Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn tây bắc giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.08 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài“Công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống
bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn
hiện nay” là vấn đề đã được tác giả luận án quan tâm, ấp ủ, trăn trở và có sự
chuẩn bị từ lâu. Đặc biệt, với gần 10 năm trải nghiệm thực tiễn, từ là trung đội
trưởng đến chính trị viên đại đội, tiểu đoàn làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến
đấu (SSCĐ) A2, nên tác giả đã có những hiểu biết nhất định về hoạt động
phòng, chống bạo loạn lật đổ (BLLĐ) của đơn vị cơ sở.
Nghiên cứu thực tiễn tác giả thấy rằng, công tác đảng, công tác chính trị
(CTĐ, CTCT) trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của bộ đội địa phương
(BĐĐP) các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay là đề tài có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, đây là một đề tài mới và khó;
song, trên cơ sở sưu tầm hệ thống tài liệu và số liệu điều tra khá phong phú và
được sự giúp đỡ, góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học đã cho phép tác giả
triển khai nghiên cứu hiệu quả đề tài này.
Quá trình thực hiện nghiên cứu, tác giả tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan; song, đây thực sự là một công
trình nghiên cứu hoàn toàn không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Tây Bắc là địa bàn chiến lược trọng yếu, là “phên dậu” phía Tây Bắc
của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an
ninh (QP-AN) , nên trong lịch sử cũng như hiện nay, các thế lực thù địch luôn
triệt lợi dụng địa hình, địa bàn này để chống phá ta. Nơi đây đã từng diễn ra
hoạt động nổi phỉ, xưng vua, đón vua, gây bạo loạn. Đây là khu vực tập trung
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều tôn giáo, phần lớn các tỉnh có đường
biên giới; kinh tế - xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân khó khăn, tiềm ẩn
nhiều nhân tố gây mất ổn định, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động,
tập hợp lực lượng gây BLLĐ, cướp chính quyền.
Dưới sự lãnh đạo, quản lý, điều hành trực tiếp của cấp ủy, chính quyền
các cấp, BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc đã có nhiều hoạt động thiết thực


và hiệu quả, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây
dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, vừa làm “nòng cốt” thực hiện
nhiệm vụ QP-AN và phòng, chống BLLĐ, giữ vững ổn định an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn; tham gia xử trí có hiệu quả các tình huống
phức tạp về an ninh chính trị. Đây là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều
mặt công tác, trong đó, CTĐ, CTCT có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Những năm qua, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc được tiến hành trong những điều kiện
khó khăn, phức tạp về nhiều mặt, nhưng cũng đạt được những tiến bộ tích cực,
góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức, các lực lượng, xây dựng đơn vị VMTD,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội địa bàn.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm phòng, chống
BLLĐ, CTĐ, CTCT còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn. Nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực
lượng; nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ, CTCT chậm được đổi mới; chất
1
lượng các mặt hoạt động chưa cao, nhất là năng lực của các chủ thể, lực lượng
tiến hành CTĐ, CTCT còn hạn chế Hiện nay, trước những âm mưu, thủ đoạn
chống phá thâm độc, quyết liệt của các thế lực thù địch, nhằm kích động tư
tưởng ly khai, đòi thành lập “Vương quốc Mông tự trị” ở vùng Tây Bắc nước
ta; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phòng, chống BLLĐ tiếp tục có sự phát triển
mới nặng nề, phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa CTĐ,
CTCT. Đây chính là lý do để tác giả chọn vấn đề: “Công tác đảng, công tác
chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong

nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng thế trận QP-
AN, khu vực phòng thủ vững chắc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của địch.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản về CTĐ, CTCT trong nhiệm
vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
* Phạm vi nghiên cứu
Công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay. Phạm vi khách
thể chủ yếu tập trung vào BĐĐP các tỉnh tiêu biểu là Điện Biên, Lai Châu,
Lào Cai, Sơn La và Yên Bái. Các số liệu, tư liệu phục vụ nghiên cứu được giới
hạn chủ yếu từ năm 2004 đến nay. Địa bàn và quy mô khảo sát điểm, theo
phương pháp chọn mẫu ở các tỉnh nói trên.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Là hệ thống nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội vô sản; đường lối, quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về xây dựng nền quốc phòng toàn

dân, xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh, khu vực phòng thủ vững chắc và
thực hiện nhiệm phòng, chống “DBHB”, kết hợp BLLĐ, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế độ XHCN.
* Cơ sở thực tiễn
2
Là toàn bộ hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc; những nhận xét, đánh giá về
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc thể hiện trong các văn kiện của các cấp ủy đảng, báo cáo tổng kết
của các cơ quan chức năng cấp trên và số liệu thống kê, kết quả điều tra, khảo
sát của tác giả ở các CQQS, đơn vị BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử
dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, chú
trọng các phương pháp: lôgích - lịch sử; hệ thống - cấu trúc; phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia, đặc
biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng, luận giải rõ quan niệm, đặc điểm công tác đảng, công tác
chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BBĐP các tỉnh trên địa bàn
Tây Bắc;
- Đề xuất giải pháp tăng cường CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay,
trong đó, giải pháp quan trọng nhất là, chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với các tổ
chức, các lực lượng liên quan thực hiện có hiệu quả các hoạt động phòng,
chống BLLĐ và thực hiện tốt nội dung, quy trình CTĐ, CTCT trong các giai
đoạn thực hành chống BLLĐ.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu đề tài luận án góp phần làm sâu sắc thêm lý luận về
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên

địa bàn Tây Bắc; cung cấp những luận cứ khoa học cho cấp ủy địa phương
trên địa bàn cùng lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cơ quan chính trị, cán bộ chính
trị BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc tham khảo, xác định chủ trương,
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm
vụ phòng, chống BLLĐ.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy, học tập môn CTĐ, CTCT trong các học viện, nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, phần tổng quan, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh
mục công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài và danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục có liên quan đến đề tài luận án.
3
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1. Những công trình, đề tài về khoa học quân sự và nghệ thuật
quân sự liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình, nhóm công trình bàn về quan niệm, vị trí, vai trò
lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống BLLĐ
Đề tài Quân đội tham gia phòng, chống bạo loạn ly khai trong thời kỳ
mới, do Đại tá, Tiến sĩ Lê Sĩ Thái (chủ nhiệm), 2006; Trần Sĩ Thành, “Vụ bạo
loạn ở khu vực tự trị Tân Cương nhìn từ góc độ an ninh”, Tạp chí Kiến thức
quốc phòng hiện đại, Số 9, 2009; Bộ đội Biên phòng tham gia chống bạo loạn
lật đổ trong khu vực phòng thủ tỉnh biên giới Tây Bắc, của Nguyễn Xuân
Dược, Luận án Tiến sĩ khoa học quân sự, Học viện Quốc phòng, Hà Nội,
2001; Lực lượng vũ trang địa phương tham gia phòng chống bạo loạn lật đổ ở
địa bàn Tây Nguyên, của Nghiêm Đình Nhập, Luận án Tiến sĩ quân sự, Học
viện Quốc phòng, Hà Nội, 2007; Nghiên cứu sử dụng lực lượng vũ trang địa
phương tham gia phòng chống bạo loạn lật đổ trong khu vực phòng thủ ở Tây
Bắc, của Phạm Lâm Hồng, Luận án Tiến sĩ khoa học quân sự, Học viện Quốc
phòng, Hà Nội, 2011; Bộ Quốc phòng, Giáo dục Quốc phòng (Bồi dưỡng kiến

thức QP-AN cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện và tương đương), đối
tượng 2, Nxb QĐND, 2004… đã làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò, sự cần thiết
phải sử dụng lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống BLLĐ.
1.1.2. Các công trình, nhóm công trình bàn về nhiệm vụ, yêu cầu và
phương thức lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống BLLĐ
Cuốn sách Phòng chống bạo loạn lật đổ, ly khai của địch trên địa bàn
Tây Nguyên, từ thực tiễn đến lý luận, của Võ Tiến Trung, Nxb QĐND, Hà
Nội, 2011; Sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân phòng chống “diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, của Nguyễn Thới Bưng, Luận án phó Tiến sĩ khoa học
quân sự, Học viện Quốc phòng, Hà Nội, 1996; Kết hợp bộ đội chủ lực với lực
lượng vũ trang địa phương trong chống bạo loạn lật đổ có can thiệp của lực
lượng phản ứng nhanh, Trần Văn Lượng, Luận án phó Tiến sĩ khoa học quân
sự, Học viện Quốc phòng, Hà Nội, 1995; Tổ chức, sử dụng lực lượng bộ đội
địa phương chống bạo loạn chính trị của khu vực phòng thủ huyện biên giới
Tây Nguyên, Nguyễn Văn Công, Luận văn thạc sĩ, Học viện Lục quân, Đà Lạt,
2010; Nguyễn Văn Bích, “Bạo loạn và phòng chống bạo loạn”, Tạp chí Khoa
học Quân sự, Số 9, 2003…
1.2. Những công trình, đề tài về công tác đảng, công tác chính trị liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án
4
1.2.1. Các công trình, nhóm công trình bàn về vị trí, vai trò CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của lực lượng vũ trang, quân đội
Cuốn sách Góp phần tìm hiểu đường lối quân sự của Đảng, của
Nguyễn Đình Ước, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003; Tổng cục Chính trị, Giáo
trình CTĐ, CTCT, tập 2 (dùng cho đào tạo cán bộ cấp chiến thuật, chiến dịch),
Nxb QĐND, Hà Nội, 2008; Tổng cục Chính trị, Giáo trình CTĐ, CTCT, tập 4
(dùng cho đào tạo cán bộ cấp phân đội), Nxb QĐND, Hà Nội, 2008; Đảng ủy
Quân sự Trung ương, Điều lệ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân
đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 2009; Viện khoa học xã hội và nhân văn
Quân sự, Từ điển công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân

Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007; Công tác đảng, công tác chính trị
trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, của
Nguyễn Như Hội, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị, Hà Nội,
2009; Công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ quân đảo Trường Sa của các đơn vị thuộc Quân chủng Hải Quân hiện
nay, của Trần Đại Nghĩa, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị,
Hà Nội, 2010… đều khẳng định, CTĐ, CTCT trực tiếp góp phần giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là cấp uỷ, tổ chức đảng đối với mọi
nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ; trực tiếp xây dựng và
phát huy nhân tố chính trị - tình thần, làm cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp của
các đơn vị; xây dựng con người, xây dựng tổ chức vững mạnh, phát huy vai trò
các tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ; và góp phần nâng cao trình độ, khả năng
SSCĐ, sức mạnh chiến đấu của từng đơn vị.
1.2.3. Các công trình, nhóm công trình bàn về chủ thể, lực lượng, đối
tượng CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của lực lượng vũ
trang, quân đội
Điều lệ Công tác chính trị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc,
người dịch Dương Minh Hào, Triệu Anh Ba, Phòng biên tập sách quốc tế, Nxb
QĐND, Hà Nội, 2003; Viện khoa học xã hội và nhân văn Quân sự, Từ điển công
tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, Hà
Nội, 2007; Tổng cục Chính trị, Hướng dẫn CTĐ, CTCT trong công tác quân sự
địa phương, Nxb QĐND, Hà Nội, 1998; Bộ Quốc phòng, Giáo dục Quốc phòng
(Bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện và tương
đương), đối tượng 2, Nxb QĐND, 2004; Công tác đảng, công tác chính trị trong
nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của các đơn vị cơ sở Binh đoàn Tây
Nguyên giai đoạn hiện nay, của Đinh Văn Thiên, Luận văn thạc sĩ Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2005.
1.2.3. Các công trình, nhóm công trình bàn về nội dung, hình thức, biện
pháp CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
Cuốn Từ điển công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân

Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007; Tổng cục Chính trị, Giáo trình CTĐ,
CTCT, tập 2 (dùng cho đào tạo cán bộ cấp chiến thuật, chiến dịch), Nxb QĐND,
Hà Nội, 2008; Tổng cục Chính trị, Giáo trình CTĐ, CTCT, tập 4 (dùng cho đào
5
tạo cán bộ cấp phân đội), Nxb QĐND, Hà Nội, 2008; Đảng ủy Quân sự Trung
ương, Điều lệ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt
Nam, Hà Nội, 2009… Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu nêu
trên là cơ sở quan quan để tác giả luận án tiếp thu, kế thừa và làm sâu sắc thêm
những vấn đề cơ bản về CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
2. Đánh giá khái quát về kết quả nghiên cứu của các công trình
đã công bố và những vấn đề cơ bản luận án sẽ tập trung giải quyết
2.1. Khái quát một số kết quả chủ yếu của các công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, dựa trên kết quả đánh giá, dự báo khả năng, tình huống
BLLĐ trên những địa bàn xác định, cùng với đối tượng và phạm vị
nghiên cứu khác nhau, các tác giả có những quan niệm khác nhau về hoạt
động phòng, chống BLLĐ của từng lực lượng cụ thể, đối với từng lĩnh
vực cụ thể; song, nhìn chung các quan niệm ấy đều xoay quanh vấn đề
lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống BLLĐ. Khẳng định
lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống BLLĐ là một yêu
cầu khách quan.
Thứ hai, các tác giả đều khẳng định, lực lượng vũ trang, quân đội có
vị trí, vai trò rất quan trọng trong xử trí tình huống BLLĐ. Việc “Quân đội ta
tham gia tích cực và có hiệu quả vào công cuộc phòng, chống bạo loạn lật đổ,
củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh chính trị - xã hội là nhiệm vụ
vừa cơ bản, thường xuyên, vừa cấp bách hiện nay”.
Thứ ba, các tác giả đã xác định rõ những nội dung nhiệm vụ, yêu
cầu và phương thức lực lượng vũ trang, quân đội tham gia phòng, chống
BLLĐ. Đáng chú ý là, “Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là bảo vệ các

mục tiêu trọng yếu về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của địa phương
và trung ương; bao vây, cô lập, tiêu diệt lực lượng vũ trang phản động từ
bên trong; ngăn chặn các lực lượng vũ trang phản động từ bên ngoài”.
Thứ tư, các tác giả đều khẳng định rằng, CTĐ, CTCT trong lực lượng
vũ trang, quân đội và trong các nhiệm vụ của đơn vị quân đội có vị trí, vai trò rất
quan trọng, là linh hồn, mạch sống của Quân đội ta. Vì vậy, tiến hành CTĐ,
CTCT ở từng cơ quan, đơn vị quân đội, trong tất cả các nhiệm vụ, trong đó có
nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ là một hoạt động cơ bản, là nguyên tắc trong xây
dựng và hoạt động của mỗi đơn vị và toàn quân.
Thứ năm, khi bàn về nguyên tắc tiến hành phòng, chống BLLĐ,
các tác giả đều nhất quán khẳng định: Các lực lượng vũ trang địa
phương tham gia chống BLLĐ phải đặt dưới sự lãnh đạo, điều hành của
6
cấp uỷ, chính quyền địa phương và sự chỉ đạo của cấp trên trực tiếp của
mỗi lực lượng.
2.2. Những vấn đề cơ bản luận án sẽ tập trung giải quyết
Một là, nghiên cứu toàn diện về CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, nhận diện đầy đủ sự
vận động, phát triển của nó; trên cơ sở đó luận giải một cách cơ bản, hệ thống
những vấn đề lý luận về CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Hai là, khảo sát thực tiễn, đánh giá toàn diện, đầy đủ, cụ thể thực
trạng, đúc rút những kinh nghiệm CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Ba là, phân tích sự phát triển của tình hình nhiệm vụ, xác định yêu
cầu, đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, đồng bộ, có tính khả thi tăng cường
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay.
7
Chương 1

NHIỆM VỤ PHÒNG, CHỐNG BẠO LOẠN LẬT ĐỔ
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC ĐẢNG,
CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG NHIỆM VỤ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG CÁC TỈNH
TRÊN ĐỊA BÀN TÂY BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc và nhiệm vụ
phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn
Tây Bắc
1.1.1. Địa bàn Tây Bắc và bộ đội địa phương các tỉnh trên
địa bàn Tây Bắc
* Khái lược về địa bàn Tây Bắc
Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có
chung đường biên giới với Lào 612km, với Trung Quốc 512km. Vùng này có
khi được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt
Nam (2 tiểu vùng kia là vùng Đông Bắc và vùng Đồng bằng sông Hồng). Về
mặt hành chính, vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La,
Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai. Tại vùng Tây Bắc thời Pháp thuộc đã lập ra xứ
Thái tự trị. Năm 1955 Khu tự trị Thái - Mèo được thành lập, gồm 3 tỉnh Lai
Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ, và đến năm 1962 gọi là Khu tự trị Tây Bắc. Khu
tự trị này giải thể năm 1975.
Địa hình các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc phần lớn là rừng, núi cao
hiểm trở (chiếm trên 75% diện tích), có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn cao đến 1500 m,
dài tới 180 km, rộng 30 km, với một số đỉnh núi cao trên 3000 m. Vùng
Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà và sông Thao (tức sông Hồng).
Thượng nguồn của sông Mã cũng ở trên vùng đất Tây Bắc. Khí hậu, thời
tiết trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc rất khắc nghiệt. Do ảnh hưởng của địa
hình rừng núi, nên khí hậu có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa (từ tháng 4 đến tháng 10) thường có mưa to, kéo theo lũ lụt, đường sá
sạt lở, giao thông chia cắt và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau),

dẫn tới tình trạng thiếu nước ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân.
Dân số năm tỉnh Tây Bắc: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La và
Yên Bái khoảng 3 triệu người, với 34 dân tộc anh em cùng chung sống đan
xen nhau, trong đó, phần đông là các dân tộc thiểu số (chiếm tới 63%). Mật
độ dân số trung bình (theo số liệu thống kê năm 2009) là 85 người/km2,
thấp hơn nhiều so với mật độ dân số chung toàn quốc (254 người/km2),
phân bố không đều, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới mật độ rất thấp chỉ
khoảng 9-12 người/km2. Nơi đây là địa bàn căn cứ cách mạng và an toàn
khu của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Trong
suốt chiều dài lịch sử, nhân dân các dân tộc Tây Bắc luôn đoàn kết, gắn bó
với nhau đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc Tây Bắc luôn chấp hành nghiêm
8
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Hệ thống chính trị
từ cơ sở đến cấp huyện, tỉnh thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Tuy
nhiên, so với yêu cầu đổi mới, xây dựng và phát triển địa phương thì vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhất là ở
cơ sở còn yếu; hoạt động của bộ máy chính quyền, đoàn thể chất lượng,
hiệu quả thấp; một số nơi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, có địa phương
vẫn còn tới “41,17% số bản và cơ sở chưa có đảng viên”, cá biệt có nơi
“100% đồng bào người Mông, là bản “trắng” không có đảng viên”; phong
trào quần chúng hoạt động yếu, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh biên
giới, an ninh chính trị - xã hội cơ sở. Lợi dụng những yếu kém đó, các thế
lực thù địch đã và đang tuyên truyền, kích động, tranh thủ tập hợp lực
lượng mưu đồ thành lập “Vương quốc Mông tự trị”.
* Bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
Bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc (gồm CQQS và đơn
vị BĐĐP tỉnh, huyện và tương đương) là một bộ phận của lực lượng vũ trang
Quân khu 2, của QĐND Việt Nam, đồng thời, là bộ phận quan trọng cấu thành
hệ thống chính trị của địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, đặt dưới sự

lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương và sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy quân sự cấp trên về công tác quốc
phòng, quân sự. BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc được biên chế theo quy
định, với cơ cấu, lực lượng gồm: CQQS và các đơn vị BĐĐP. Cấp tỉnh có bộ
chỉ huy quân sự tỉnh với các phòng chức năng (tham mưu, chính trị, hậu cần,
kỹ thuật), trường quân sự, mỗi tỉnh biên giới có một trung đoàn thiếu, các đại
đội BĐĐP đủ quân. Cấp huyện có ban chỉ huy quân sự huyện với các ban trực
thuộc (tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật), các tiểu đoàn khung thường
trực.
Khi có Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp của Ủy Ban thường vụ Quốc
Hội do Chủ tịch nước công bố, BĐĐP được mở rộng ở cấp tỉnh từ 1-2 trung
đoàn BĐĐP đủ quân, cấp huyện đến tiểu đoàn BĐĐP đủ quân.
1.1.2. Nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa
phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
* Bạo loạn lật đổ và âm mưu, thủ đoạn gây BLLĐ của địch ở địa bàn
các tỉnh Tây Bắc
Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam: “Bạo loạn là hành động
chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng ly
khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm gây rối
loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền (địa
phương hoặc trung ương). Có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bạo loạn
chính trị kết hợp với vũ trang. Bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
9
Âm mưu của các thế lực thù địch là tạo ra một vùng mất ổn định, tiến
tới ly khai, thành lập “Vương quốc Mông tự trị” trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc
và vùng lân cận.
Về thủ đoạn, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc,
tôn giáo, kích động tư tưởng ly khai, tự trị; móc nối gây dựng lực lượng chống

phá ta trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc. Từ cuối năm 2008 đến nay, hoạt động
tuyên truyền về “Vương quốc Mông tự trị” có xu hướng gia tăng và dịch
chuyển từ Bắc Lào vào Điện Biên và lan rộng ra các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
Việt Nam. Chúng đặc biệt quan tâm và triệt để lợi dụng tâm lý của người
Mông là muốn có vua và lợi dụng sinh hoạt đạo Tin lành để kích động, lôi kéo
một bộ phận người Mông tin theo luận điệu tuyên truyền về “Nhà nước Mông
tự trị”, “Vương quốc Mông”.
Để xây dựng lực lượng vũ trang và các tổ chức phản động, bọn phản
động ở trong và ngoài nước đã có những hoạt động cấu kết với nhau, tổ chức
các hoạt động tập hợp lực lượng, huấn luyện quân sự, mua sắm vũ khí nhằm
gây bạo loạn, tiến tới thành lập “Vương quốc Mông tự trị”. Qua đấu tranh khai
thác, ta phát hiện một số đối tượng ở huyện Mường Nhé/Điện Biên đã móc nối
với lực lượng phản động ở Lào, Trung Quốc, tổ chức hoạt động tập hợp lực
lượng, huấn luyện, mua sắm vũ khí mục đích kéo sang Lào, phối hợp với bọn
phản động ở Lào gây bạo loạn lật đổ, thành lập “Vương quốc Mông”.
Thông qua các hoạt động ký kết hợp đồng kinh tế, hoạt động từ thiện,
hoạt động tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh, hoạt động khảo sát,
nghiên cứu du lịch sinh thái… để điều tra, thăm dò, móc nối cơ sở cũ và xây
dựng cơ sở mới. Đáng chú ý, các tổ chức phi chính phủ hoạt động theo Hiến
chương Liên hợp quốc (Non-Govermental Organization, viết tắt là NGO) đặt
trụ sở đại diện, hoạt động tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nông - lâm nghiệp,
y tế, giáo dục… Bên cạnh những hiệu quả do NGO mang lại, đóng góp vào
xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội vùng sâu, vùng xa, chương trình
y tế, nhân đạo… Song, trong hàng ngũ cán bộ nhân viên của NGO có những
phần tử cực đoan, lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam để hoạt động
chính trị, chống phá trên nhiều lĩnh vực. Nổi lên ở vùng Tây Bắc là, chúng đã
trợ giúp đắc lực, bảo đảm tài chính, chuyển phát tài liệu ấn phẩm phản động,
hỗ trợ cho đào tạo, bồi dưỡng phần tử phản động thuộc đồng bào thiểu số và
chỉ đạo các hoạt động của lực lượng phản cách mạng ở địa phương; tập trung
thực hiện mục tiêu “Tin lành hóa” đời sống chính trị, xã hội đồng bào các dân

tộc thiểu số, tranh giành ảnh hưởng với Đảng, chính quyền địa phương, lôi kéo
quần chúng thực hiện ý đồ ly khai, tự trị.
Thông qua các phương tiện, lực lượng tuyên truyền để kích động, tập
hợp lực lượng biểu tình, gây rối, bạo loạn. Các thế lực thù địch đặc biệt quan
tâm đến đồng bào thiểu số người Mông. Nhiều đài phát thanh của phương Tây,
điển hình là đài FEBC (đặt ở Ma-ni-la Phi-lip-pin) thường xuyên, liên tục phát
đi chương trình giảng kinh Thánh bằng tiếng Mông với những nội dung chủ
yếu là ca ngợi Vàng Chứ (tức chúa trời), lôi kéo, hướng dẫn người Mông bỏ
tập quán tín ngưỡng truyền thống đi theo đạo Tin lành - Vàng Chứ; khơi dậy
10
quá khứ tồn tại của Vương quốc Miêu xa xưa, làm thấm đẫm vào người nghe
mối hận thù dân tộc; khơi dậy ý thức vị kỷ, cực đoan, đi đến tự phá bỏ khối
đoàn kết giữa người Mông với các tộc người khác. Bằng những luận điệu nguy
hiểm và nham hiểm nhất của đài FEBC là “lên án tổ tiên người Mông không
lập Tổ quốc riêng cho tộc mình nên cơ hàn, cực khổ bao đời nay, lên án người
Mông hiện nay theo đường “đạo cũ” (ám chỉ theo Đảng và Nhà nước) bao
năm nay mà vẫn chưa hết khổ”.
Lợi dụng những khó khăn, bất cập trong việc tổ chức thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch triệt để khai
thác mâu thuẫn nội bộ như: đời sống kinh tế, quan hệ bất bình đẳng giữa các
dân tộc, những sai lầm, thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội và việc giải quyết
các vấn đề đó… để gây rối loạn tình hình an ninh chính trị - xã hội; tạo cớ gây
xung đột nội bộ, tiến tới biểu tình, đòi yêu sách về đời sống (đất đai, cơ sở sinh
hoạt tôn giáo…), sau đó là yêu sách về chính trị, nếu không đạt được sẽ gây
BLLĐ, cướp chính quyền.
* Nhiệm vụ và đặc điểm nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các
tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
Hoạt động phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc là tổng thể các chủ trương, nội dung, biện pháp xây dựng
các tổ chức, lực lượng, cơ quan, đơn vị BĐĐP; tham gia xây dựng và

cùng với hệ thống chính trị địa phương chủ động ngăn ngừa, triệt tiêu
những nhân tố dẫn đến BLLĐ; đồng thời, phối hợp với các lực lượng
liên quan trong khu vực phòng thủ kiên quyết đập tan mọi hành động
gây BLLĐ của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bộ máy chính quyền
địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây
Bắc. Một là, tham gia xây dựng cơ sở địa phương VMTD đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ QP-AN. Hai là, thực hiện chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng,
Nhà nước; đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng gây BLLĐ. Ba là, phối hợp
cùng các lực lượng tham gia xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội kết
hợp với củng cố QP-AN. Bốn là, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện những
nhân tố có thể dẫn đến mất ổn định để tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa
phương có chủ trương, biện pháp, kế hoạch chủ động giải quyết, đối phó. Năm
là, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và tổ chức huấn luyện, diễn tập các phương
án chống BLLĐ sát thực tế. Sáu là, phối hợp với các lực lượng trong khu vực
phòng thủ chủ động, kiên quyết bảo vệ các mục tiêu chính trị, kinh tế, quân sự
được phân công và đánh chiếm lại mục tiêu khi bị lực lượng BLLĐ chiếm giữ.
Bảy là, sẵn sàng tham gia tiêu diệt lực lượng vũ trang phản ứng nhanh của địch
từ nước ngoài hỗ trợ, chi viện cho bọn phản động gây BLLĐ.
Đặc điểm nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc.
11
Thứ nhất, đối tượng của nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc đa dạng, phức tạp.
Thứ hai, lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ là tất cả
cơ quan, đơn vị, mọi CB, CS thuộc BĐĐP, trong đó cán bộ là người dân tộc ở
địa phương chiếm tỷ lệ thấp; hạ sĩ quan, binh sĩ là người dân tộc ở địa phương
chiếm tỷ lệ cao.
Thứ ba, quá trình thực hiện nhiệm vụ BĐĐP luôn đặt dưới sự lãnh

đạo trực tiếp của cấp ủy đảng, sự điều hành thống nhất của chính quyền địa
phương và sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy cấp trên.
Thứ tư, địa bàn thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ là vùng rừng
núi, vùng sâu, vùng xa, có biên giới, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa
BĐĐP với các tổ chức, các lực lượng liên quan.
1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác đảng, công tác chính trị
trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
1.2.1. Quan niệm công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm
vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc
Với phương pháp tiếp cận CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc theo Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam, Điều lệ CTĐ, CTCT trong QĐND Việt Nam, đặc biệt là giáo trình
CTĐ, CTCT trong công tác quốc phòng, quân sự địa phương của Tổng cục
Chính trị QĐND Việt Nam và thực tiễn đặc điểm, nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, tác giả luận án đưa ra quan
niệm: Công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc là một bộ phận rất quan trọng trong
hoạt động lãnh đạo của cấp ủy địa phương và cấp ủy, tổ chức đảng trong
BĐĐP; bao gồm tổng thể các hoạt động công tác tư tưởng, công tác tổ chức
và công tác chính sách do các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức quần chúng ở địa phương tiến hành,
nhằm quán triệt quan điểm, tư tưởng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị
quyết, chỉ thị của cấp trên; xây dựng, phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của
các tổ chức, các lực lượng trong BĐĐP phối hợp cùng các lực lượng khác
trong khu vực phòng thủ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ,
bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ XHCN ở các địa phương trên địa bàn Tây
Bắc.
* Mục đích tiến hành CTĐ, CTCT: nhằm giữ vững, tăng cường sự

lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; quán triệt quan điểm, tư tưởng của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; xây dựng, phát huy
sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng trong BĐĐP; bảo đảm sự
12
phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác trong khu vực phòng thủ để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ trong mọi tình huống.
* Chủ thể và lực lượng tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo: các cấp ủy địa phương, cấp ủy, tổ
chức đảng trong BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Mặt khác, CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc còn chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng ủy,
chính ủy, Cục Chính trị Quân khu 2 và các ban Đảng của địa phương.
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp đối với CTĐ, CTCT là đảng ủy quân
sự địa phương; cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên cơ quan
quân sự địa phương.
Mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu tích
cực tiến hành CTĐ, CTCT theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Dưới sự lãnh
đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, sự chỉ đạo của chính ủy, chính trị viên và
đội ngũ cán bộ chính trị, các tổ chức quần chúng trong BĐĐP và các đoàn thể
chính trị - xã hội địa phương có trách nhiệm giáo dục, động viên, phát huy vai
trò của hội viên, đoàn viên chủ động tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ.
Lực lượng tham gia tiến hành CTĐ, CTCT là: Cơ quan chính trị, cán
bộ chính trị; đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức quần chúng trong BĐĐP
và các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương.
* Đối tượng CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc bao gồm:
Một là, các tổ chức, các lực lượng, mọi CB, CS, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng trong BĐĐP các tỉnh trên địa bàn

Tây Bắc và các lực lượng được phối thuộc, tăng cường cho cơ quan, đơn vị
BĐĐP. Hai là, các tổ chức đảng, chính quyền, các cơ quan ban, ngành, đoàn
thể, và nhân dân địa phương. Ngoài ra, có thể còn có nhân dân của nước láng
giềng (Lào và Trung Quốc) ở địa bàn khu vực biên giới tiếp giáp với địa
phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Ba là, bọn cầm đầu bạo loạn, lực lượng
vũ trang của địch, các đối tượng chống đối, các phần tử phản động trong các
dân tộc, trong các tổ chức tôn giáo; các phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến
chất và bộ phận quần chúng bị địch mua chuộc, lôi kéo, kích động tham gia
bạo loạn.
* Nội dung tiến hành CTĐ, CTCT:
Một là, quán triệt sâu sắc, đầy đủ đường lối, quan điểm của Đảng về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, về xây dựng thế trận QP-AN,
13
xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc và phòng chống “DBHB”, BLLĐ; đặc
biệt, chú trọng nắm vững quan điểm, phương châm, tư tưởng chỉ đạo, nguyên
tắc chống BLLĐ; xây dựng ý chí quyết tâm cho CB, CS BĐĐP và các tổ chức,
lực lượng tham gia phòng, chống BLLĐ. Hai là, kiện toàn, xây dựng và phát
huy vai trò của các tổ chức, lực lượng tham gia phòng, chống BLLĐ. Ba là,
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng BĐĐP VMTD, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Bốn là, lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện và luyện tập, diễn tập thuần thục các phương
án chống BLLĐ. Năm là, tham gia vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính
trị và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phòng ngừa BLLĐ. Sáu là, lãnh đạo,
chỉ đạo BĐĐP phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, các lực lượng liên quan (trong
và ngoài địa bàn; trong và ngoài biên giới với các nước láng giềng liên kề với
khu vực biên giới) thực hiện có hiệu quả các hoạt động phòng, chống BLLĐ.
Bảy là, tiến hành CTĐ, CTCT trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ chống
BLLĐ. Tám là, thực hiện các chế độ, chính sách, hướng sự nỗ lực cao nhất của
mọi tổ chức, lực lượng ở địa phương, trong BĐĐP thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ.

* Hình thức, biện pháp tiến hành CTĐ, CTCT:
Tiến hành công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho các tổ chức, các lực
lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ - trước hết và thường xuyên
đối với CB, CS các CQQS, đơn vị BĐĐP, nhất là với các đơn vị trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ trực SSCĐ A2. Phối hợp tổ chức giáo dục QP-AN cho các thành
phần, lực lượng, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc để phòng, chống BLLĐ.
Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố lực lượng và thế trận QP-AN, khu vực phòng
thủ (tỉnh, huyện) vững chắc, đủ sức phòng, chống BLLĐ. Phối hợp tham gia công
tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị và phát triển kinh tế - xã hội địa
phương. Phối hợp quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, không để CB, CS và
nhân dân bị địch mua chuộc, lôi kéo tham gia các hoạt động biểu tình, gây rối, bạo loạn.
Tiến hành công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương; đấu tranh làm thất bại thủ đoạn lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của địch nhằm gây BLLĐ. Chăm lo xây dựng và phát
huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng đủ sức hoàn thành nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ. Kết hợp chặt chẽ CTĐ, CTCT với công tác tham mưu, hậu cần,
kỹ thuật và các mặt công tác khác nâng cao hiệu quả phòng, chống BLLĐ. Kết hợp
công tác dân vận với TTĐB, tiến công địch vận dập tắt BLLĐ. Vận dụng tổng hợp các
hình thức, biện pháp đấu tranh thiết thực, hiệu quả trong cả “phòng” và “chống”
BLLĐ, như kết hợp công tác dân vận, địch vận và công tác bảo vệ chính trị nội bộ
trong tác chiến A2. Thông qua hoạt động thi đua, khen thưởng và thực hiện công tác
công tác chính sách động viên các lực lượng thực hiện nhiệm vụ. Định kỳ sơ, tổng kết,
14
rút kinh nghiệm việc tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Ngoài ra, với các tỉnh, huyện biên giới tiếp giáp với hai nước láng giềng
(Lào và Trung Quốc) cũng đã và đang diễn ra các hoạt động ngoại giao, đối ngoại
quân sự, ngoại giao nhân dân với các địa phương, đơn vị vũ trang nước Bạn.
Thông qua các hoạt động tiếp xúc, trao đổi, xử trí thông tin và phối hợp các hoạt
động, tuần tra, diễn tập…nhằm bảo vệ an ninh biên giới quốc gia, phòng chống các
loại tội phạm và phòng, chống BLLĐ ở địa bàn khu vực biên giới - được coi là

hình thức, biện pháp CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
1.2.2. Vai trò của công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm
vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc
Thứ nhất, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc trực tiếp góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ hai, CTĐ, CTCT trực tiếp xây dựng và phát huy sức mạnh nhân tố chính trị -
tinh thần, làm cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng đủ
sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Thứ ba, CTĐ, CTCT góp
phần xây dựng và phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành đoàn
thể ở địa phương, các lực lượng trên địa bàn trong phòng, chống BLLĐ. Thứ tư,
CTĐ, CTCT trực tiếp góp phần nâng cao trình độ, khả năng, sức mạnh chiến đấu
của đơn vị BĐĐP trong thực hiện nhiệm vụ A2. Thứ năm, CTĐ, CTCT góp phần
thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước trên địa bàn
Tây Bắc. Thứ sáu, CTĐ, CTCT góp phần xây dựng, củng cố mối quan hệ đoàn
kết quân dân, đoàn kết quốc tế, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới.
1.2.3. Đặc điểm công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ
phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc
Thứ nhất, đối tượng của CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc rất đa dạng và phức tạp.
Thứ hai, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc có nội dung, hình thức, biện pháp
phong phú, linh hoạt.
Thứ ba, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc được tiến hành trong điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội chậm phát triển so với địa bàn cả nước.
15

Thứ tư, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc được tiến hành với điều kiện cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
1.2.4. Những vấn đề có tính nguyên tắc tiến hành công tác đảng,
công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ
đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
Một là, CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các
tỉnh trên địa bàn Tây Bắc phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
cấp ủy địa phương và sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy quân sự cấp trên. Hai là,
CTĐ, CTCT phải luôn bám sát nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Ba là, CTĐ, CTCT phải
thường xuyên kết hợp chặt chẽ, linh hoạt công tác tư tưởng, công tác tổ chức,
công tác chính sách trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Bốn là, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng để tiến hành CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Năm là, CTĐ, CTCT phải được tiến hành
có kế hoạch, đồng thời cần chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực hiện, phù
hợp với tình hình thực tế.
Kết luận chương 1
Các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nhất
là về QP-AN, nên trong lịch sử cũng như hiện nay, các thế lực thù địch luôn lấy địa
bàn Tây Bắc làm địa bàn trọng điểm để chống phá ta; chúng triệt để lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo - coi đó là công cụ chính yếu, để tập hợp lực lượng, tổ chức
gây rối và BLLĐ, thực hiện mưu đồ ly khai, tự trị, thành lập “Vương quốc Mông
tự trị” trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc và các vùng giáp danh.
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh
trên địa bàn Tây Bắc có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở nền tảng
để nâng cao chất lượng và sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng,
hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Vì vậy, quá
trình tiến hành CTĐ, CTCT phải luôn bám sát, nắm vững các đặc điểm của
địa bàn, của nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn

Tây Bắc, lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ, CTCT cho phù hợp,
hiệu quả.
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC ĐẢNG,
CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG NHIỆM VỤ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG CÁC TỈNH
TRÊN ĐỊA BÀN TÂY BẮC
16
2.1. Thực trạng công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ
phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc
2.1.1. Ưu điểm
Thứ nhất, nhận thức, trách nhiệm và năng lực tiến hành CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của các chủ thể và lực lượng tiến hành đã
được nâng lên một bước.
Thứ hai, nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ, CTCT được triển khai khá
toàn diện, đã bám sát thực tiễn, phát huy vai trò các tổ chức, lực lượng trong và
ngoài đơn vị hướng vào thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ đặt ra.
Thứ ba, kết quả hoạt động CTĐ, CTCT đã góp phần quan trọng vào
hoàn thành nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn
Tây Bắc.
2.1.2. Hạn chế, khuyết điểm
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy, cơ quan chính trị, cán bộ chính
trị, cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ chưa đầy đủ, trách
nhiệm chưa cao, trình độ, kinh nghiệm tiến hành CTĐ, CTCT có mặt chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ hai, nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ, CTCT tuy có đổi mới
nhưng còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ ba, kết quả hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ vẫn còn những hạn chế nhất định.

2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm công tác đảng, công tác
chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa
phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm:
Một là, thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước và địa phương đã tạo
động lực mạnh mẽ, điều kiện thuận lợi cho CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Hai là, sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời của đảng ủy, cơ quan chức năng cấp
trên đối với BĐĐP trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Ba là, cấp
ủy đảng, chính quyền địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc đã có nỗ lực
lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo đối với BĐĐP trong thực hiện nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ. Bốn là, các tổ chức, lực lượng tiến hành CTĐ, CTCT trong
nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc đã có
sự nỗ lực, sáng tạo trong thực tiễn.
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm:
Một là, do tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới, khu vực,
cùng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch vào địa bàn
các tỉnh Tây Bắc. Hai là, do khó khăn trong việc tạo nguồn, bố trí cán
bộ là người dân tộc thiểu số, cùng với những khó khăn phức tạp địa bàn
đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả CTĐ, CTCT. Ba là, sự hạn chế về
trình độ và năng lực của một số chủ thể, lực lượng tiến hành làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng,
17
chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Bốn là, việc bảo
đảm kinh phí, phương tiện, vật tư, tài liệu cho CTĐ, CTCT trong nhiệm
vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc còn
hạn chế.
2.2.2. Một số kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị trong
nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên

địa bàn Tây Bắc
Thứ nhất, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các
tổ chức, các lực lượng đối với nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ và CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ hai, bám sát tình hình, nhiệm vụ địa phương và đơn vị, đi sâu vào
từng tổ chức, từng con người, từng địa bàn; xác định đúng, trúng và không
ngừng đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành CTĐ, CTCT cho phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ ba, thường xuyên chăm lo xây dựng các cấp ủy, đội ngũ
chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị vững mạnh, làm tròn chức
năng tham mưu, chỉ đạo, phối hợp tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm
vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực
lượng để tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ.
Thứ năm, khi bạo loạn xảy ra cần vận dụng linh hoạt các hình thức,
biện pháp CTĐ, CTCT phù hợp với tình hình nhiệm vụ cụ thể, nội dung
cốt lõi của từng giai đoạn thực hiện nhiệm vụ chống BLLĐ.
Kết luận chương 2
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các
tỉnh trên địa bàn Tây Bắc những năm qua đã đạt được những kết quả quan
trọng, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng ở địa
phương và trong BĐĐP đối với nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ. Tuy nhiên,
trong quá trình tiến hành các hoạt động CTĐ, CTCT vẫn còn những khuyết
điểm, hạn chế, làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ. Từ thực tiễn phong phú, sinh động của CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc cho phép
chúng ta rút ra một số kinh nghiệm bước đầu nhưng rất quý giá đối với CTĐ,
CTCT trong thời gian tới.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẢNG,

CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG NHIỆM VỤ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG CÁC TỈNH
TRÊN ĐỊA BÀN TÂY BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu công tác đảng, công tác
chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội
địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay
18
3.1.1. Tình hình, nhiệm vụ và những vấn đề đặt ra đối với công
tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn
lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn
hiện nay
Một là, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực đang
và sẽ tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Hai là, tình
hình đất nước, địa phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc và âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch tác động thường xuyên đến CTĐ, CTCT trong
nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Ba
là, sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ đòi hỏi phải tăng cường CTĐ, CTCT nâng cao trình độ, khả năng
chiến đấu của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Bốn là, Tình hình biên
chế tổ chức và kết quả xây dựng lực lượng BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây
Bắc theo hướng tinh gọn, có sức chiến đấu cao, luôn đặt ra yêu cầu cao đối
với hoạt động CTĐ, CTCT.
3.1.2. Yêu cầu công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ
phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay
Một là, phải thường xuyên giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo
của cấp ủy, tổ chức đảng đối với nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc. Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa BĐĐP với các tổ chức, lực

lượng liên quan trong phòng, chống BLLĐ. Ba là, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng tiến hành CTĐ, CTCT trong
nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây
Bắc. Bốn là, thường xuyên sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm tiến hành CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc.
3.2. Giải pháp tăng cường công tác đảng, công tác chính trị
trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa phương
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay
3.2.1. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của các tổ chức, các lực lượng tham gia phòng, chống bạo loạn lật
đổ, nhất là đối với cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương trực tiếp làm
nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ
19
Một là, tăng cường giáo dục bồi dưỡng mục tiêu, lý tưởng, tinh thần
cảnh giác cách mạng cho các lực lượng tham gia phòng, chống BLLĐ, trước
hết là CB, CS BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Hai là, coi trọng quán triệt, giáo dục cho CB, CS BĐĐP nhận thức
sâu sắc nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ; nắm chắc các quan điểm, phương
châm, nguyên tắc trong thực hiện nhiệm vụ.
Ba là, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức thường trực và
quyết tâm cho CB, CS trong phòng, chống BLLĐ; quản lý chặt chẽ nội bộ,
không để địch móc nối, lợi dụng.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng tham
gia phòng, chống BLLĐ và tiến hành CTĐ, CTCT cần vận dụng linh hoạt
các hình thức, biện pháp cơ bản sau đây:
Một là, thông qua các hoạt động sinh hoạt, học tập để giáo dục nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng tham gia phòng,
chống BLLĐ và tiến hành CTĐ, CTCT. Hai là, thông qua việc thực hiện
nhiệm vụ giáo dục QP-AN nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các

lực lượng tham gia phòng, chống BLLĐ. Ba là, thông qua phương tiện
truyền thông đại chúng và truyền thanh nội bộ để tuyên truyền nâng cao nhận
thức cho mọi người về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhiệm
vụ QP- AN và phòng, chống “DBHB” nói chung, BLLĐ nói riêng. Bốn là,
thông qua công tác nắm, giải quyết tình hình tư tưởng bộ đội, quản lý tình
hình chính trị nội bộ và nắm, tham gia giải quyết tình hình tư tưởng, tâm
trạng của nhân dân trên địa bàn. Năm là, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng
với công tác tổ chức, chính sách; kết hợp công tác giáo dục động viên
chính trị trong đơn vị với tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn. Sáu là,
thông qua hoạt động huấn luyện, diễn tập; các hoạt động của tổ, đội chuyên
ngành và liên ngành nhằm tác động nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các tổ chức, các lực lượng tham gia phòng, chống BLLĐ. Bảy là, qua
chính hoạt động thực tiễn phòng, chống BLLĐ để nâng cao nhận thức trách
nhiệm cho các tổ chức, các lực lượng; đồng thời, khắc phục những nhận
thức, tư tưởng lệch lạc.
3.2.2. Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị bộ đội địa phương vững
mạnh toàn diện; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và huấn luyện thành thạo
phương án phòng, chống bạo loạn lật đổ
Một là, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng cơ quan, đơn vị BĐĐP VMTD,
trước hết là vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Thường xuyên đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc VMTD đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
20
phòng, chống BLLĐ; gắn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng BĐĐP VMTD với
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ khác.
Hai là, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện
và luyện tập thành thạo các phương án phòng, chống BLLĐ.
Lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, hoàn thiện phương án chống
BLLĐ; lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ nhiệm vụ huấn luyện, luyện tập, diễn tập

phương án chống BLLĐ; quán triệt và chấp hành nghiêm mệnh lệnh huấn
luyện và duy trì thực hiện nghiêm chế độ SSCĐ A2.
3.2.3. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, các lực lượng liên
quan thực hiện hiệu quả các hoạt động phòng, chống bạo loạn lật đổ
* Chỉ đạo phối hợp thực hiện tốt các hoạt động phòng BLLĐ
Một là, chủ động phối hợp cùng các tổ chức, các lực lượng làm tốt
công tác vận động quần chúng, làm thất bại âm mưu gây BLLĐ của các thế
lực thù địch. Hai là, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương
vững mạnh, nâng cao năng lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự điều hành của chính
quyền địa phương, hiệu quả hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
quần chúng. Ba là, tích cực phối hợp tham gia phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, nơi vùng sâu, vùng xa, khu vực biên
giới. Bốn là, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng tham gia giải quyết
có hiệu quả những điểm nóng xảy ra, giữ vững ổn định an ninh chính trị - xã
hội, củng cố tinh thần đoàn kết của nhân dân địa phương. Năm là, phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng trong công tác nắm tình hình, chuẩn bị phương án
chống BLLĐ.
* Chỉ đạo phối hợp cùng các tổ chức, các lực lượng liên quan thực
hiện tốt các hoạt động chống BLLĐ
Một là, phối hợp cùng các tổ chức, các lực lượng tham gia tuyên
truyền vận động quần chúng giải tán biểu tình, bạo loạn. Hai là, phối hợp
cùng các tổ chức, các lực lượng tiến hành các hoạt động dẹp bạo loạn chính
trị của địch. Ba là, phối hợp cùng các tổ chức, các lực lượng tiến hành các
hoạt động dẹp bạo loạn vũ trang của địch.
3.2.4. Thực hiện tốt nội dung, quy trình công tác đảng, công tác
chính trị trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ chống bạo loạn lật đổ
* Giai đoạn tổ chức chuẩn bị chống bạo loạn
Trước hết, tiến hành hội nghị đảng ủy (thường vụ) lãnh đạo công tác
chuẩn bị chống bạo loạn. Thứ hai, quán triệt nhiệm vụ, ra nghị quyết lãnh

đạo lực lượng lượng thuộc quyền thực hiện nhiệm vụ chống BLLĐ. Thứ ba,
điều chỉnh, bổ sung và triển khai kế hoạch CTĐ, CTCT trong chống BLLĐ.
Thứ tư, quán triệt nhiệm vụ xây dựng ý chí quyết tâm cho CB, CS để thực
hiện nhiệm vụ chống BLLĐ. Thứ năm, sắp xếp, củng cố, kiện toàn các tổ
21
chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, kế hoạch chống BLLĐ. Thứ sáu, phối hợp
chặt chẽ với địa phương và các lực lượng liên quan để thực hiện nhiệm vụ
chống BLLĐ. Thứ bảy, kiểm tra, nắm tình hình, động viên bộ đội, uốn nắn
sai sót; tổng hợp tình hình báo cáo cấp trên.
* Giai đoạn thực hành chống BLLĐ
Một là, lãnh đạo, chỉ đạo; tổ chức động viên bộ đội thực hiện tốt
phương án, kế hoạch chống BLLĐ. Hai là, nắm chắc diễn biến tình hình trên
các hướng, khu vực bạo loạn, xử trí chính xác, kịp thời các tình huống. Ba
là, củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực
lượng trong đơn vị; giữ vững lãnh đạo, chỉ huy liên tục trong quá trình chống
bạo loạn. Bốn là, làm tốt công tác cổ vũ, động viên bộ đội giữ vững ý chí
quyết quyết tâm trong mọi tình huống. Năm là, lãnh đạo kết hợp chặt chẽ
giữa tác chiến với tuyên truyền đặc biệt, thực hiện tốt công tác dân vận; duy
trì, đôn đốc bộ đội chấp hành nghiêm kỷ luật và các chính sách trong chống
bạo loạn. Sáu là, kịp thời báo cáo, tranh thủ sự chỉ đạo của cấp trên; phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chống BLLĐ.
* Giai đoạn sau chống bạo loạn
Thứ nhất, nắm tình hình; chỉ đạo giải quyết hậu quả, tổ chức, động
viên đơn vị nhanh chóng rời khỏi khu vực thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch.
Thứ hai, nắm, tổng hợp tình hình mọi mặt của đơn vị; chuẩn bị và tiến hành
hội nghị đảng uỷ (thường vụ) đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, xác định
chủ trương, biện pháp lãnh đạo củng cố đơn vị, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Thứ ba, chỉ đạo cơ quan, đơn vị tiến hành ổn định tư tưởng, tổ chức, chăm lo
đời sống bộ đội, giải quyết chính sách, tiếp nhận bổ sung quân số, vũ khí
trang bị kỹ thuật, vật chất bảo đảm. Thứ tư, chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, đơn

vị tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm chiến đấu, bình xét khen thưởng, ký
luật. Thứ năm, quan hệ chặt chẽ với địa phương, đơn vị bạn để giải quyết các
vấn đề liên quan sau chống BLLĐ. Thứ sáu, tổng hợp tình hình, báo cáo cấp
trên theo quy định; tuyên truyền thành tích sau thực hiện nhiệm vụ trong đơn
vị. Bảy là, lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp với địa phương và các lực lượng trên
địa bàn đẩy mạnh công tác dân vận và tuyên truyền đặc biệt; quản lý chặt chẽ
tình hình, sẵn sàng xử trí các tình huống nảy sinh.
3.2.5 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, sự hướng dẫn
của cơ quan chức năng cấp trên đối với hoạt động công tác đảng, công tác
chính trị trong nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn lật đổ của bộ đội địa
phương các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
22
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên, trực tiếp là cấp ủy
địa phương đối với hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ.
Hai là, tăng cường sự hướng dẫn của cơ quan chức năng cấp trên đối
với hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Ba là, tăng cường phối hợp giữa cấp ủy địa phương với đảng ủy cơ
quan quân sự cấp trên nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành hoạt
động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh
trên địa bàn Tây Bắc.
Kết luận chương 3
Để phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm,
hạn chế CTĐ, CTCT thời gian qua, đồng thời, tăng cường CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn
Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay cần tăng cường giáo dục nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng tham gia phòng,
chống BLLĐ, nhất là đối với CB, CS BĐĐP trực tiếp làm nhiệm vụ
phòng, chống BLLĐ; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị BĐĐP VMTD;

xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và luyện tập thành thạo phương án
phòng, chống BLLĐ; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, các lực
lượng liên quan thực hiện có hiệu quả các hoạt động phòng, chống
BLLĐ; thực hiện tốt nội dung, quy trình CTĐ, CTCT trong các giai
đoạn thực hiện nhiệm vụ chống BLLĐ; và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy, sự hướng dẫn của cơ quan chức năng cấp trên đối với
hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP
các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
23
KẾT LUẬN
. Các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc có vị trí chiến lược quan trọng, nhất là
về QP-AN. Nên trong lịch sử cũng như hiện tại, các thế lực thù địch luôn lợi
dụng địa hình, địa bàn này để chống phá ta lâu dài trong âm mưu, thủ đoạn gây
BLLĐ, cướp chính quyền. Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng
các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm lôi kéo, tập hợp lực lượng mưu đồ thành lập
“Vương quốc Mông tự trị” trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc. Do đó, nghiên cứu
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa
bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần phòng ngừa,
ngăn chặn, dập tắt mọi âm mưu, hoạt động gây BLLĐ của địch, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội địa bàn.
. Tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của
BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, các chủ thể và lực lượng tiến hành CTĐ,
CTCT cần nắm vững đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành CTĐ,
CTCT; đồng thời, phải chủ động bám sát các đặc điểm nhiệm vụ của BĐĐP và
đặc điểm CTĐ, CTCT; trên cơ sở đó, lựa chọn các nội dung, hình thức, biện pháp
tiến hành cho phù hợp, hiệu quả.
. CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các
tỉnh trên địa bàn Tây Bắc những năm qua, bên cạnh những ưu điểm là cơ bản,
vẫn còn những mặt hạn chế, bất cập cần khắc phục. Thực trạng đó bắt nguồn từ
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Qua thực tiễn CTĐ, CTCT trong

nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc, bước
đầu tác giả rút ra năm kinh nghiệm làm cơ sở định hướng tăng cường CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây
Bắc trong thời gian tới.
. Nghiên cứu nắm vững các yếu tố tác động và yêu cầu CTĐ, CTCT
trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc
là vấn đề quan trọng, trực tiếp góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
Tuy nhiên, để tăng cường CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ
của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc giai đoạn hiện nay, cần tiếp tục thực
hiện đồng bộ, thống nhất các giải pháp nêu trên.
. Hiện nay, việc tiến hành CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng,
chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên địa bàn Tây Bắc đang có những khó
khăn, phức tạp nhất định, nhưng rất cấp thiết và quan trọng thường xuyên.
Nhiệm vụ QP-AN và nhiệm vụ phòng, chống BLLĐ của BĐĐP các tỉnh trên
địa bàn Tây Bắc có sự phát triển, trong khi đó, BĐĐP trên từng địa phương
(tỉnh, huyện) lại có những thuận lợi, khó khăn riêng và kinh nghiệm tiến
hành CTĐ, CTCT không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, kết quả nghiên cứu
trên đây mới chỉ là bước đầu, tập trung vào những nội dung cơ bản, chưa có
điều kiện đi sâu nghiên cứu CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ phòng, chống
BLLĐ của BĐĐP với tư cách là CQQS (tỉnh, huyện), hay các đơn vị BĐĐP
trong một tỉnh trên địa bàn Tây Bắc.
24

×