Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

đánh giá hiện trạng chất lượng nước sinh hoạt vùng bán sơn địa huyện quảng trạch, tỉnh quảng bình và đề xuất giải pháp quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
TRƯƠNG THỊ TỊNH THANH
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG
NƯỚC SINH HOẠT VÙNG BÁN SƠN ĐỊA
HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60.85.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
KIỂM SOÁT VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH TRÍ
Huế, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản
thân. Các số liệu trong luận văn có được là trung thực và
chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu có
kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả khác thì đều có
trích dẫn cụ thể, rõ ràng.
Tác giả luận văn
Trương Thị Tịnh Thanh
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn
này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô, gia
đình, bạn bè và các phòng ban liên quan. Tôi xin bày tỏ
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Khoa sinh
học, Đại học Khoa học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi


giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn;
TS Nguyễn Minh Trí, thầy giáo hướng dẫn, người thầy
kính mến đã hết lòng giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận
văn tốt nghiệp;
Xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị ở Trung tâm khí
tượng Ba Đồn; Trung tâm Kỹ thuật Đo lường Thử nghiệm,
Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quảng Bình;
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Quảng Trạch;
Trung tâm Kiểm nghiệm Dược phẩm Thừa Thiên Huế, đã
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn sinh viên ngành môi
trường và Tài nguyên sinh vật K34 đã giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn;
Dù đã có rất nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong
nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quý báu
của quý thầy cô và các bạn.
Quảng Bình 09/2014
Người thực hiện luận văn
Trương Thị Tịnh Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị

Trang 4
Trang phụ bìa 4
Lời cam đoan 4
Lời cảm ơn 4
Mục lục 4
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 4
Danh mục bảng 4
DANH MỤC BẢNG 11
Số hiệu bảng 11
Tên bảng 11
Trang 11
1.1 11
Nhiệt độ trung bình ngày trong năm 2013 tại Quảng Trạch 11
23 11
1.2 11
Độ ẩm trung bình các tháng trong năm 2013 tại Quảng Trạch 11
23 11
1.3 11
Lượng mưa trung bình các tháng trong năm 2013 11
24 11
1.4 11
Số giờ nắng trung bình trong năm 2013 tại Quảng Trạch 11
24 11
3.1 11
Hiện trạng sử dụng nước sinh hoạt ở vùng bán sơn địa Quảng Lưu 11
31 11
3.2 11
Địa điểm lấy mẫu nước sinh hoạt ở thôn Tô Xá, Quảng Phương và thôn 6, 7,
Quảng Thạch 11
34 11

3.3 11
35 11
Số hiệu hình vẽ 12
Tên hình vẽ 12
Trang 12
3.1 12
Biểu đồ biểu diễn cơ cấu các nguồn nước sinh hoạt tại vùng bán sơn địa
Quảng Lưu - Quảng Trạch 12
29 12
3.2 12
pH trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
36 12
3.3 12
Độ đục trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
37 12
3.4 12
Hàm lượng amoni trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
38 12
3.5 12
Hàm lượng sắt tổng số trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
39 12
3.6 12
COD trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
40 12
3.7 12
Độ cứng trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 12
41 12
3.8 12
43 12
3.9 12

49 12
3.10 12
50 12
3.11 12
51 12
3.12 12
52 12
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 2
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 2
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 3
Chương 1 4
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. VAI TRÒ CỦA NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 4
1.1.1. Vai trò của nguồn nước 4
1.1.2. Tầm quan trọng của nước sạch tới sức khỏe của con người 5
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC 6
1.2.1. Trên thế giới 6
1.2.2. Ở Việt Nam 8
1.2.3. Khảo sát về nước sinh hoạt ở tỉnh Quảng Bình 13
1.3. TÌNH HÌNH KHAI THÁC SỬ DỤNG NƯỚC SINH HOẠT 15
1.3.1. Ở khu vực thành thị 16
1.3.2. Ở khu vực nông thôn 16
1.4. TÌNH HÌNH CẤP NƯỚC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 17
1.4.1. Về chính sách 17
1.4.2. Những khó khăn trong vấn đề cấp nước sạch ở nông thôn 18
1.4.3. Quản lý nước sinh hoạt ở tỉnh Quảng Bình 20
1.5. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 21

1.5.1. Nhiệt độ 22
1.5.2. Độ ẩm 23
1.5.3. Lượng mưa 23
1.5.4. Số giờ nắng - lượng bốc hơi 24
1.5.5. Gió và hướng gió 25
1.5.6. Chế độ thủy văn 25
Chương 2 26
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 26
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 26
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.3.1. Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập thông tin 26
2.3.2. Phương pháp lấy mẫu 26
2.3.3. Phương pháp phân tích mẫu 27
2.3.4. Thống kê và xử lý số liệu: bằng phần mềm Microsoft Excel 2007 [12] 28
Chương 3 29
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
3.1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NƯỚC SINH HOẠT TẠI VÙNG BÁN SƠN ĐỊA QUẢNG LƯU, HUYỆN
QUẢNG TRẠCH 29
3.2. CHẤT LƯỢNG CÁC NGUỒN NƯỚC TẠI VÙNG BÁN SƠN ĐỊA XÃ QUẢNG LƯU, HUYỆN QUẢNG
TRẠCH 33
3.2.1. Đánh giá chất lượng nước sinh hoạt trên địa bàn thôn Tô Xá xã Quảng Phương và thôn
6, 7 xã Quảng Thạch 34
3.2.2. Đánh giá chất lượng nước sinh hoạt trên địa bàn xã Quảng Lưu 35
3.3. THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH TẠO NGUỒN NƯỚC SẠCH 47
3.3.1. Xây dựng mô hình thử nghiệm 47
3.3.2. Đề xuất mô hình xử lý sắt cho các hộ gia đình nông thôn 50
3.4. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC SINH HOẠT 52
3.4.1. Giải pháp quản lý tài nguyên nước sinh hoạt vùng BSĐ Quảng Lưu 52
3.4.2. Những giải pháp trong quản lý tài nguyên nước sinh hoạt 57

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 62
I. KẾT LUẬN 62
II. ĐỀ NGHỊ 63
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNMT Bộ Tài nguyên và môi trường
BSĐ Bán sơn địa
BYT Bộ Y tế
CLN Chất lượng nước
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
COD Chemical oxygen demand
NS và VSMTNT Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
NXB Nhà xuất bản
QĐ – TTg Quyết định của Thủ tướng
UNICEF United Nations International Children's Emergency Fund
WHO World Health Organization
GĐ Giếng đào
GK Giếng khoan
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1 Nhiệt độ trung bình ngày trong năm 2013 tại Quảng Trạch 23
1.2 Độ ẩm trung bình các tháng trong năm 2013 tại Quảng Trạch 23
1.3 Lượng mưa trung bình các tháng trong năm 2013 24

1.4 Số giờ nắng trung bình trong năm 2013 tại Quảng Trạch 24
3.1 Hiện trạng sử dụng nước sinh hoạt ở vùng bán sơn địa
Quảng Lưu
31
3.2 Địa điểm lấy mẫu nước sinh hoạt ở thôn Tô Xá, Quảng
Phương và thôn 6, 7, Quảng Thạch
34
3.3 Chất lượng nước sinh hoạt tại thôn Tô Xá, Quảng Phương và
thôn 6, 7, Quảng Thạch
35
DANH MỤC HÌNH VẼ
Số hiệu
hình vẽ
Tên hình vẽ
Trang
3.1
Biểu đồ biểu diễn cơ cấu các nguồn nước sinh hoạt tại vùng
bán sơn địa Quảng Lưu - Quảng Trạch
29
3.2 pH trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 36
3.3 Độ đục trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 37
3.4 Hàm lượng amoni trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 38
3.5 Hàm lượng sắt tổng số trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 39
3.6 COD trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 40
3.7 Độ cứng trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 41
3.8 Tổng Coliform trung bình của các mẫu nước sinh hoạt 43
3.9 Mẫu nước giếng bị nhiễm phèn sắt trước và sau khi lọc 49
3.10 Mẫu nước trước và sau khi xử lý sắt nấu với lá chè xanh 50
3.11 Mô hình xử lý sắt trong nước sinh hoạt bị nhiễm phèn 51
3.12 Ma trận Swot 52

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nước giữ một vai trò đặc biệt trong đời sống sinh tồn và phát triển của
con người, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên trái đất và rất cần thiết cho
các hoạt động kinh tế - xã hội của loài người. Trong cơ thể sống, nước chiếm
khoảng 70% khối lượng cơ thể con người trưởng thành. Nước còn được coi
như một tiêu chí để đánh giá mức sống, sự phát triển của mỗi quốc gia hoặc
mỗi khu vực. Nước dùng cho ăn uống an toàn và vệ sinh là những yếu tố quyết
định để giảm nghèo và phát triển bền vững.
Nước sạch và vệ sinh môi trường là nhu cầu rất cần thiết trong đời sống
hàng ngày của con người. Nước sạch cho dân cư nông thôn là một trong những
tiêu chí quan trọng của Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới. Hiện nay, một số
vùng nông thôn ở nước ta, người dân đang sử dụng nguồn nước sinh hoạt chủ
yếu từ sông, hồ, nước mưa và nước ngầm từ giếng khơi, giếng khoan Nếu
nguồn nước không bảo đảm vệ sinh sẽ gây nguy cơ mắc các bệnh đường ruột,
bệnh ngoài da và một số căn bệnh khác. Chính vì thế, vai trò của nước sạch ở
các vùng nông thôn luôn quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết [28].
Vùng bán sơn địa Quảng Lưu thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình là nơi chưa được cung cấp nước sạch cho sinh hoạt. Ở đây nguồn nước
sinh hoạt của người dân chủ yếu là do mỗi hộ gia đình tự khai thác bằng cách
đào giếng, thu nước mưa, hay sử dụng nước từ các ao hồ đây là những
nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm bởi các hoạt động sinh hoạt và sản xuất
nông nghiệp của người dân.
Việc quản lý chất lượng nước dùng cho sinh hoạt hàng ngày của người
dân nơi đây chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ chính quyền, có chăng
chỉ là nhận thức của một bộ phận nhỏ các hộ gia đình trong việc tạo nguồn
1
nước sạch để sử dụng cho sinh hoạt bằng cách xây bể lọc, xây dựng nhà vệ
sinh, chuồng trại cách xa nguồn nước… còn phần lớn người dân vẫn quen sử
dụng trực tiếp các nguồn nước mà chưa qua khâu xử lý nào cả.

Do vậy, đề tài: “Đánh giá hiện trạng chất lượng nước sinh hoạt vùng
bán sơn địa huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình và đề xuất giải pháp
quản lý” được thực hiện nhằm khảo sát tình hình sử dụng, đánh giá chất
lượng nước sinh hoạt tại xã Quảng Lưu, đồng thời đưa ra những giải pháp phù
hợp góp phần quan trọng vào công tác quản lý, đảm bảo chất lượng nước sinh
hoạt đạt tiêu chuẩn sử dụng cho người dân tại địa phương.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Điều tra tình hình sử dụng và đánh giá chất lượng các nguồn nước hiện
đang được sử dụng cho sinh hoạt tại vùng bán sơn địa Quảng Lưu, huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Xác định một số nguyên nhân chính tác động
đến chất lượng nước sinh hoạt và đề xuất các giải pháp cho công tác khai
thác, quản lý chất lượng nước sinh hoạt tại đây.
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
* Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ hiện trạng chất
lượng các nguồn nước sinh hoạt ở vùng bán sơn địa Quảng Lưu thuộc huyện
Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, từ đó làm cơ sở để đề xuất các giải pháp khai
thác tạo nguồn nước an toàn phục vụ cho mục đích sinh hoạt của người dân
trong khu vực.
* Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
- Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về hiện
trạng chất lượng nước sinh hoạt ở vùng bán sơn địa Quảng Lưu thuộc huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2
- Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho những người làm công tác
quy hoạch, khai thác và cung cấp nước sạch, phục vụ mục tiêu xây dựng nông
thôn mới tại địa phương.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về chất lượng các nguồn nước sinh
hoạt tại vùng bán sơn địa Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Bao gồm 3 thôn thuộc xã Quảng Lưu; thôn Tô Xá, xã Quảng Phương và thôn
6, 7 xã Quảng Thạch. Trong đề tài chỉ đánh giá chất lượng nguồn nước theo
tiêu chí phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày mà không bao gồm ăn uống.
Trong khu vực nghiên cứu sẽ lựa chọn các địa điểm để lấy mẫu sao cho
có thể thu được các mẫu đại diện cho tiểu vùng.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được trình bày trong 70 trang, bố cục như sau:
Mở đầu: 3 trang; Tổng quan các vấn đề nghiên cứu: 22 trang; Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: 3 trang; Kết quả nghiên cứu: 33 trang; Kết
luận và đề nghị: 2 trang; Danh mục công trình của tác giả: 1 trang; Tài liệu
tham khảo: 6 trang.
Trong luận văn có 7 bảng, 12 biểu đồ và hình vẽ, 53 tài liệu tham khảo
(43 tài liệu tiếng Việt, 7 tài liệu nước ngoài và 3 tài liệu từ Internet) để minh
họa cho kết quả nghiên cứu.
3
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VAI TRÒ CỦA NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
1.1.1. Vai trò của nguồn nước
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các sinh vật
trên quả đất. Từ xưa, con người đã biết đến vai trò quan trọng của nước; các
nhà khoa học cổ đại đã xem nước là thành phần cơ bản của vật chất. Trong
quá trình phát triển của xã hội loài người, các nền văn minh lớn của nhân loại
đều xuất hiện và phát triển trên lưu vực của các con sông lớn như: nền văn
minh Lưỡng hà ở Tây Á nằm ở lưu vực hai con sông lớn là Tigre và Euphrate
(thuộc Irak hiện nay); nền văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil; nền văn minh
sông Hằng ở Ấn Ðộ; nền văn minh Hoàng Hà ở Trung Quốc; nền văn minh
sông Hồng ở Việt Nam
Nước có vai trò đặc biệt quan trọng với cơ thể, con người có thể nhịn
ăn

được
vài ngày, nhưng không thể nhịn uống nước. Nước chiếm khoảng
70% trọng lượng

thể, 65 - 75% trọng lượng cơ, 50% trọng lượng mỡ, 50%
trọng lượng xương. Nước là chất quan trọng để các phản ứng
hóa
học và sự
trao đổi chất diễn ra không ngừng trong cơ thể. Nước là một dung môi,
nhờ
đó tất cả các chất dinh dưỡng được đưa vào cơ thể, sau đó được chuyển vào
máu
dưới
dạng dung dịch [38].
Một người cân nặng 60kg cần cung cấp 2-3 lít nước để đổi
mới
lượng
nước của có thể và duy trì các hoạt động sống bình
thường trong ngày.
Uống
không đủ nước sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tế bào cũng như chức năng
các hệ thống trong cơ thể. Khi cơ thể mất trên 10% lượng nước có khả năng
gây trụy tim mạch, hạ huyết áp, nhịp tim tăng cao. Nguy hiểm hơn, có thể tử
vong nếu lượng nước mất trên 20%”. Bên cạnh oxy, nước đóng vai trò quan
4
trọng thứ hai để duy trì sự sống [43].
1.1.2. Tầm quan trọng của nước sạch tới sức khỏe của con người
Kết quả điều tra vệ sinh môi truờng nông thôn của Bộ Y tế năm 2007
cho thấy tỷ lệ nhà tiêu hộ gia đình vùng nông thôn Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ
sinh theo Quyết dịnh 08/2005/QÐ-BYT còn rất thấp. Chỉ có 18% số hộ nông

thôn có nhà tiêu dạt tiêu chuẩn vệ sinh về xây dựng và sử dụng bảo quản, bao
gồm 7,9% nhà tiêu thấm dội nuớc, 7,7% nhà tiêu tự hoại, 2,0% nhà tiêu hai
ngăn và 0,3% nhà tiêu Biogas. Có 30,1% số hộ nông thôn Việt Nam đang sử
dụng phân nguời trong sản xuất nông nghiệp, nuôi cá. Ða số những hộ này
không ủ phân hoặc ủ phân không đủ thời gian quy định. Ðây là một trong
những nguyên nhân quan trọng góp phần gây ô nhiễm phân nguời ra nguồn
nuớc và môi truờng xung quanh [8].
Thực tế điều tra cho thấy, cơ cấu nguồn nuớc ăn uống, sinh hoạt chính
ở các hộ gia đình vùng nông thôn hiện nay như sau: 33,1% giếng khoan,
31,2% giếng khơi, 1,8% nuớc mưa, 11,7% nuớc máy, 7,5% nuớc suối đầu
nguồn, 11% nuớc sông ao hồ, 3,7% nguồn nuớc khác [8].
Có 11,6% đối tuợng được phỏng vấn vẫn thuờng xuyên uống nuớc lã.
Thói quen uống nuớc lã sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ
cộng đồng do mắc phải những bệnh dịch lan truyền theo nuớc [8].
Như đã mô tả ở trên, các phương tiện cấp nuớc và vệ sinh chưa được
cải thiện nhiều, đặc biệt ở vùng nông thôn. Ðiều đó đã ảnh huởng nhất định
đến sức khỏe nguời dân (đặc biệt là trẻ nhỏ), đến phát triển xã hội và kinh tế.
Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2008 các bệnh liên quan đến nuớc: tiêu
chảy, hội chứng lỵ, lỵ trực khuẩn là 3 trong số 10 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất,
trong dó tiêu chảy là bệnh đứng thứ 6 trong các bệnh có tỷ lệ tử vong lớn nhất
(0,009/100 000 dân). Năm 2009 tình hình cũng chưa được cải thiện, tỷ lệ
mắc/100 000 dân với bệnh tiêu chảy là 1081,66 ; tả là 0,56 ; lỵ trực khuẩn là
5
30,55 ; lỵ amip là 10,97 thương hàn là 1,77. Tỷ lệ mắc các bệnh này chỉ đứng
thứ 5 sau một số bệnh đường hô hấp [8].
Số mắc thương hàn ở trẻ em năm 2008 là 1316 trẻ, bệnh tả là 1049 trẻ.
Năm 2009 các tỷ lệ này có giảm (thương hàn 823 trẻ và tả 474 trẻ), nhưng tỷ
lệ chết không thay đổi. Các bệnh liên quan đến chất thải là các bệnh thường
gặp tại Việt Nam. Trong nuớc thải, nhất là từ bệnh viện, có chứa nhiều mầm
bệnh: vi khuẩn, vius, Protoza, trứng giun [8].

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.2.1. Trên thế giới
Nước ngọt có ý nghĩa sống còn đối với an ninh chính trị, an sinh xã
hội của mỗi quốc gia. Đến năm 2010, có 89% dân số thế giới, tức khoảng
6,1 tỷ người được sử dụng nguồn nước đã cải thiện. Tuy nhiên, tổ chức
UNICEF và WHO cũng khuyến cáo còn lại 11% dân số, tức khoảng 783
triệu người trên toàn cầu vẫn không được tiếp cận với nguồn nước đảm bảo
vệ sinh. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến hơn 3000 trẻ em trên thế giới
phải tử vong hằng ngày do tiêu chảy - một căn bệnh liên quan tới nguồn
nước không đảm bảo điều kiện vệ sinh [52].
Vấn đề nước sạch dùng cho sinh hoạt của người dân luôn được các
quốc gia trên thế giới quan tâm. Nước sinh hoạt nông thôn là kế hoạch hành
động của Liên Hợp Quốc trong chương trình nước sạch nông thôn. Để cảnh
báo và ngăn chặn ô nhiễm nguồn nước ngọt, từ năm 1997, hệ thống quan trắc
môi trường toàn cầu (GEMS) đã cùng với tổ chức y tế thế giới (WHO) và
UNESCO triển khai mạng lưới quan trắc chất lượng nước toàn cầu [50].
Nước ngầm là nguồn cung cấp nước ngọt lớn nhất cho sinh hoạt nhưng
ngày càng cạn kiệt do bị khai thác quá mức và ngày càng bị ô nhiễm bởi hoạt
động của con người. Do vậy, nhiều quốc gia như Phần Lan, Hà Lan, Anh đã
6
giảm nhu cầu về nước cho công nghiệp, một số ngành công nghiệp sử dụng
lại nước thải đô thị đã tái chế [50].
Năm 1990, các nhà khoa học Áo đã đưa ra phương pháp lọc nước bằng
cát. Nước sau khi được lọc qua lớp cát có thể loại bỏ các hợp chất hữu cơ và
các ion kim loại nặng [49].
Năm 2007, Michael Berg và cộng sự đã nghiên cứu về ô nhiễm Asen
trong nước vùng đồng bằng sông Cửu Long ở Campuchia và Việt Nam: ô
nhiễm Asen trong nước ngầm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tại
Campuchia trung bình đạt 217 µg/l và ở miền Nam Việt Nam trung bình 39
µg/l. Nhóm nghiên cứu đã thu các mẫu tóc của người dân sử dụng nước ngầm

tại Việt Nam, campuchia, Bangladesh và Tây Bengal để nghiên cứu gián tếp
hàm lượng Asen và tác động của Asen đến sức khỏe con người, nhận thấy: tại
Việt Nam và Campuchia có hàm lượng Asen cao hơn đáng kể so với nhóm
đối chứng tại Bangladesh và Tây Bengal. Qua nghiên cứu cho thấy Asen có
tác động nguy hại rất lớn đến sức khỏe con người đặc biệt với mức độ ô nhiễm
càng lớn thì khả năng gây hại sức khỏe càng cao [45].
Stephen Luby (2008) đã phát hiện phổ biến khắp Đông Nam Á cả hai
nguồn cung cấp nước cho đô thị và nông thôn thường xuyên bị ô nhiễm bởi
các vi sinh vật có nguồn gốc từ phân người với tần số rất phổ biến đến mức
nó được chấp nhận như là một điều hiển nhiên. Đáng quan tâm là nước ngầm
tầng nông ở nhiều khu vực của Đông Nam Á bị ô nhiễm asen với mức độ
nguy hiểm cao. Mặc dù nhiều phương pháp tiếp cận có thể xử lý asen trong
nước uống, tuy nhiên có rất ít bằng chứng về các giải pháp có thể được áp
dụng ở quy mô lớn và khả năng giảm phơi nhiễm asen cho con người [47].
7
1.2.2. Ở Việt Nam
Trong những năm qua vấn đề nước sạch cho sinh hoạt luôn được
Chính phủ quan tâm và được đưa vào các chương trình mục tiêu của quốc
gia trong từng giai đoạn phát triển.
Để giải quyết kịp thời và thỏa mãn nhu cầu về nước sạch cho người dân
đã có nhiều tổ chức, cơ quan và các nhà khoa học tham gia nghiên cứu nhằm
bảo vệ nguồn nước sạch và xử lý nước bị ô nhiễm.
Trong những năm gần đây, chương trình cấp nước và vệ sinh môi
trường nông thôn do UNICEF tài trợ đã góp phần cải thiện tình hình nước
sạch và vệ sinh cho nông thôn. Hằng năm, nhà nước đã đầu tư nguồn kinh phí
lớn và tranh thủ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các nhà tài trợ cho việc
xã hội hóa, phát triển thị trường nước sạch và dịch vụ vệ sinh môi trường
nông thôn, cũng như các công trình nghiên cứu, triển khai các kỹ thuật đánh
giá chất lượng nước cùng các công nghệ xử lý thích hợp và khả thi [51].
Năm 1996, Phạm Song đã xây dựng phương pháp loại bỏ sắt và

mangan trong nước giếng. Sắt trong nước giếng được khử bằng phương pháp
sục khí rồi lọc với vật liệu là cát, ngoài ra có thể tách sắt ra khỏi nước bằng
chất keo tụ (nhôm sulfat, sắt clorua hoặc hỗn hợp hai chất này). Các chất này
hấp thu mạnh ion sắt và tất cả cùng kết tủa lắng xuống. Còn mangan được loại
bỏ khỏi nước bằng phương pháp oxy hóa hay dùng các chủng vi khuẩn như
Metallogenium personatum; Caulococeus manganifer để trộn vào vật liệu
lọc nhằm tách mangan (II) ra khỏi nước [29].
Phan Văn Tình và Lưu Minh Đại (1997) đã giới thiệu một số kết quả
nghiên cứu khả năng kết tủa để loại bỏ các ion Thori (IV) và Chì (II) bằng
axit humic tách ra từ than bùn. Kết quả này làm tiền đề định hướng cho việc
phát triển công nghệ xử lý nước bị nhiễm kim loại nặng, độc hại bằng vật liệu
là than bùn có phổ biến ở nước ta [40].
8
Năm 2000, Phan Đỗ Hùng và cộng sự đã nghiên cứu và đề nghị
phương pháp xử lý nước sinh hoạt từ nước mặt chất lượng thấp bằng màng vi
lọc polyetylen dạng sợi rỗng có kích thước lỗ xốp 0,4µm. Nước nguồn được
đưa vào bể lọc phía ngoài màng sợi rỗng, nước sẽ thấm qua màng vào phía
trong màng và hút sang bể chứa. Trong quá trình lọc, bể lọc được sục khí liên
tục. Kết quả sau khi lọc loại bỏ các chất rắn lơ lửng, giảm đáng kể các vi
khuẩn gây bệnh, đạt tiêu chuẩn nước dùng cho sinh hoạt [18].
Nguyễn Hữu Phú (2001) đã nghiên cứu và xây dựng quy trình ứng
dụng than hoạt tính trong xử lý nước tự nhiên sau khi lọc cát hoặc qua giai
đoạn oxy hóa. Than hoạt tính có khả năng làm giảm nồng độ các chất hữu cơ
trong nước, loại bỏ nhiều chất ô nhiễm hữu cơ có mặt trong nước bằng cơ chế
hấp phụ [26].
Năm 2002, Đoàn Thị Hồng Diễm đã khảo sát quá trình xử lý nước
giếng bị ô nhiễm nitrat bằng than bùn là một loại vật liệu phổ biến ở Thừa
Thiên Huế [10].
Trần Quốc Thưởng (2002) qua nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp cấp
nước sinh hoạt nông thôn vùng duyên hải miền trung là: hệ thống cấp nước

tập trung (hệ thống cấp nước tự chảy, hệ thống bơm dẫn nước mặt và hệ
thống bơm dẫn nước ngầm) và hệ thống cấp nước đơn lẻ cho hộ gia đình [39].
Qua nghiên cứu khai thác nguồn nước từ mạch lộ, phục vụ cấp nước
sinh hoạt cho đồng bào miền núi 9 tỉnh gồm Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thuộc vùng
miền núi và trung du, miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Năm 2006, Vũ Văn Thặng
đã đề xuất các giải pháp khai thác hiệu quả và bền vững phù hợp với mô hình
cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn miền núi với qui trình
vận hành đơn giản và chi phí cho công tác quản lý thấp [36].
9
Nghiên cứu về quản lý môi trường nước ở Đồng bằng sông Cửu Long -
Việt Nam của Lê Anh Tuấn và Guido Wyseure (2007) cho thấy: đây là khu
vực rất đông dân cư với mật độ cao và có liên quan đến ô nhiễm nước. Các
tác giả đã xác định được năm vấn đề môi trường nước ở khu vực này là sự
xâm nhập mặn khu vực ven biển, ảnh hưởng của đất phèn, nguồn nước ô
nhiễm từ hoạt động của con người, tình trạng thiếu nước ngọt trong mùa khô
và nước đục trong mùa mưa. Từ đó đã đề xuất các biện pháp quản lý tài
nguyên nước trong khu vực bằng cách theo dõi và kiểm soát cho cả số lượng
và chất lượng tương ứng với kinh tế môi trường và phát triển bền vững [48].
Thịnh Thị Hương và cộng sự (2008) đã đánh giá chất lượng nước sông
Tiền, sông Hậu ở một số vùng dân cư của tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cần
Thơ trong năm 2006. Kết quả nghiên cứu cho thấy: nhu cầu oxy hoá học lúc
triều thấp vượt quá giới hạn cho phép từ 1,1 - 6 lần. Nhu cầu oxy sinh hóa sau
5 ngày (BOD
5
) vượt mức cho phép từ 1,5 - 10 lần. Mật độ coliform của nhánh
sông Hậu ở huyện Thốt Nốt, Cờ Đỏ và quận Bình Thuỷ vượt mức cho phép từ
4,6 - 92 lần (theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5942 -1995, loại A). Nước
sông Tiền, sông Hậu tại các điểm lấy mẫu không đạt Tiêu chuẩn vệ sinh. Các
kết quả này sẽ giúp cho các cấp chính quyền, cơ quan Y tế xây dựng chương

trình cải thiện chất lượng nước và ngăn ngừa các bệnh truyền qua nước [21].
Đặng Ngọc Chánh, Vũ Trọng Thiện và Nguyễn Xuân Thủy (năm 2008)
qua quá trình khảo sát chất lượng nước sinh hoạt nông thôn và xác định các
yếu tố ô nhiễm ảnh hưởng đến nguồn nước sử dụng tại hộ gia đình ở hai tỉnh
Long An và Hậu Giang, kết quả cho thấy: tại Long An tỷ lệ sử dụng nước cấp
theo đường ống là 27,2%; các hộ gia đình vẫn còn thích sử dụng nước mưa
(26,3%). Tại tỉnh Hậu Giang có 38% các hộ gia đình thích sử dụng nước bề
mặt; tỷ lệ sử dụng nước giếng khoan là 21,6%. Nhìn chung mẫu nước đạt tiêu
chuẩn của Long An (44,9%) cao hơn so với Hậu Giang (23,9%). Các yếu tố ô
10
nhiễm ảnh hưởng đến chất lượng nước giếng ở mức trung bình, không có rào
chắn gia súc (78%); gần nhà tiêu (65%); gần bãi rác, phân súc vật (32%). Các
yếu tố ô nhiễm đối với nướcmặt chiếm tỷ lệ cao là: không rào chắn ngăn súc
vật (97%); chăn thả trâu bò, vịt tại nguồn nước (24%). Đối với nước mưa
không có bộ phận chắn rác, bộ phận lọc chiếm tỷ lệ cao (83%); dụng cụ múc
nước gần các nguồn ô nhiễm chiếm tỷ lệ 20% [5].
Nguyễn Lê Mạnh Hùng, Mai Thị Hương Xuân và Nguyễn Thị Chúc
(2008) đã khảo sát, đánh giá chất lượng vệ sinh nước ăn uống thông qua chỉ
số vi sinh vật tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số huyện Buôn Đôn, tỉnh
Đăk Lăk trong năm 2007 cho thấy: tỷ lệ các mẫu nước ăn uống không đạt tiêu
chuẩn vi sinh vật tại xã Krông Na là 86,67%, tại xã Ea Huar là 73,33% và tại
xã Ea Noul là 80%. Nguyên nhân là do đồng bào các dân tộc thiểu số tại Tây
Nguyên phần lớn sử dụng nước suối và nước giếng đào để sinh hoạt và ăn
uống. Nhóm tác giả cũng đề nghị chính quyền địa phương cần quan tâm hơn
nữa đến điều kiện vệ sinh môi trường sống, đặc biệt là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt và ăn uống của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng
sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn [20].
Năm 2011, Nguyễn Chí Hiếu, Đặng Viết Hùng đã đánh giá hiện trạng
nước sạch tại các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, nguồn nước ngầm chiếm từ 75 - 98% nước cấp cho sinh hoạt ở các

huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, trong đó từ 80 - 90% là nước ngầm do
người dân tự khai thác, còn lại từ 10 - 20% nước do các trạm cấp nước tập
trung cung cấp. Nguồn nước ngầm hiện đã có những dấu hiệu của sự ô nhiễm
vi sinh, một số chỉ tiêu khác cần quan tâm và có những biện pháp khắc phục
kịp thời. Huyện Cần Giờ và Nhà Bè nguồn nước dùng cho ăn uống và một
phần sinh hoạt của người dân chủ yếu do công ty cấp nước thành phố cung
cấp chiếm từ 53 - 70%, chủ yếu thông qua các phương tiện vận chuyển như sà
11
lan, xe bồn. Chất lượng và số lượng chưa đảm bảo và chưa đáp ứng được nhu
cầu. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước đạt tiêu chuẩn khoảng 25 - 30% [19].
Nguyễn Đức Hạnh (2012) đã công bố kết quả khảo sát điều tra chất
lượng nước mặt tỉnh Khánh Hòa trong năm 2011, cho thấy các nguồn nước
hồ, đập trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa chưa bị ô nhiễm nhiều, đạt tiêu chuẩn
chất lượng về mặt hóa lý và có thể sử dụng để phục vụ mục đích tưới trong
nông nghiệp, cần lưu ý về hàm lượng sắt (Fe) và oxy hòa tan trong nước và
cần có các giải pháp thích hợp [15].
Hoàng Thị Thắm và Ngô Thị Thanh Vân (2012) đã đánh giá thực trạng
các mô hình quản lý khai thác dịch vụ nước sạch nông thôn ở Việt Nam và
chỉ ra những hạn chế trong các mô hình đó là do: cơ chế, chính sách quản lý
cấp nước chưa phù hợp, hoạt động của các doanh nghiệp cấp nước còn mang
tính bao cấp trong đầu tư và quản lý, chưa tự chủ về tài chính. Để phát huy
những thế mạnh và khắc phục hạn chế từ các mô hình đó, các tác giả đề xuất
một mô hình quản lý, khai thác dịch vụ cấp nước sinh hoạt nông thôn có sự
quản lý kết hợp của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư [35].
Năm 2012, Võ Văn Phú đã khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp
bảo vệ tài nguyên nước ngọt trên đảo Cồn Cỏ - tỉnh Quảng Trị phục vụ cho
mục đích sinh hoạt. Kết quả cho thấy chất lượng nước tại đây đều đạt tiêu
chuẩn chất lượng nước tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống theo QCVN
02/2009/BYT của Bộ Y tế, có thể sử dụng tốt cho sinh hoạt hàng ngày [27].
Năm 2013, Nguyễn Thị Huyền Trang và Đào Vĩnh Lộc đã nghiên

cứu xây dựng mô hình khử sắt trong nước giếng khoan quy mô hộ gia đình.
Trong đề tài này, phương pháp làm thoáng kết hợp cột lọc cát dùng để khử
sắt cho hiệu suất xử lý sắt tổng số đạt 84,51% và hàm lượng sắt tổng số sau
xử lý là 0,48mg/l, thấp hơn quy định của QCVN 02:2009/BYT. Mô hình đã
12
được lắp đặt phục vụ nhu cầu sử dụng nước tại hộ gia đình huyện Bảo
Lâm, tỉnh Lâm Đồng [41].
Đoàn Thu Hà (2013) đã đánh giá hiện trạng cấp nước nông thôn vùng
đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, hiện nay toàn vùng chỉ có 36,52% dân số
được sử dụng nước đạt QCVN 02:2009/BYT. Nhiều công trình cấp nước tập
trung quy mô nhỏ và rất nhỏ đang ở tình trạng xuống cấp, chất lượng nước
cấp không đảm bảo yêu cầu cho người sử dụng [14].
Kết quả đánh giá chất lượng nguồn nước sinh hoạt trên địa bàn xã Nam
Tiến - huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên của Lương Văn Minh và Đào Đoàn
Hạ (2013) cho thấy các nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt trên địa bàn xã khá
đa dạng, có trữ lượng dồi dào và chất lượng các nguồn nước đảm bảo tiêu
chuẩn cho phép dùng trong sinh hoạt hàng ngày của người dân [23].
1.2.3. Khảo sát về nước sinh hoạt ở tỉnh Quảng Bình
Từ ngày thống nhất đến nay, Nhà nước ta đã quan tâm nhiều đến vấn
đề nước sạch dùng cho sinh hoạt của người dân, nhất là từ những năm 1990
trở lại đây. Tỉnh Quảng Bình đã có những chính sách, dự án để thay đổi tình
hình và cải thiện điều kiện nước sạch ở nông thôn.
Kết quả nghiên cứu đánh giá hệ sinh thái và môi trường sông Kiến
Giang ở tỉnh Quảng Bình của Nguyễn Văn Hợp và cộng sự năm 2002 cho
thấy các vấn đề lo lắng về chất lượng nước bao gồm: sự ô nhiễm hữu cơ
cao, nhiễm phèn, ô nhiễm vi khuẩn và có hiện tượng phú dưỡng. Tuy nhiên
chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm bởi các chất độc như các ion kim loại độc,
thuốc trừ sâu [17].
Trương Đình Đắc và Nguyễn Huy Nga (2005) đã đánh giá tình hình sử
dụng nước sinh hoạt tại các hộ gia đình ở 3 huyện của Quảng Bình và Thừa

Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình sử dụng nước tại 8180 hộ
gia đình ở 3 huyện miền Bắc Trung Bộ tương đối đảm bảo cả về số lượng lẫn
13

×