng
có thể dành được và “chiến lược canh tranh” một khía cạnh của chiến lược
thương mại, bao gồm việc DN phát triển các chính sách để đối phó và đánh bại
các đối thủ của mình trong vấn đề cung cấp một sản phẩm nhất định.

Trong Đại từ điển KTTT cũng đưa ra định nghĩa “Cạnh tranh hữu hiệu là
một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà mục đích là dành
được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thỏa mãn nhằm
đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường
6
và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị
sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả
năng sản xuất trong một thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý’’.
Như vậy, cạnh tranh trong nền KTTT luôn là vấn đề mang tính thời sự, là
vấn đề sống còn đối với các DN. Mặc dù có nhiều cách khác nhau để diễn đạt về
canh tranh, song theo tác giả có thể rót ra được điểm chung trong tất cả các khái
niệm về cạnh tranh, đó là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các chủ thể
kinh tế khi tham gia vào thị trường nhằm tìm kiếm và đạt được lợi Ých tối đa
cho mình.
1.1.1.2- Phân loại cạnh tranh
• Cạnh tranh cùng ngành và cạnh tranh giữa các ngành
Căn cứ vào các ngành SX-KD trong nền KTTT thì cạnh tranh được chia
làm hai loại: cạnh tranh cùng ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
- Một là cạnh tranh cùng ngành:
Cạnh tranh cùng ngành là cạnh tranh giữa các DN cùng sản xuất một loại
sản phẩm nhằm đạt được những ưu thế trong tiêu thụ sản phẩm và thu được lợi
nhuận cao nhất.
Cạnh tranh cùng ngành chính là động lực thúc đẩy sự phát triển lực lượng
sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không có cạnh tranh cùng ngành, không có sáng
kiến, cải tiến thì bản thân ngành đó và toàn nền kinh tế sẽ bị trì trễ. Nói cách
khác, muốn có sự phát triển ngành phải tạo ra sự cạnh tranh cùng ngành.
Do yêu cầu của quy luật giá trị trong nền KTTT, sản xuất phải dựa vào
hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, DN nào có hao phí lao
động cá biệt nhỏ hơn mức lao động xã hội cần thiết sẽ có được siêu lợi nhuận.
Để có siêu lợi nhuận, các DN phải cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng

năng suất lao động làm cho chi phí sản xuất của DN nhỏ hơn chi phí sản xuất
7
của xã hội. Điều đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động
xã hội tăng lên, tạo điều kiện giảm giá trị và giá cả hàng hóa trên thị trường.
- Hai là cạnh tranh giữa các ngành:
Đây là sự cạnh tranh giữa các DN kinh doanh thuộc các ngành khác nhau
nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi, có tỷ suất lợi nhuận cao.
Điều này dẫn đến tình trạng những người SX-KD ở lĩnh vực có tỷ suất lợi
nhuận thấp có xu hướng dịch chuyển nguồn lực sang SX-KD ở những ngành có
tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đây chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa
các ngành. Kết quả là ở những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận cao, đầu tư
cao hơn sẽ thu hút thêm nguồn lực, quy mô sản xuất tăng, do đó cung hàng hóa
vượt tăng quá cầu của nó nên làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống, điều đó làm
giảm tỷ suất lợi nhuận.
Ngược lai, ở những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho
một số nhà đầu tư đã rút vốn chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản
xuất của những ngành này bị giảm, cung nhỏ hơn cầu của nó. Điều đó làm tăng
giá cả hàng hóa và tỷ suất lợi nhuận của ngành này tăng.
Việc di chuyển nguồn lực và kéo theo nó là sự biến đổi tỷ suất lợi nhuận
giữa các ngành cứ diễn ra như vậy cho đến khi với một số vốn đầu tư nhất định,
dù đầu tư vào ngành nào cũng thu được tỷ suất lợi nhuận ngang nhau mà người
ta gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân, bất kể cấu thành hữu cơ của chúng cao hay
thấp,… và nhờ đó, các DN sẽ thu được lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận này bằng
tỷ suất lợi nhuận bình quân nhân với vốn của mỗi DN.
Như vậy, cạnh tranh giữa các ngành đã thực hiện dịch chuyển nguồn lực
từ ngành này sang ngành khác dẫn đến sự cân bằng cung cầu sản phẩm các
ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư
vốn giữa các ngành khác nhau, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
8
• Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo:

Căn cứ vào quy mô các chủ thể kinh tế tham gia trên thị trường thì cạnh
tranh được chia thành: Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
- Một là cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua và bán
một loại sản phẩm có cùng tính chất và người mua, người bán độc lập với nhau.
Trong thị trường này không có một hoặc một số người sản xuất nào có thể tác
động quyết định giá cả thị trường. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở mỗi thời
điểm, mỗi người đều phải được tự do trở thành người mua hoặc người bán, được
tự do gia nhập thị trường và được trao đổi ở cùng một mức giá nh những người
trao đổi hiện hành. Nó đòi hỏi không trở ngại nào ngăn không cho một người nào
đó thôi không là người mua hoặc người bán trong thị trường và vì thế rút khỏi thị
trường.
- Hai là cạnh tranh không hoàn hảo (cạnh tranh độc quyền):
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường vừa không phải là
cạnh tranh hoàn hảo, vừa không phải là độc quyền hoàn hảo. Do vậy, cạnh tranh
hoàn hảo là cạnh tranh mà trong đó các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể quyết
định được giá cả và sản lượng hàng hoá.
So sánh thị trường cạnh tranh độc quyền với thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, ta thấy trong thị trường cạnh tranh độc quyền, giá cân bằng cao hơn chi phí
cận biên. Điều này có nghĩa là giá trị của những đơn vị hàng hóa bổ sung đối
với người tiêu dùng cao hơn chi phí sản xuất ra chúng. Nếu sản lượng được mở
rộng đến điểm mà ở đó đường cầu cắt đường chi phí cận biên thì tổng thặng dư
sẽ tăng lên một lượng bằng diện tích phần do đường cầu và chi phí cận biên tạo
thành. Đó chính là khoản mất không do sức mạnh độc quyền bán gây ra. Ngoài
9
ra, DN cạnh tranh độc quyền hoạt động với công suất thừa, nghĩa là mức sản
lượng của nó hơn mức sản lượng tối thiểu hóa chi phí bình quân.
Nh vậy, khi đánh giá thị trường cạnh tranh độc quyền phải so sánh những
tính không hiệu quả với lợi Ých mà người tiêu dùng thu được từ tính đa dạng
của sản phẩm.

• Một số loại cạnh tranh khác:
Bên cạnh cạnh tranh cùng ngành và cạnh tranh giữa các ngành, cạnh tranh
hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo, căn cứ vào quy mô của cạnh tranh thì
cạnh tranh còn được chia thành: cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh DN và cạnh
tranh quốc gia.
Căn cứ theo tính chất của phương thức cạnh tranh thì cạnh tranh có: cạnh
tranh lành mạnh – tức là biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật pháp, tập quán,
đạo đức kinh doanh, và cạnh tranh không lành mạnh – tức là biện pháp cạnh
tranh bằng những thủ đoạn chứ không phải vươn lên bằng sự nỗ lực của chính
chủ thể kinh doanh.
Dưới góc độ các công đoạn của SX-KD, cạnh tranh lại được chia thành:
cạnh tranh trước khi bán hàng, cạnh tranh trong quá trình bán hàng và cạnh
tranh sau khi bán hàng.
Dưới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, có cạnh tranh giữa
những người sản xuất với nhau, giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa
những người mua với người bán, người sản xuất với người tiêu dùng. Với các
loại cạnh trạnh này chủ yếu xoay quanh các vấn đề về chất lượng hàng hoá, giá
cả và điều kiện dịch vụ.
1.1.2- Năng lực cạnh tranh và vai trò của nó trong nền KTTT.
10
1.1.2.1- Quan niệm về năng lực cạnh tranh trong nền KTTT.
DN muốn tồn tại và phát triển trên thị trường thì cần phải có một tiềm lực
đủ mạnh để có thể vượt lên trên các đối thủ khác. Tiềm lực đó chính là năng lực
cạnh tranh của DN. Năng lực cạnh tranh của DN là khả năng mà DN có thể tự
duy trì vị trí của mình trong một thời gian dài trên thị trường cạnh tranh, đảm
bảo thực hiện một mức lợi nhuận lớn nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực
hiện các mục tiêu của DN.
Năng lực cạnh tranh của DN thường được đánh giá thông qua các yếu tố
nội tại của DN như: Quy mô, khả năng tham gia cạnh tranh và rót lui khỏi thị
trường, sản phẩm, năng lực quản lý, năng suất lao động, trình độ công nghệ và

lao động,… Tuy nhiên các yếu tố này lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố bên
ngoài, trong đó có yếu tố Nhà nước và thể chế trung gian. Do vậy, những DN
nào có khả năng đổi mới và sáng tạo lớn thì DN đó có khả năng cạnh tranh cao.
Nhưng đồng thời DN cũng cần phải tận dụng những nguồn lực sẵn cã như đất
đai, nguồn nhân lực tiên tiến như các chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học,
đội ngũ công nhân kỹ thuật cao,…
Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của DN còn thể hiện ở khả năng cung ứng
các sản phẩm và dịch vụ với giá cả thấp hoặc hợp lý, chất lượng cao, uy tín cao,
thực hiện cam kết với các bạn hàng và làm hài lòng khách hàng… Theo
Fafchamps, năng lực cạnh tranh của DN là năng lực của DN đó có thể sản xuất
sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có
nghĩa là DN nào có năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như
sản phẩm của DN khác, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực
cạnh tranh cao hơn.
Trong khi đó, theo Phillip Lasser: Năng lực cạnh tranh của một DN trong
một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà DN có hoặc huy động
được để có thể cạnh tranh thắng lợi. Mét quan niệm khác lại cho rằng, năng lực
11
cạnh tranh là trình độ của các DN có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu
của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Như vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về năng lực
cạnh tranh của DN. Tuy nhiên các quan niệm đều đề cập đến một vấn đề đó là:
khả năng duy trì thị phần của DN nhờ những lợi thế khách quan và cả những lợi
thế chủ quan do DN tạo ra.
Vì vậy, từ nghiên cứu các quan niệm về năng lực cạnh tranh của DN, theo
tác giả luận văn: Năng lực cạnh tranh của DN là khả năng khai thác, huy động,
quản lý và sử dụng các nguồn lực có giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực, và
các điều kiện khách quan khác một cách có hiệu quả và sản xuất ra những sản
phẩm có giá trị đặc trưng cao hơn đối thủ nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trước các
đối thủ, từ đó đảm bảo cho DN đứng vững, tồn tại và phát triển trong môi

trường cạnh tranh.
1.1.2.2- Vai trò của cạnh tranh trong nền KTTT:
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi, vận động theo cơ chế thị trường thì
cạnh tranh được thừa nhận, quy luật cạnh tranh bộc lộ và vai trò của cạnh tranh
trong nền KTTT thể hiện rõ nét hơn, cụ thể:
• Đối với DN sản xuất kinh doanh:
Cạnh tranh đã trở thành điều kiện sống còn của DN trong nền KTTT hiện
nay. Bất kỳ DN nào cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh và tìm mọi cách chiếm
lấy ưu thế, có như thế thì DN mới có thể tồn tại và phát triển được.
Trong nền KTTT, khách hàng có quyền lựa chọn những hàng hóa phù
hợp nhất với nhu cầu của mình, DN nào đáp ứng được những điều đã, tức họ sẽ
bán được hàng thì DN đã sẽ tồn tại được; ngược lại DN nào không tìm được
phương thức thoã mãn nhu cầu trên thị trường, không bán được hàng thì sẽ đi tới
12
thua lỗ và phá sản. Do đã, các DN bắt buộc phải tìm cách nâng cao chất lượng
hàng hóa và dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Mặt khác, để cạnh tranh thu hót được lượng khách hàng lớn nhất thì các
DN luôn tìm cách đưa ra mức giá thấp nhất có thể, do vậy buộc các DN phải tìm
phương án sản xuất tối ưu, sử dụng công nghệ hiện đại, giảm tới mức thấp nhất
các chi phí đầu vào,… Cạnh tranh không chỉ ở phạm vi giá cả mà cạnh tranh
bằng chất lượng cũng buộc các DN phải quan tâm áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến quản lý,… Như vậy, cạnh tranh tạo nên sức Ðp buộc DN phải sử dụng
có hiệu quả nguồn lực sẵn có. Song đồng thời, cạnh tranh cho phép sử dụng các
nguồn tài nguyên, các nguồn lực xã hội một cách tối ưu. Cạnh tranh khuyến
khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản
xuất, thóc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã
hội.
• Đối với xã hội:
Cạnh tranh được coi là động lực phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Khi có cạnh tranh, các DN tìm mọi cách giảm giá thành và nâng cao

chất lượng sản phẩm để giành giật khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Trong
cuộc cạnh tranh này, người sản xuất và người tiêu dùng không thể lợi dụng được
ưu thế của nhau trên thị trường, do đã cạnh tranh là một yếu tố điều tiết sản xuất
và tiêu dùng.
Cạnh tranh loại bỏ các DN có chi phí cao trong sản xuất, điều đã buộc các
DN chọn lựa phương án sản xuất tối ưu. Như vậy, cạnh tranh sẽ tạo ra sự đổi
mới, mang đến sự tăng trưởng kinh tế, là động lực phát triển cơ bản nhằm liên
kết lợi Ých giữa người sản xuất, người tiêu dùng và xã hội. Mặt khác, cạnh tranh
còn là yếu tố làm lành mạnh hóa các mối quan hệ kinh tế xã hội, thoã mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng và góp phần tạo nền cơ sở cho sự phân
13
phối thu nhập lần đầu. Điều này đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế
giới.
Tuy nhiên, cạnh tranh không chỉ toàn là ưu điểm mà nã cũng có cả những
khuyết tật đặc trưng. Trong điều kiện cạnh tranh, các DN quan tâm trước hết là
lợi Ých của bản thân DN, do vậy không chó trọng tới lợi Ých của DN khác và
chưa chó trọng tới giải quyết các vấn đề xã hội. Từ những mâu thuẫn giữa DN và
DN sẽ kÐo theo các vấn đề xã hội như thất nghiệp, tiền lương nhân công thấp,
môi trường không được giữ gìn,… Mặt khác, cạnh tranh thóc đẩy sản xuất hàng
hóa phát triển nhưng cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng phân hóa mạnh, kẻ
thua người thắng trong cạnh tranh có khoảng cách khá xa, do đã mà sẽ có những
cuộc cạnh tranh không lành mạnh hay cạnh tranh độc quyền trên thị trường. Vì
vậy, trong nền KTTT cần có sự quản lý của nhà nước để đảm bảo cho các DN có
thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, có hiệu quả.
1.1.3- Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các
DN SX-KD xi măng thuộc VICEM trong nền KTTT.
Trong nền KTTT các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình đó là tất yếu khách quan. Vì:
1.1.3.1- Do yêu cầu của bản thân các DN SX-KD xi măng thuộc
VICEM phải tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt của nền KTTT.

Trong những năm qua, các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM có sự tăng
trưởng không đồng đều. Nhiều DN có lâu nay có vị thế cao trong thị trường như
xi măng Hà Tiên 1, xi măng Hoàng Thạch tiêu thụ năm 2007 chỉ tăng được 1%
so với năm 2006. Nhiều DN như xi măng Bỉm Sơn, xi măng Bút Sơn lại có tốc
độ tiêu thụ giảm so với năm 2006 từ 2% đến 4%. Trong khi đó những dây
chuyền mới lại hoạt động có tốc độ tiêu thụ khá cao như xi măng Hải Phòng
(mới) tăng gần 21%, xi măng Tam Điệp tăng tới 45%. Về số tuyệt đối sản lượng
14
tiêu thụ năm 2007 cho thấy trong tổng số sản lượng toàn xã hội tiêu thụ tăng
3.989.000 tấn thì sản lượng của các DN thuộc VICEM tăng được 896.000 tấn
(chiếm 22,46%), sản lượng 6 công ty khối liên doanh tăng được 1.074.000 tấn
(chiếm 26,92%) và sản lượng xi măng địa phương, các trạm nghiền tăng được
2.019.000 tấn (chiếm 50,61%).
Qua số liệu trên cũng cho thấy, một số DN SX-KD thuộc VICEM đã từng
có lịch sử phát triển lâu dài, đã từng có công nghệ tiên tiến, đã từng có thời gian
xây dựng thương hiệu mạnh trong tình cảm người tiêu dùng, đã từng có thời kỳ
độc quyền trên thị trường nội địa, nhưng đến nay lại có tốc độ tăng trưởng chậm
nhất trong 3 khối sản xuất tham gia thị trường xi măng (khối các DN SX-KD
thuộc VICEM; khối xi măng liên doanh; khối xi măng địa phương và các tfrạm
nghiền). Khối xi măng liên doanh, có thể nói là khối công nghiệp trẻ, có công
nghệ hiện đại, có kinh nghiệm quản lý của nền KTTT phát triển đã giữ được tốc
độ tăng trưởng khá cao cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối, mang tính ổn định
bền vững. Khối DN xi măng địa phương và các trạm nghiền có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất cả số tuyệt đối và số tương đối. Khối này đã được đổi mới
nhiều về công nghệ, đồng thời trong những năm qua nhiều nhà máy có quy mô
lớn bắt đầu hoạt động, nhiều công ty du nhập được phương pháp quản lý hiện đại
của các tập đoàn lớn trên thế giới cho nên đã có những bước tiến bộ nhảy vọt.
Hiện nay, nền kinh tế của Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị trường
có điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với kế hoạch
và định hướng phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam, ngoài việc nắm

giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực SX-KD xi măng, khối các DN SX-KD thuộc
VICEM còn được Chính phủ giao nhiệm vụ bình ổn thị trường xi măng và trên
cở sở tình hình thực tế của thị trường xi măng hiện nay, các DN SX-KD xi măng
thuộc VICEM tất yếu phải tìm các giải pháp hiệu quả để hạ giá thành sản phẩm,
15
nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh trên thị trường thì mới có
thể tồn tại và phát triển.
1.1.3.2- Do yêu cầu đòi hỏi của sù nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM phải năng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường.
Hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều có ngành công
nghiệp xi măng phát triển, vì xi măng là loại vật liệu xây dựng cơ bản và thông
dụng, được sử dụng rộng rãi với khối lượng lớn trong xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Công nghiệp xi măng phát triển đòi hỏi cần có
sự phát triển liên ngành của các ngành công nghiệp khác như: Giao thông vận
tải, cơ khí chế tạo, điện tự động hoá, năng lương, than, dầu khí, giáo dục đào tạo,
tài chính, ngân hàng và ngược lại các ngành khác muốn phát triển cũng cần có sự
phát triển của ngành công nghiệp xi măng. Đây là mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại mật thiết lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi ngành công
nghiệp xi măng Việt Nam phải phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả để đáp ứng
nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời đặt ra cho ngành
công nghiệp xi măng Việt Nam những yêu cầu mới. Đó là: Một mặt phải phát
triển nhanh mạnh để thoả mãn nhu cầu xi măng cho đất nước, mặt khác, để tồn
tại và phát triển và duy trì cạnh tranh trong hiện tại và tương lai, công nghiệp xi
măng phải phát triển bền vững.
Trong quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã có
quyết định xác định rõ mục tiêu phát triển chung của toàn ngành là: “Đáp ứng
đủ nhu cầu tiêu dùng xi măng (cả về số lượng, chất lượng, chủng loại) cho nhu

cầu trong nước, giành một phần xuất khẩu và nhanh chóng đưa ngành xi măng
Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp mạnh, có công nghệ sản xuất hiện
16
đại, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của nước ngoài, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
1.1.3.3- Do yêu cầu của các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM phải tận
dụng cơ hội và vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Ngày nay, hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một bước đi chiến lược tất
yếu và cũng là con đường mà tất cả các nước muốn xây dựng một nền kinh tế
công nghiệp hiện đại đều phải hướng tới. Khi hội nhập, các quốc gia sẽ có nhiều
cơ hội thuận lợi những cũng gặp nhiều khó khăn thách thức phía trước. Kinh tế
Việt Nam đang đứng trước hoàn cảnh đó và chỉ có con đường duy nhất là đẩy
mạnh tiến trình hội nhập, nếu muốn phát triển nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hiện đại.
Các DN SX-KD thuộc VICEM không thể nằm ngoài vòng xoáy đó. Đứng
trước xu hướng hội nhập, những năm gần đây, các DN SX-KD xi măng thuộc
VICEM đã chủ động nắm bắt cơ hội mới, đón trước những thách thức trở ngại,
trên cơ sở đó xác định cho mình hướng đi và những giải pháp tích cực để chủ
động nâng cao khả năng cạnh tranh khi hội nhập.
Những cơ hội các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM phải vận dụng cũng
như những thách thức phải vượt qua đó là:
• Về cơ hội:
- Tiếp nhận nhanh chóng công nghệ tiên tiến hiện đại thông qua con
đường chuyển giao công nghệ, rút ngắn ngững bước đi thăm dò, giảm chi phí
trong công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
- Toàn cầu hóa, mở rộng tự do thương mại có khả năng tạo ra những cơ
hội thị trường cho mọi loại hình DN, trong đó có ngành công nghiệp xi măng
Việt Nam. Đồng thời tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế, các DN SX-KD xi
17

măng thuộc VICEM có điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình
thức đa dạng và tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các dây
chuyền sản xuất hoặc các công đoạn kinh doanh của các tập đoàn, công ty lớn.
- Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa sẽ mở rộng các mối quan hệ quốc tế,
các mối quan hệ song phương và đa phương được thực hiện đan xen cùng các
quan hệ thương mại của các DN càng củng cố thêm sự bền vững và tính hiệu quả
trên cơ sở có sự tôn trọng lợi Ých chính đáng của các thành viên. Các DN SX-
KD xi măng thuộc VICEM có nhiều cơ hội học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế
tiên tiến, kinh nghiệm quản lý chặt chẽ những rủi ro trong kinh doanh của những
tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới để nâng cao trình độ quản lý hoạt động kinh
doanh trong môi trường có cạnh tranh mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường phát
triển. Sản phẩm của các DN SX-KD xi măng thuộc VICEM có cơ hội thâm nhập
thị trường thế giới.
• Về thách thức:
- Hiện nay, một số DN SX-KD xi măng của VICEM trình độ công nghệ
phát triển không đồng đều, một số nhà máy còn sử dụng công nghệ có trình độ
kỹ thuật lạc hậu , thiết bị cũ kỹ, tiêu tốn nhiều nguyên nhiên vật liệu, năng lượng,
năng suất thiết bị thấp, ô nhiễm môi trường, trong khi sức cạnh tranh quốc gia
còn thấp, năng lực cạnh tranh không đồng đều giữa các tập đoàn, công ty và các
quốc gia.
- Điều kiện hạ tầng cho SX-KD xi măng của các doanh nghệp thuộc
VICEM còn nhiều bất cập, chi phí đầu vào và chi phí trung gian cao. Tư duy
kinh tế của cán bộ quản lý vẫn còn chậm phát triển và phát triển không đồng đều,
sự hiểu biết về lý luận KTTT, các quy luật hoạt động của KTTT còn hạn chế, sự
hiểu biết về mô hình và cơ chế hoạt động của Công ty mẹ – Công ty con, của tập
đoàn kinh tế cũng chưa đầy đủ, chưa rõ ràng.
18
- VICEM chưa có chiến lược phát triển chung, toàn diện; sự phát triển của
VICEM mới chỉ dựa chủ yếu vào quyết định quy hoạch phát triển chung của
toàn ngành.

- Nhiều quốc gia cùng có xu hướng phát triển kinh tế theo trào lưu hướng
ngoại, trong khi các DN SX-KD xi măng Ýt khi có cơ hội nhận được sự bảo hộ
(bằng thuế và phi thuế) của Nhà nước, dẫn đến việc suy giảm khả năng bảo vệ
thị trường nội địa.
- Nguy cơ bị lép vế trong việc tìm kiếm các cơ hội, hợp đồng hợp tác với
các DN thuộc các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển.
- Bề dày văn hóa kinh doanh của các DN vừa và nhỏ Việt Nam nói chung
và của các DN SX-KD thuộc VICEM trong nền KTTT chưa hình thành một cách
rõ nét.
1.2- Nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DN SX-KD xi măng Việt Nam trong nền KTTT.
1.2.1- Đặc điểm của các DN SX-KD xi măng trong nền KTTT.
Xi măng là loại vật liệu xây dựng cơ bản và thông dụng, được sử dụng rộng
rãi với khối lượng lớn trong xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng công nghiệp, dân
dụng và các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội khác của đất nước. Do vậy, các DN
SX-KD xi măng có một số đặc điểm như sau:
Một là, ngành công nghiệp xi măng là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng
nhiều của nguồn tài nguyên thiên nhiên (nguồn đá vôi, đá sét), chỉ các doanh
nghiệp đảm bảo được nguồn tài nguyên thiên nhiên mới có khả năng sản xuất
kinh doanh xi măng vững chắc, lâu dài. Trong thực tế, các đơn vị kinh doanh xi
măng từ nguồn bán thành phẩm (clinker) nhập khẩu cho thấy tính cạnh tranh
kém do nguồn bán thành phẩm nhập khẩu và chi phí vận tải quá cao. Điều này
19
cho thấy xi măng là ngành độc quyền nhóm – chỉ một Ýt doanh nghiệp có được
nguồn tài nguyên tham gia thị trường xi măng.
Hai là, trong những năm qua, xi măng vẫn được coi là ngành tham gia bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô và
giữ vai trò ổn định thị trường. Các DN SX-KD xi măng còn là mét trong những
đơn vị có tỷ trọng đóng góp cho nguồn thu ngân sách Nhà nước tương đối cao
(khoảng 4 - 5 triệu USD cho một triệu tấn sản phẩm), góp phần làm tăng trưởng

nhanh tổng sản phẩm xã hội (theo số liệu thống kê trong nhiều năm, đóng góp
GDP của ngành công nghiệp xi măng chiếm khoảng 10 - 12% GDP của toàn
ngành công nghiệp của nước ta).
Ba là, các DN SX-KD xi măng chịu ảnh hưởng lớn bởi chi phí điện và
than. Hai ngành này còn mang nặng độc quyền, một mặt nó đảm bảo tính ổn
định chi phí đầu vào cho SX-KD xi măng, một mặt lại hạn chế tính thị trường,
tính cạnh tranh.
Sản phẩm xi măng là vật liệu đầu vào tạo tài sản cố định cho nhiều ngành
sản xuất khác, trên 50% sản lượng được các dự án đầu tư xây dựng của nhà nước
và các thành phần kinh tế tiêu thụ. Điều này cho thấy, các DN SX-KD xi măng
Việt Nam phát triển sẽ thúc đẩy và tạo đà cho nhiều ngành công nghiệp khác
cùng phát triển như: năng lượng, giao thông vận tải, cơ khí chế tạo; kéo theo
nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác như: xây lắp, chế tạo thiết bị phụ tùng, vật liệu
chịu lửa, vật liệu bảo ôn, sản xuất bao bì, hoạt động tư vấn, thiết kế nghiên cứu
khoa học công nghệ, khảo sát nguyên liệu cùng phát triển.
Ba là, lao động trong ngành công nghiệp sản xuất xi măng mang tính đặc
thù riêng, đặc biệt là lượng lao động trong dây chuyền sản xuất chính mang tính
đồng bộ, công nghiệp hoá cao.
20
Các DN SX-KD xi măng Việt Nam phát triển đã thu hút được một lực
lượng lớn lao động của xã hội. Là nơi nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ, công
nhân kỹ thuật có đủ trình độ và kinh nghiệm vận hành những nhà máy hiện đại
không phải thuê chuyên gia nước ngoài. Từ năm 2006 trở đi các nhà máy xi
măng trong toàn ngành khi được thành lập, đều có công nghệ tiên tiến, thiết bị
hiện đại góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Ngoài ra, hình thành các nhà máy xi măng cũng đồng thời tạo nên các khu
dân cư tập trung là tiền đề cho việc hình thành các khu đô thị mới. Quá trình phát
triển của các DN SX-KD xi măng đều gắn với quá trình phát triển các đô thị bằng
nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp. Mọi hoạt động của việc hiện đại hoá kỹ

thuật công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất hay thay đổi cơ chế quản lý trong công
nghiệp xi măng đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng, giá trị
và tốc độ xây dựng các công trình ở mọi khu vực của mọi thành phần kinh tế.
Đồng thời cũng có tác động ngược lại đến việc kìm hãm hoặc phát triển thị trường
tiêu thụ sản phẩm của các DN SX-KD xi măng.
Do đặc điểm về vùng nguyên liệu, các nhà máy sản xuất xi măng thường
được xây dựng ở vùng sâu, vùng xa, điều đó cũng góp phần vào việc đổi mới bộ
mặt, đời sống nhân dân ở các vùng sâu, vùng xa, chưa có cơ hội phát triển của đất
nước.
Bốn là, sản phẩm của các DN SX-KD xi măng có khối lượng lớn nhưng
thời gian sử dụng ngắn trong khi địa bàn tiêu thụ rộng. Một nhà máy xi măng
trung bình mỗi ngày sản xuất 5.000 tấn xi măng (cần khoảng 150 xe vận tải) cho
địa bàn tiều thụ hàng ngàn kilômét, trong khi sản phẩm xi măng chỉ có thời hạn
sử dụng tốt nhất là 60 ngày.
Do đặc điểm của ngành xi măng như vậy nên các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh xi măng thường có quy mô lớn, thiết bị mang tính đồng bộ, phức tạp,
21
hầu hết các thiết bị, phụ tùng đều phải nhập khẩu. Do tính phức tạp của hệ thống
thiết bị của ngành xi măng, tính đặc thù cao của thiết bị nên kèm theo đó dự trữ
phụ tùng thay thế lớn. Vốn đầu tư lớn, thời gian hoạt động dài, các dự án đầu tư
cho xi măng thường có vốn đầu tư 150 USD/tấn công suất, một nhà máy công
suất 1,4 triệu tấn năm có tổng vốn đầu tư trên 3.000 tỷ đồng, thời gian hoạt động
của một nhà máy xi măng thường là trên 50 năm. Vì vậy, hiệu quả đầu tư xi
măng thường được nhìn về dài hạn.
Năm là, quá trình tiêu thụ xi măng mang tính chất thời vụ. Ở Việt Nam,
nhu cầu tiêu dùng xi măng biến động mang tính thời vụ giữa các quý trong năm
và đã trở thành quy luật. Do vậy, các DN SX-KD xi măng hay các thành phần
tham gia thị trường xi măng đều phải có những đối sách, những giải pháp phù
hợp theo quy luật để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ xi măng gắn liền với tăng trưởng kinh tế,

nhất là đối với Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do
vậy, tính co giãn trong cung cầu xi măng thấp, ngành xi măng có được sự bảo
đảm ổn định cao trong tiêu thụ sản phẩm.
Về mô hình tổ chức mạng lưới tiêu thụ xi măng của các DN SX-KD xi
măng Việt Nam hiện nay được hình thành theo hai hệ thống:
+) Tiêu thụ thông qua hệ thống các công ty thương mại kinh doanh xi
măng trực thuộc ngành.
+) Tiêu thụ thông qua các nhà phân phối chính ngoài ngành. Đây là mô
hình tiêu thụ phổ biến của các nước trên thế giới.
1.2.2- Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN SX-KD
trong nền KTTT.
1.2.2.1- Chất lượng sản phẩm.
22
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, đáp ứng vai
trò và phù hợp với tên gọi của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm thể hiện ở nhiều
chỉ tiêu khác nhau như: tính chất cơ lý hóa, hình dáng, màu sắc, bao bì,… Đối
với từng loại sản phẩm trên thị trường, các chỉ tiêu này có những đặc trưng riêng
khác nhau. Muốn bán được sản phẩm, các DN phải luôn giữ vững và nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình. Điều này có nghĩa, nâng cao chất lượng sản
phẩm là một quy luật bắt buộc trong nền KTTT, là vũ khí cạnh tranh quan trọng
nhất và là vấn đề sống còn đối với mỗi DN.
Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình sản xuất từ
khâu thiết kế đến khâu nghiên cứu, thí nghiệm, sản xuất, bán hàng và các khâu
dịch vụ sau khi bán hàng,… Do vậy, muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, một
mặt phải nâng cao chất lượng tại các khâu của quá trình sản xuất, mặt khác phải
coi trọng và kiểm tra chất lượng sản phẩm bằng các thiết bị, máy móc, cũng như
bằng kinh nghiệm thực tiễn của các nhân viên phụ trách kỹ thuật. Tùy theo đặc
điểm của quá trình sản xuất mà DN lựa chọn phương pháp kiểm tra thích hợp.
Các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm phải được đào tạo có chuyên môn,
có trách nhiệm và một điều tất yếu là phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan.

Ngoài ra, chất lượng sản phẩm còn phải được coi trọng ở các khâu dịch vụ
trước, trong và sau khi bán hàng.
Chất lượng sản phẩm không chỉ được hiểu là phải thật tốt, thật bền, thật
đẹp mà còn được hiểu: Chất lượng sản phẩm phải do khách hàng quy định . Đây
là một quan niệm rất mới và cũng là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh gay
gắt để dành dật khách hàng giữa các DN . Về mặt lý luận, quản trị chất lượng sản
phẩm là nhân tố chủ quan của DN. Điều này đưa các DN tiếp cận gần hơn tới thị
trường và cạnh tranh ngày một gay gắt hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm
đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh. Bởi vì, nhờ nâng cao chất lượng
23
sản phẩm nên các sản phẩm bán được nhiều hơn, các DN có uy tín cao hơn và có
cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng thị phần.
Tóm lại, chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu của cạnh
tranh và yếu tố này rất năng động, thay đổi theo nhu cầu của thị trường, của từng
khu vực thị trường khác nhau và cho các nhóm đối tượng khác nhau. Cạnh tranh
làm cho các DN không ngừng tìm kiếm con đường tự hoàn thiện mình và nâng
cao chất lượng tối ưu cho sản phẩm của mình.
1.2.2.2- Giá cả sản phẩm.
Với tư cách là công cụ cạnh tranh của các nhà sản xuất, giá cả được hiểu
là số tiền mà người bán dự kiến nhận được của người mua thông qua trao đổi
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Giá cả được hình thành là do chi phí, nhu cầu
của thị trường và do chính sách của các DN quyết định. Giá cả có vai trò rất
quan trọng, là khâu cuối cùng thể hiện kết quả hoạt động SX-KD của các DN.
Giá cả quyết định việc mua hàng hóa hay không của người tiêu dùng, mặt khác
nó còn quyết định tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, các DN
có thể nhận biết được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng nh năng lực cạnh tranh của
mình trên thương trường.
Giá cả của các DN có các nhân tố ảnh hưởng:
+) Chi phí sản xuất: Đây là các chi phí phát sinh trong quá trình SX-KD
như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chí phí sản xuất chung,

chi phí quản lý DN, chi phí bán hàng, …
+) Chi phí bán hàng và phân phối: Đây là các khoản tiền phải chi ra cho
các dịch vụ bán hàng, bảo hành, vận tải và các chi phí khác có liên quan. Trong
nền KTTT, các chi phí này có xu hướng ngày càng tăng lên.
+) Chí phí về hỗ trợ, xúc tiến bán hàng: Bao gồm các chi phí về triển lãm,
hội chợ, hội thảo, tiếp thị quảng cáo sản phẩm và xúc tiến bán hàng.
24
+) Các mức thuế đối với DN và mức lợi nhuận cần phải có.
Mối quan hệ giữa bốn yếu tố trên với giá cả được thể hiện qua công thức
sau: Giá cả = Chi phí các loại + Thuế + Lợi nhuận.
+) Quan hệ cung – cầu: Sự biến động về cung – cầu sẽ làm thay đổi về giá
cả. Nếu nh cầu tăng, cung giảm thì giá cả sẽ tăng cao và ngược lại
+) Tương quan của các lực lượng cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh
trên thị trường không chỉ diễn ra giữa các nhà sản xuất mà còn diễn ra giữa
những người tiêu thụ với nhau, do vậy, cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp tới giá
cả, cạnh tranh càng gay gắt thì giá cả càng giảm.
+) Sự điều tiết của nhà nước: Một số DN mà giá cả của nó ảnh hưởng tới
hoạt động của các DN khác và của nền kinh tế (xi măng, điện, nước, xăng, dầu,
…), Nhà nước chủ trương can thiệp vào giá cả thông qua việc quy định các mức
giá cụ thể hoặc mức giá trần. Điều này đã làm giảm phần nào tính linh hoạt và
năng lực cạnh tranh của các DN.
1.2.2.3- Chủng loại sản phẩm.
Chủng loại sản phẩm là yếu tố có tính chất quyết định trong việc dành
được thị trường khi DN đa dạng hóa sản phẩm, bởi vì sản phẩm có nhiều mức,
cấp độ khác nhau về chất lượng, mẫu mã,… Người nhiều tiền có nhu cầu dùng
loại sản phẩm có chất lượng tốt, thật hoàn hảo cho một công việc nào đó. Những
người có nhu cầu thiết yếu chọn những loại sản phẩm có chất lượng khác nhau.
Khi chủng loại sản phẩm đa dạng thì khiến các khách hàng khi bước khỏi nơi
bán sản phẩm sẽ lựa chọn được một sản phẩm mà người ta mong muốn, vừa phù
hợp với mục đích tiêu dùng vừa phù hợp với túi tiền mà mình hiện có.

Cạnh tranh sẽ làm cho các DN luôn tìm tòi, nghiên cứu để tự hoàn thiện
mình, nâng cao chất lượng tối ưu cho sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và dịch
vụ đáp ứng mong muốn của người tiêu dùng.
25

×