Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.03 KB, 36 trang )

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter.
2. Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm
Sơn từ 2003 – 2008.
3. Bảng 2.2: Sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn từ 2003 – 2008
4. Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 2003 – 2008
5. Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2003 – 2008
6. Bảng 2.5: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm 01/5/2006 của CTCP xi măng
Bỉm Sơn
7. Bảng 2.6: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm hiện nay của CTCP xi măng
Bỉm Sơn
8. Bảng 2.7: Hiệu quả sử dụng vốn của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn
2003 – 2008
9. Biểu đồ 2.1: Biểu đồ doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn qua các năm
2003 – 2008.
10. Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nộp ngân sách của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn
2003 – 2008.
11. Biểu đồ 2.3: Mức tăng thu nhập bình quân/ tháng của CBCNV CTCP xi
măng Bỉm Sơn giai đoạn 2003 – 2008.
12. Biểu đồ 2.4: Tốc độ tăng trưởng doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn
giai đoạn 2003 – 2008
13. Biểu đồ 2.5: Tốc độ tăng lợi nhuận của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai
đoạn 2003 - 2008
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
PHẦN MỞ ĐẦU
I - TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước trong thời kỳ Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa đã kéo theo sự phát triển rất nhanh chóng của ngành xây
dựng và do đó sản xuất và kinh doanh xi măng là ngành đang thu hút được rất


nhiều sự quan tâm của nhiều ngành, nghề trong cả nước. Điều đó đã và đang đẩy
ngành kinh doanh xi măng vào sự cạnh tranh rất mạnh mẽ.
Tồn tại, trưởng thành và phát triển gần 30 năm, Xi măng Bỉm Sơn đã đóng
góp rất đáng kể vào sự phát triển của Tổng công ty xi măng Việt Nam cũng như
vào ngân sách của Quốc gia. Tuy vậy, khả năng cạnh tranh của Công ty nói
chung vẫn còn yếu so với không chỉ các Công ty thành viên trực thuộc Tổng mà
còn với các Công ty tư nhân khác. Công ty xi măng Bỉm Sơn về cơ bản còn thiếu
chiến lược cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm tiếp cận thị trường, thiếu đội ngũ cán
bộ có kinh nghiệm cũng như trình độ trong công tác thị trường, marketing.
Nguồn tài chính dành cho hoạt động marketing, quảng cáo của Công ty còn rất
hạn chế.
Trong điều kiện phát triển và bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay
thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty là một đòi hỏi cấp thiết. Nếu
không có đủ năng lực tiếp cận thị trường, thiếu một chiến lược cạnh tranh linh
hoạt thì Công ty sẽ khó có khả năng cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh
trong ngành, sẽ bị loại khỏi cuộc chơi trong việc tiếp cận thị trường và thu hút
khách hàng.
Hơn nữa, sau cổ phần hóa Công ty có điều kiện để mở rộng mạng lưới
hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh
mới. Chính vì vậy, hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ quyết định đến sự
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
tồn tại và phát triển của Công ty trong tương lai.
II - MỤC TIÊU, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI
1. Mục tiêu nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn,
về năng lực cạnh tranh của Công ty trong giai đoạn sau cổ phần hóa, từ đó có thể
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty để thu hút
khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển của Công ty trong giai đoạn sau cổ
phần hóa.

2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh trong Doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Đưa ra các định hướng chiến lược và giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty, cũng như tăng cường vị thế trên thị trường
để thu hút khách hàng trong giai đoạn sau cổ phần hóa.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài giới hạn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
phương pháp điều tra, thu thập thông tin, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp thống kê và phương pháp dự báo.
5. Nội dung nghiên cứu:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Ngoài phần Mở đầu, kiến nghị và phần Kết luận thì đề tài này gồm 3
chương:
Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực của Doanh
nghiệp.
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm
Sơn trong giai đoạn 2003 – 2008.
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG GIAI ĐOẠN
SAU CỔ PHẦN HOÁ
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng
cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH:

1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
1.1. Khái niệm về cạnh tranh:
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất,
trao đổi hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Trong bất kỳ một lĩnh vực,
ngành nghề nào thì khái niệm về cạnh tranh cũng xuất hiện nhưng ở các góc độ
và mục đích khác nhau. Chính vì vậy, mặc dù cạnh tranh không phải là một khái
niệm mới song rất khó để đưa ra một định nghĩa cụ thể, rõ ràng và thống nhất.
Theo Các Mác: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận cao nhất”.
Theo từ điển kinh tế: “Cạnh tranh là quá trình ganh đua hoặc tranh giành
giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản phẩm
hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa”.
Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là “sự ganh đua,
kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh
tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn
thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa
hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu
dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với lợi
nhuận và cạnh tranh. Cạnh tranh tác động đến mọi thành phần trong nền kinh tế.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động xã
hội. Như chúng ta đã biết, kết quả của cạnh tranh là loại bỏ các doanh nghiệp có

chi phí sản xuất kinh doanh cao, kinh doanh không hiệu quả. Một nền kinh tế
mạnh là khi có các công ty, doanh nghiệp vững mạnh và có khả năng cạnh tranh
cao.
Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ cung - cầu. Cạnh tranh sẽ là
tiền đề thuận lợi làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt dưới sự biến động của cầu
và công nghệ sản xuất. Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến việc phân
phối thu nhập tạo sự cân bằng trên thị trường.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn là nguyên nhân thúc đẩy sự đổi mới về mọi mặt
của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu
và bất khả kháng. Cạnh tranh là cuộc đua mà trong đó các doanh nghiệp luôn
phải tìm cách để vươn lên chiếm ưu thế và giành thắng lợi. Muốn vậy, doanh
nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý. Coi cạnh
tranh như là một công cụ, là bàn đạp vươn lên.
Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có
chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học,
công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của khách hàng. Điều này
đã khiến các doanh nghiệp cần phải lựa chọn phương án chiến lược tối ưu như:
chi phí sản xuất thấp nhất, công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm...
Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất và phát triển, cạnh tranh sẽ đào thải những
doanh nghiệp hoạt động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi và khắc phục những
yếu điểm để vươn lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào có các chính sách
cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng doanh thu và lợi
nhuận. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang tính tương đối, không hoàn toàn
triệt để. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn nhìn nhận cạnh tranh, điều kiện cạnh
tranh là các căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển cho doanh
nghiệp.

Đối với khách hàng
Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng được tiêu dùng hàng hóa cũng như dịch
vụ có chất lượng cao hơn với giá thành hợp lý hơn và nhu cầu của người tiêu
dùng cũng được đáp ứng tốt hơn. Có được như vậy là vì có cạnh tranh nên hàng
hóa trong nước và trao đổi quốc tế trở nên phong phú và đa dạng về chủng loại,
bao bì, mẫu mã và hơn hết là chất lượng ngày càng tốt hơn mà giá lại rẻ hơn.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Trong thị trường sẽ xuất hiện hai đối
tượng là người bán và người mua. Người bán đại diện cho bên cung còn người mua
đại diện cho bên cầu. Người bán thì muốn bán giá cao, người mua mong mua được
giá thấp, họ cạnh tranh với nhau nhằm thu được lợi ích cao nhất về mình.
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Người mua là những người tiêu
dùng hàng hóa. Họ không chỉ cạnh tranh với nhau về tiêu dùng những loại hàng
hóa giống nhau mà còn về những loại hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng khác nhau.
Họ cạnh tranh để mua được nhiều loại hàng hóa, dịch vụ với một mức chi phí
nhất định, nhưng lợi ích tiêu dùng lại lớn nhất.
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Người bán là những người cung cấp
hàng hóa. Cũng giống như người mua, không chỉ những người cung cấp một loại
hàng hóa, dịch vụ giống nhau mới cạnh tranh nhau mà những người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ khác nhau cũng cạnh tranh với nhau. Họ cạnh tranh để bán
được nhiều hàng hóa với giá cao hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các công ty, doanh
nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do
đó, để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ thi đua cạnh tranh nhau về khoa
học kỹ thuật, phải luôn cải tiến công cụ sản xuất, máy móc thiết bị.
- Cạnh tranh ngoài ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng
minnh các doanh nghiệp của một ngành với những ngành khác nhằm đạt được

lợi nhuận cao nhất và tìm kiếm được nơi đầu tư có lợi.
2.3. Căn cứ vào thị trường:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
- Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà
trong đó không phải chỉ có một người tiêu dùng hay sản xuất nào đó, là bộ phận
lớn của thị trường có ảnh hưởng cá nhân đến giá cả của thị trường.
Đặc điểm của thị trường này:
+ Có vô số người bán và người mua độc lập trên thị trường.
+ Hàng hóa có tính đồng nhất cao, dễ thay thế cho nhau trên thị trường.
+ Người bán và người mua đều không ảnh hưởng đến giá cả, thị trường của
sản phẩm, tức là họ phải chấp nhận giá của thị trường.
+ Trong thị trường của cạnh tranh hoàn hảo thì người bán và người mua đều
có thể tự do tham gia hay rút khỏi thị trường mà không bị ràng buộc.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị
trường gồm cạnh tranh độc quyền và cạnh tranh tập đoàn, mà trong đó chỉ có
một số hãng cung ứng mức cung ứng của toàn bộ thị trường về mọi loại hàng
hóa và dịch vụ nào đó.
+ Cạnh tranh độc quyền: được hiểu là thị trường trong đó có nhiều hãng sản
xuất và bán những sản phẩm tương tự như nhau, các sản phẩm này có thể thay
thế cho nhau nhưng không hoàn hảo. Các hãng cạnh tranh với nhau bằng việc
bán những sản phẩm “dị biệt hóa”.
+ Cạnh tranh tập đoàn: trong thị trường, hàng hóa và dịch vụ có thể giống
nhau một ít, có thể khác nhau một ít, các hàng hóa mới thì khó gia nhập thị
trường và giá cả thì luôn cứng nhắc.
II – NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH:
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
rất nhiều các lĩnh vực nhưng đến nay vẫn là khái niệm khó hiểu và rất khó đo

lường.
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng
giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả
năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa năng lực cạnh
tranh là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu
vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
2. Phân loại năng lực cạnh tranh:
Đã có rất nhiều những nhà chuyên môn đã nghiên cứu và có những công
trình nghiên cứu công phu về năng lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Momaya
(2002), Ambastha và cộng sự (2005), hoặc các tác giả người Mỹ như Henricsson
và các cộng sự (2004)… đã hệ thống hóa và phân loại các nghiên cứu và đo
lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo 3 loại: nghiên cứu năng lực
cạnh tranh hoạt động, năng lực cạnh tranh dựa trên khai thác, sử dụng tài sản và
năng lực cạnh tranh theo quá trình.
Năng lực cạnh tranh hoạt động là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh
chú trọng vào những chỉ tiêu cơ bản gắn với hoạt dộng kinh doanh trên thực tế
như: thị phần, năng suất lao động, giá cả, chi phí v.v… Theo những chỉ tiêu này,
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp có các chỉ tiêu
hoạt động kinh doanh hiệu quả, chẳng hạn như năng suất lao động cao, thị phần
lớn, chi phí sản xuất thấp…
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Năng lực cạnh tranh dựa trên tài sản là xu hướng nghiên cứu nguồn hình
thành năng lực cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các nguồn lực như nhân lực, công
nghệ, lao động. Theo đó, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những
doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực hiệu quả như nguồn nhân lực, lao động,
công nghệ, đồng thời có lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực này.
Năng lực cạnh tranh theo quá trình là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh
tranh như các quá trình duy trì và phát triển năng lực năng lực cạnh tranh. Các

quá trình bao gồm: quản lý chiếc lược, sử dụng nguồn nhân lực, các quá trình tác
nghiệp (sản xuất, chất lượng…).
3. Các cấp độ năng lực cạnh tranh:
3.1. Năng lực cạnh tranh của Quốc gia:
Năng lực cạnh tranh của Quốc gia hay của một nền kinh tế được hiểu là thực
lực và lợi thế mà nền kinh tế hay quốc gia đó huy động được để duy trì và cải
thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một
cách lâu dài và có ý nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế hay
cho quốc gia mình.
3.2. Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử
dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
3.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm:
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh
chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng một thị
trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị
phần của sản phẩm đó.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
III – CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP:
Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Khách hàngNgười cung cấp
Sản phẩm
thay thế
Các công ty
trong ngành
Kinh tế
Công nghệ

Chính trị
Xã hội
Đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn
Môi trường vĩ mô
Môi trường ngành
1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp:
1.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:
1.1.1. Yếu tố kinh tế:
Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính
quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế
ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường
là: tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ lãi suất.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng
tiền của các quốc gia khác. Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến
tính cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất trên thị trường quốc tế.
Khi giá trị của đồng tiền trong nước thấp hơn so với giá trị của các đồng tiền
khác, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ tương đối rẻ hơn, còn hàng hóa sản xuất
ngoài nước sẽ tương đối đắt hơn.
Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại,
tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được.
Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư trở thành công việc hoàn toàn
may rủi. Thực trạng của lạm phát là làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó dự
đoán được, khi đó nó sẽ hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế, gây nên tình trạng
thất nghiệp, và cuối cùng thì đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Tỷ lệ lãi suất
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B

×