Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐỀ TÀI: Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp ngành Dệt may Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.87 KB, 28 trang )

Lời mở đầu
Ngành Dệt may là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam, có đội
ngũ lao động dồi dào và sức sáng tạo cao. Dệt may được coi là một
trong những ngành trọng điểm, là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm
lực phát triển khá mạnh của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành dệt may phục vụ
nhu cầu thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc
làm cho xã hội và đặc biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo
điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập
khẩu của đất nước. Trong quá trình Việt Nam hội nhập thế giới, ngành
Dệt may đang chứng tỏ là một ngành quan trọng trong nền kinh tế được
thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong mấy năm gần đây,
các thị trường luôn được rộng mở, số lao động trong ngành ngày càng
nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đóng
góp của ngành vào thu nhập quốc dân Tuy vậy, ngành dệt may đang
phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như: phải cạnh tranh ngang bằng
với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia,
Pakixtan, Hàn Quốc, vấn đề đổi mới công nghệ, vấn đề lao động
Với mục đích tìm hiểu định hướng phát triển của ngành dệt may Việt
Nam trước những thách thức, khó khăn, thuận lợi đặt ra trong quá trình
hội nhập kinh tế thế giới, em đã quyết định lựa chọn đề tài : “Chiến
lược kinh doanh của các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam
hiện nay". Bài viết được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy
Vũ Trọng Nghĩa. Nội dung bài viết này tương đối rộng nên không tránh
khỏi còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được nhiều góp ý của thầy cô.
Nội dung bài viết được chia làm 3 phần:
Phần I : Cơ sở lí luận chung về chiến lược kinh doanh.
Phần II : Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp ngành dệt may
Việt Nam 2000 - 2010.
Phần III: Những kiến nghị đối với chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp ngành dệt may trong thời gian tới.


1
I. Cơ Sở Lí Luận Chung Về Chiến Lược Kinh Doanh.
1. Chiến lược kinh doanh.
1.1 Khái niệm:
Chiến lược là là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Strategos” dùng
trong quân sự, nhà lý luận quân sự thời cận đại Clawzevit cũng cho
rằng: chiến lược quân sự là nghệ thuật chỉ huy ở vị trí ưu thế. Một nhà
xuất bản của từ điển Larous coi: chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các
phương tiện để giành chiến thắng.
Từ thập kỉ 60, thế kỉ XX, chiến lược được ứng dụng vào lĩnh vực kinh
doanh và thuật ngữ “Chiến lược kinh doanh” ra đời. Quan niệm về chiến
lược kinh doanh phát triển dần theo thời gian và người ta tiếp cận nó
theo nhiều cách khác nhau.
“Xác định các mục tiêu, mục đích cơ bản dài hạn; áp dụng một chuỗi
các hành động; phân bổ các nguồn lực cần thiết". Chandler (1962)
“Chiến lược là mô thức hay kế hoạch tích hợp các mục tiêu chính yếu,
các chính sách, và chuỗi hành động vào một tổng thể được cố kết một
cách chặt chẽ”. Quinn(1980)
“Chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ chức về dài hạn nhằm
giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng các
nguồn lực của nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu thị
trường và thỏa mãn mong đợi của các bên hữu quan”. Johnson và
Scholes
“Chiến lược là một chuỗi hoạt động được thiết kế nhằm tạo ra lợi thế
cạnh tranh bền vững”. Theo Mckinsey (1978)
“Chiến lược không chỉ là một kế hoạch, cũng không chỉ là một ý tưởng,
chiến lược là triết lý sống của một công ty”. Theo Cynthia A.
Montgomery.
Dù tiếp cận theo cách nào thì bản chất của chiến lược kinh doanh vẫn là
phác thảo hình ảnh tương lai của doanh nghiệp trong lĩnh vực hoạt

động và khả năng khai thác. Theo cách hiểu này, thuật ngữ “Chiến
Lược” hiện nay được dùng theo 3 nghĩa phổ biến.
2
-Thứ nhất: là các chương trình hoạt động tổng quá và triển khai các
nguồn lực chủ yếu để đạt được mục tiêu.
-Thứ hai: là các chương trình mục tiêu của tổ chức, các nguồn lực cần
để đat được mục tiêu, các chính sách điều hành viêc thu thập, sử dụng
và bố trí các nguồn lực này.
-Thứ ba: xác định các mục tiêu dài hạn, lựa chọn các đường lối hoạt
động và phân bổ các hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu này.
1.2 Những Đặc trưng cơ bản:
Tuy còn nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về phạm trù chiến
lược nhưng các đặc trưng cơ bản của chiến lược trong kinh doanh
được quan niệm tương đối thống nhất. Các đặc trưng cơ bản đó là:
- Chiến lược xác định rõ những mục tiêu cơ bản phương hướng kinh
doanh cần đạt tới trong từng thời kì của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh chỉ phác thảo những phương hướng hoạt động
của doanh nghiệp trong dài hạn.
- Chiến lược kinh doanh được xây dựng trên cơ sở các lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp để đảm bảo huy động tối đa và kết hợp tốt với
việc khai thác sử dụng các nguồn lực.
- Chiến lược kinh doanh được phản ánh trong cả quá trình liên tục từ
xây dựng, đến tổ chức thực hiện, đánh giá, kiểm tra và điều chỉnh chiến
lược.
- Chiến lược kinh doanh luôn mang tư tưởng tiến công dành thắng lợi
trong cạnh tranh.
- Mọi quyết định chiến lược quan trọng đều được tập trung vào nhóm
quản trị viên cấp cao.

1.3 Vai trò:

Vai trò của chiến lược kinh doanh được thể hiện trên các khía cạnh
như sau:
- Chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp nhận rõ được mục đích
hướng đi của mình trong tương lai làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động
3
của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh đóng vai trò định hướng hoạt
động trong dài hạn của doanh nghiệp. Sự thiếu vắng chiến lược hoặc
chiến lược được thiết lập không rõ ràng, không có luận cứ vững chắc sẽ
khiến hoạt động của doanh nghiệp mất phương hướng, có nhiều vấn đề
nảy sinh chỉ thấy trước mắt mà không gắn dài hạn hoặc chỉ thấy cục bộ
mà không thấy được vai trò của cục bộ trong toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng cơ hội
kinh doanh, đồng thời có biện pháp chủ động đối phó với các mối nguy
cơ, đe dọa trên thị trường kinh doanh.
- Góp phần năng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tăng cường vị
thế doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp phát triển liên tục và bền
vững.
- Chiến lược kinh doanh tạo ra căn cứ vững chắc cho doanh nghiệp đề
ra cách quyết định phù hợp với sự biến động của thị trường.
2. Quản trị chiến lược.
2.1 Khái niệm:
Quản trị chiến lược là một vấn đề được rất nhiều nhà kinh tế cũng như
các nhà quản trị gia quan tâm. Do nội dung của quản trị chiến lược rất
rộng về phạm vi nghiên cứu và phong phú trong thực tế vận dụng nên ở
mỗi góc nhìn người ta lại đưa ra các quan điểm khác nhau về quản trị
chiến lược. Tuy các cách nhìn đó chưa đầy đủ, toàn diện nhưng trên
tổng thể, những cách nhìn đó đã góp phần to lớn vào việc nhận thức và
thực hiện công tác quản trị trong các doanh nghiệp. Dưới đây là một số
định nghĩa về quản trị chiến lược:

- Quản trị chiến lược là tập hợp các quyết định và hành động quản
trị quyết định sự thành công lâu dài của doanh nghiệp.
- Quản trị chiến lược là tập hợp các quyết định và biện pháp hành
động dẫn đến việc hoạch định và thực hiện các chiến lược nhằm
đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Quản trị chiến lược là quá trình nghiên cứu môi trường hiện tại
cũng như tương lai, hoạch định các mục tiêu của tổ chức, đề ra
thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt
được mục tiêu trong môi trường hiện tại cũng như tương lai.
4
- Quản trị chiến lược là nghệ thuật và khoa học của việc xây dựng,
thực hiện và đánh giá các quyết định tổng hợp giúp cho mỗi tổ
chức có thể đạt được mục tiêu của nó.
2.2 Nhiệm vụ:
- Tạo lập một viễn cảnh
- Thiết lập các mục tiêu
- Xây dựng chiến lược
- Thực thi và điều hành các chiến lược
- Đánh giá & điều chỉnh
NHIỆM VỤ CỦA QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
2.3 Ý nghĩa quản trị chiến lược:
- Trong điều kiện biến động của thị trường kinh doanh hiện nay, chỉ
có sự thay đổi là điều mà các công ty có thể biết chắc chắn. Quản trị
chiến lược như một hướng đi giúp các tổ chức này vượt qua sóng gió
trong thương trường, vươn tới tương lai bằng nỗ lực của bản thân. Đây
là kết quả của nghiên cứu khoa học trên cơ sở thực tiễn kinh doanh của
rất nhiều công ty. Tuy nhiên mức độ thành công còn phụ thuộc vào
năng lực triển khai, chính nó thể hiện nghệ thuật trong quản trị.
5
- Quá trình quản trị chiến lược dựa vào quan điểm là các công ty theo

dõi một cách liên tục các sự kiện xảy ra trong và ngoài công ty cũng như
các xu hướng để có thể đề ra các thay đổi kịp thời. Quá trình quản trị
chiến lược được xây dựng nhằm mục tiêu giúp công ty tập trung thích
ứng một cách tốt nhất với các thay đổi trong dài hạn.
- Quản trị chiến lược giúp cho một tổ chức có thể chủ động hơn thay
vì bị động trong việc vạch rõ tương lai của mình; nó cho phép một tổ
chức có thể tiên phong và gây ảnh hưởng trong môi trường nó hoạt
động và vì vậy, vận dụng hết khả năng của nó để kiểm soát môi trường,
vượt khỏi những gì thiên kiến.
- Quản trị chiến lược tạo cho mỗi người những nhận thức hết sức
quan trọng. Mục tiêu của quá trình này chính là đạt được sự thấu hiểu
và cam kết thực hiện cả trong ban giám đốc cũng như trong đội ngũ
người lao động. Vì lẽ đó, lợi ích quan trọng nhất mà quản trị chiến lược
đem lại là sự hiểu thấu đáo, và kế đó là sự cam kết thực hiện. Một khi
mọi người trong doanh nghiệp hiểu rằng doanh nghiệp đó đang làm gì,
và tại sao lại làm vậy, họ sẽ cảm thấy mình là một phần của doanh
nghiệp. Họ sẽ tự cam kết ủng hộ nó. Người lao động và ban giám đốc
sẽ trở nên năng động lạ thường và họ hiểu, ủng hộ những việc, sứ
mệnh, các mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp giúp mọi người
tăng thêm sức lực và nhờ đó phát huy hết những phẩm chất và năng
lực cá nhân của mình, đóng góp cho sự phát triển doanh nghiệp.
- Ngày càng có nhiều tổ chức tập trung vào quá trình quản trị chiến
lược và nhận ra sự cần thiết phải có sự tham gia của các cấp quản trị
bên dưới cũng như những người làm công. Kế hoạch nhân sự được lập
ra từ bên trên cũng được thay thế bằng các kế hoạch nhân sự của các
giám đốc bộ phận. Hoạt động này không còn gói gọn trong suy nghĩ của
các đơn vị trong ban giám đốc hay trên giấy tờ mà giờ đây nó đã trở
thành suy nghĩ của mỗi nhà quản trị. Thông qua những đóng góp trong
quá trình này, các nhà quản trị từ mọi cấp trở thành những người chủ
nhân thực sự của chiến lược. Sự đồng sở hữu chiến lược chính là chìa

khóa cho sự thành công của các doanh nghiệp hiện nay.
2. 4 Lợi ích quản trị chiến lược đem lại:
- Giúp nhận dạng, sắp xếp ưu tiên và tận dụng các cơ hội.
- Đưa ra cách nhìn thực tế về các khó khăn của công tác quản trị.
- Đưa ra một đề cương cho việc phát triển đồng bộ các hoạt động
và điều khiển.
- Làm tối thiểu hóa các rủi ro.
6
- Giúp cho các quyết định chủ chốt phục vụ tốt hơn cho việc đề ra
các mục tiêu.
- Giúp cho sự phân bổ tốt hơn thời gian và nguồn lực cho cơ hội đã
được xác định.
- Cho phép giảm thời gian và nguồn lực cần thiết để sửa đổi những
lỗi lầm và các quyết định thời điểm.
- Tạo ra khung sườn cho mối liên hệ giữa các cá nhân trong nội bộ
công ty.
- Giúp kết hợp những hành vi đơn lẻ thành các quyết định chung.
- Cung cấp cơ sở cho việc làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân.
- Đem lại sự khuyến khích cho những suy nghĩ tiến bộ.
- Mang lại cách thức hợp tác, gắn bó và hăng say trong việc xử lý
các vấn đề cũng như các cơ hội.
- Khuyến khích thái độ tích cực đối với sự thay đổi.
- Đem lại một mức độ kỉ luật và sự chính thức đối với công tác quản
trị trong công ty.
7
II. Chiến Lược Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Ngành
Dệt May Năm 2000 – 2010.
2.1 Các quan điểm về chiến lược phát triển kinh doanh
ngành dệt may Việt Nam:
2.1.1 Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng

thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập
trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên
phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong
ngành.
Những năm qua kinh ngạch xuất khẩu ngành dệt may đều tăng. Năm
2004, mặc dù có nhiều khó khăn do thiếu hạn ngạch xuất khẩu vào thị
trường Mỹ nhưng ngành dệt may vẫn đạt mức tăng trưởng gần 20% so
với năm 2003 với trị giá xuất khẩu 4,386 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu
vào thị trường Mỹ tăng 25,37%, EU tăng 31,37%, Nhật Bản tăng
11,06%. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng không bị áp đặt
hạn ngạch vào thị trường Mỹ tăng từ 20% năm 2003 lên 33% năm 2004.
Kéo theo đó năng lực sản xuất cũng tăng trưởng rất mạnh: năng lực sản
xuất sợi đạt 200.000 tấn, tăng 122,5%; năng lực sản xuất vải đạt 600
triệu mét, tăng 33,3%; năng lực may đạt 1.300 triệu sản phẩm, tăng
116,7% và thu nhận thêm 300.000 lao động.
Năm 2007 là năm đánh dấu mức tăng trưởng cao của ngành dệt may,
với con số 34.5%, đạt kim ngạch xuất khẩu 7,78 tỷ USD, gấp 2,2 lần so
với năm 2004 và chiếm tới 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Năm 2007, lần đầu tiên hàng Dệt may Việt Nam vượt qua Dầu thô,
đứng vào vị trí số 1 về kim ngạch xuất khẩu các ngành hàng. Trong đó,
Tập đoàn dệt may Việt Nam có một bước chuyển quan trọng từ tăng về
lượng sang hiệu quả kinh tế, tổng doanh thu đạt hơn 22.348 tỷ đồng,
kim ngạch xuất khẩu đạt 1,452 tỷ USD, lợi nhuận đạt 556 tỷ đồng. Tỷ
suất lợi nhuận trên vốn đạt 15.6% so với mức trung bình từ 10-12%
trong nhiều năm trước. Kết quả này đã đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ
9 trong các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới. Đây là thành
quả bước đầu của quá trình chuyển đổi mô hình quản lý doanh nghiệp
chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.
Năm 2008, trong bối cảnh kinh tế toàn càu suy thoái, lạm phát tăng cao,
xuất khẩu dệt may phải đối mặt với không ít khó khăn. Tuy nhiên Đà

tăng trưởng này tiếp tục được duy trì trong 10 tháng của năm 2008 với
8
tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7,64 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ
năm 2007.
Năm 2009 lần đầu tiên trong nhiều năm nay, dệt may đạt tăng trưởng
xuất khẩu ở 1 con số. Dù mức tăng trưởng trong năm 2009 đạt được ở
mức rất thấp, chỉ khoảng 1%, đạt trên 9,1 tỷ USD, nhưng đây là một kết
quả rất đáng khích lệ, nhất là khi hầu hết các ngành xuất khẩu chủ lực
khác của Việt Nam đều bị “âm”.
Thống kê xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam 2000-2009
9
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi
vốn nhanh và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài
nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, ngành
dệt may là ngành có khả năng phát triển nhất. Bên cạnh việc mang lại
nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, ngành dệt may Việt Nam còn góp
phần vào giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện cả nước có
khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may với trên 2
triệu lao động.
Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả là
kinh nghiệm của nhiểu nước công nghiệp mới và ở nước ta cũng xác
nhận điểu đó. Đó là chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước ta hiện nay. Ngành dệt may cũng là một trong
những ngành làm được điều đó. Thực tế những năm qua cho thấy,
chiến lược hướng về xuất khẩu đã thu được nhiều kết quả đáng khích
lệ. Kim ngạch xuất khẩu những năm qua đều tăng. Nhờ nguồn ngoại tệ
thu được, ngành có điều kiện để tái đầu tư hiện đại hóa đẩy mạnh sản
xuất.
Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các
mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với dân số đông

và sức mua ngày càng lớn là đối tượng quan trọng mà ngành dệt may
cần đáp ứng từ những sản phẩm bình thường phù hợp với phần lớn
dân lao động cho đến những mặt hàng cao cấp đáp ứng cho những
thành phần có thu nhập cao. Thế nhưng ở Việt Nam, dường như các
doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan tâm và phát triển các dòng sản
10
phẩm cao cấp. Sản xuất các sản phẩm có tính khác biệt cao nhằm vào
các thị phần chuyên biệt, tránh áp lực cạnh tranh giá thấp trên thị
trường phổ thông là một trong những giải pháp kinh doanh khôn ngoan
mà một số doanh nghiệp trong ngành may mặc đã thực hiện thành
công trong thời gian qua. Điển hình như: vải địa kỹ thuật công nghệ cao
công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, veston nam xuất khẩu của May
Nhà Bè, vải thun 4 chiều của công ty Lan Trần, vải gấm xuất khẩu của
Dệt May Phước Thịnh Tuy nhiên có một điều đáng tiếc là những sản
phẩm điển hình như vậy vẫn còn quá ít, đa số các doanh nghiệp dệt
may vẫn đang sản xuất chủ yếu các sản phẩm phổ thông và đang chịu
sức ép cạnh tranh về giá ngày càng lớn từ ngành dệt may của Trung
Quốc, Ấn Độ
Hiện nay các sản phẩm dệt may của ta bị các sản phẩm nhập khẩu
cạnh trạnh gay gắt. Mặc dù chất lượng kém hơn nhưng do áp đảo về
giá cả và mẫu mã nên họ chiếm được thị phần rộng lớn. Đấy là điểm
yếu mà các nhà sản xuất trong nước cần khắc phục để có thể cạnh
tranh và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
2.1.2 Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện
đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo
điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền
vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là
thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa
được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên
phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.

Công nghệ hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phát
triển, tồn vinh của mỗi quốc gia hay sức mạnh cạnh tranh kinh té quốc
tế của mỗi sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với
các nước phát triển thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ
quốc gia, tiếp nhận và làm chủ công nghệ tiên tiến. Từ nhận định đó,
ngành dệt may cần phải phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng hóa
sản phẩm.
Cũng như nhiều ngành khác, việc ứng dụng công nghệ thông tin là 1 xu
thế tất yếu hiện nay để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng
cường cạnh tranh. Hiện nay doanh nghiệp có thể sử dụng các phần
mềm vào thiết kế thời trang hay sư dụng các chương trình kiểm tra lỗi
của sản phẩm qua thông số, đây là hương đi trong tương lai xa mà các
doanh nghiệp nên quan tâm áp dụng.
11
Các công nghệ cao hiện nay đã được nghiên cứu va áp dụng vào các
sản phẩm của ngành may mặc khiến cho các sản phẩm có độ chi tiết
cao hơn, ít mắc lỗi hơn trong quá trình sản xuất, công nghệ tránh nhàu
vải khi may …Khi các sản phẩm có chất lượng trung bình của Việt Nam
không thể có ưu thế cạnh tranh thì việc áp dụng các công nghệ cao vào
sản xuất sẽ mở ra 1 triển vọng mới cho may mặc Việt Nam để cạnh
tranh với các nước co nhiều ưu thế hơn.
Cùng với sự phát triển kinh tế cả nước, nhu cầu hàng tiêu dùng cũng
tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng mà ngày càng đòi hòi
nâng cao về chất lượng, đa dạng hóa về mẫu mã và số lượng mặt hàng
cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng khi thu nhập tăng lên, tỉ
lệ chi cho nhu cầu ăn uống giảm tương đối, còn tỉ lệ tiêu dùng hàng hóa
sẽ tăng lên rất nhanh. Như vậy cùng với sự tăng dân số và tăng thu
nhập, thì trường trong nước sẽ là tiền đề cho công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng nói chung và ngành dệt may nói riêng.
Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp cận và dần thay thế họ trên thị

trường quốc tế mới, ngành dệt may càng cần phải thay thế và trạng bị
thêm các thiết bị máy móc hiện đại. Tuy rằng vượt qua rào cản kĩ thuật
không hề đơn giản nhưng chỉ có vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong và ngoài nước.
Xây dựng hệ thống quản lí chất lượng là biện pháp trực tiếp nâng cao
chất lượng sản phẩm và gián tiếp tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Hệ thống quản lí chất lượng quốc tế ISO 9000 có thế coi là tấm
giấy thông hành quan trọng cho việc đưa dệt may Việt Nam vào thị
trường thế giới. Hiện nay, đã có hệ thống quản lí chất lượng quốc tế
ISO 9000 với phiên bản 2000 có yêu cầu cao hơn do đó Doanh nghiệp
cần cập nhật thông tin về phiên bản mới này. Áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm
có chất lượng cao và ổn định hơn. Do vậy sẽ nâng cao được khả năng
cạnh tranh của sản phẩm dệt may .Ngoài ra doanh nghiệp còn phải chú
ý đến các hệ thống quản lý khác như : ISO14000 để giảm những tác
động của sản xuất đến môi trường vì đây cũng là một đòi hỏi của người
tiêu dùng với sản phẩm mà họ sử dụng.
Các giải pháp nêu trên cần được doanh nghiệp lên kế hoạch cụ thể và
áp dụng một cách đồng bộ để có thể nâng cao được chất lượng sản
phẩm tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập WTO.
Một số tiêu chuẩn về quản lý chất lượng trong ngành may mặc Việt Nam
12
+ CSM 2000 : Compliance and Supply and Chain Management 2000
+ WRAP : Worldwide Responsible Apparel Production
+ ISO 14000 Environment management systems and standards
+ SA8000 - Social Accountability 8000
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam phải có kế hoạch
hiện đại hóa từng bước, kết hợp tiếp thu công nghệ mới nhằm rút ngắn
khoảng cách với các nước tiên tiến.
2.1.3 Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt

May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển
Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong
nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
dưới sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN là chiến lược
phát triển kinh tế của Đảng. Thực tế cho thấy, bất kì ngành kinh tế kĩ
thuật nào nếu không có nhiều thành phần kinh tế tham gia sẽ không có
môi trường cạnh tranh, mà cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự
phát triển.
Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ hoạt động không hiệu
quả, bởi vậy cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước
nhằm nâng cao khả năng hoạt động của các doanh nghiệp này. Tuy cổ
phần hóa các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn và vướng mắc nhưng
sự tăng trưởng kinh tế những năm qua đã cho thấy hướng đi này là
đúng đắn.
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
những năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu
vực, đầu tư nước ngoài thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế
quốc tế rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng.
Vì các doanh nghiệp dệt may trong nước còn nhiều hạn chế nên ngành
Dệt - May Việt Nam cần hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để thực
hiện chiến lược tăng tốc, rút ngắn khoảng cách với các cường quốc sản
xuất - xuất khẩu dệt may trên thế giới.
13
Dưới đây là các số liệu đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may theo
năm:
2.1.4 Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu
thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở

gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để
tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử
dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị
trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến
quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung
của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi
trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là
địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân
tạo nên các biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu
thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên
liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng
thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi
trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ
thống trên là môi trường nhân tạo.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh
có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho
14
sự cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc
nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến
sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài
nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm
hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực.
Ngành dệt may nói chung và ngành dệt nhuộm nói riêng là ngành tạo ra
lượng lớn chất thải độc hại. Nước thải sinh ra từ dệt nhuộm thường có
nhiệt độ cao, độ pH lớn, chứa nhiều loại hóa chất, thuốc nhuộm khó
phân hủy, độ màu cao. Nếu không được xử lý tốt, nước thải do dệt
nhuộm sẽ gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước

mặt, nước ngầm. Bởi vậy quá trình sản xuất phải gắn liền với quy trình
xử lí rác thải và những khu công nghiệp Dệt may cần nằm xa khu đông
dân cư, thành phố, đô thị lớn nhằm đảm bảo không ảnh hưởng tới môi
trường sống của người dân.
đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp dệt
may là ngành sử dụng các nguyên liệu từ nông thôn như bông, tơ tằm,
trong chiến lược phát triển của mình cần gắn liền với sự phát triển của
ngành nông nghiệp.
Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp dệt may
Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hiện nay
khoảng 70% nguyên liệu phải nhập khẩu, như bông sơ là loại nguyên
liệu ta có thể cung cấp một phần, đặc biệt là vải, mỗi năm phải nhập
trên 2 tỷ USD. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu nhưng có nhiều hạn
chế về số lượng và chất lượng nên giá trị xuất khẩu thấp. Vì vậy muốn
phát triển ngành dệt may ổn định bền vững cần tạo ra cho mình nguồn
nguyên liệu ổn định, bền vững.
15
Cơ cấu thị trường cung cấp chỉ năm 2009
Kim ngạch nhập khẩu chỉ qua các tháng:
16
Quy hoạch dệt may theo vùng lãnh thổ được phân bố ở các khu vực với
những định hướng chính - Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Công nghiệp
nhẹ:
- Khu vực I: Vùng đồng bằng sông Hồng
Quy hoạch theo định hướng lấy Hà Nội là trung tâm làm dịch vụ, cung
cấp nguyên phụ liệu, công nghệ, mẫu mốt, các cơ sở may sản xuất các
sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Các cơ sở sản xuất di dời về các Khu
công nghiệp ở các tỉnh như: Hoà Xá (Nam Định), Nguyễn Đức Cảnh
(Thái Bình), Phố Nối B (Hưng Yên), Đồng Văn (Hà Nam), Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh, Ninh Bình. Tại khu vực này sẽ hình thành một cụm công

nghiệp may xuất khẩu và ba khu công nghiệp dệt nhuộm hoàn tất tập
trung. Đầu tư một nhà máy sản xuất xơ Polyester công suất 160.000
tấn/năm tại Khu công nghiệp Đình Vũ (Hải Phòng).
- Khu vực II: Vùng Đông Nam Bộ
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại, thiết kế mẫu mốt, dịch
vụ công nghệ dệt may và các nhà máy may các sản phẩm thời trang, có
giá trị gia tăng cao. Di dời các cơ sở nhuộm, hoàn tất tại Thành phố Hồ
Chí Minh về Khu công nghiệp Long An và các tỉnh lân cận. Đây là khu
vực đã phát triển nóng về dệt may trong những năm qua, hiện đang gặp
rất nhiều khó khăn về lao động nên không khuyến khích đầu tư mới vào
khu vực này để tránh sức ép về lao động.
- Khu vực III: Vùng duyên hải Trung bộ
Lấy Thành phố Đà Nẵng làm trung tâm để hình thành một cụm công
nghiệp may xuất khẩu và một số Khu công nghiệp dệt nhuộm - hoàn tất
tại Hoà Khánh (Đà Nẵng), Quảng Trị.
- Khu vực IV: Đồng bằng sông Cửu Long
Lấy Thành phố Cần Thơ làm trung tâm để hình thành một cụm công
nghiệp may xuất khẩu và một khu công nghiệp dệt nhuộm tập trung tại
Trà Vinh.
- Khu vực V: Vùng Đông Bắc và Tây Bắc bộ
Quy hoạch theo hướng bố trí một Khu Công nghiệp dệt tại Phú Thọ, các
nhà máy may bố trí ở các tỉnh. Phát triển vùng trồng bông, nguyên liệu
tơ tằm ở Sơn La, Điện Biên.
- Khu vực VI: Vùng Bắc Trung bộ
17
Quy hoạch theo hướng bố trí các doanh nghiệp dệt may theo trục quốc
lộ 1 với một số cụm, điểm công nghiệp tại Bỉm Sơn (Thanh Hoá), Vinh
(Nghệ An), Huế (Thừa Thiên Huế). Hình thành ba khu công nghiệp dệt
nhuộm tập trung tại Diễn Châu (Nghệ An), Hà Tĩnh, Quảng Trị trong giai
đoạn từ 2012 đến 2015.

- Khu vực VII: Vùng Tây nguyên
Định hướng đẩy mạnh chuyên môn hoá các cây nguyên liệu dệt như
dâu tằm, bông gắn liền với chế biến tạo ra các sản phẩm cho thị
trường xuất khẩu và nội địa. Đồng thời kết hợp phát triển các cơ sở may
phục vụ nội địa hoặc làm vệ tinh cho ngành may của khu vực II và khu
vực III.
2.1.5 Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự
phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng
đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo
ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu.
Lực lượng lao động giỏi, lành nghề là yếu tố quan trọng quyết định đến
chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay các công ty may VN vẫn còn đang
sử dụng nguồn lao động không qua trường lớp chuyên nghiệp. Phần lớn các
công ty tự đào tạo theo cách riêng của mình. Duy chỉ một vài công ty có vốn
đầu tư nước ngoài tại VN mới cử người đi học ở Đài Loan, Hàn Quốc,
Hong Kong. Nếu so với yêu cầu của phát triển ngành dệt may VN khi
kim ngạch xuất khẩu đã lên đến 7,5 tỷ USD/năm và mới chi co trên có
trên dưới 1 triệu lao động thì lao động trong ngành dệt may còn chưa
đạt cả chất và lượng.
Ngoài sự hỗ trợ từ phía nhà nước và trông cậy vào các trường đào tạo
nghề, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng cần phải tự mình có
các biện pháp thực hiện để chủ động trong nhu cầu số lượng và chất
lượng lao động.các doanh nghiệp có thể tự mở các trường lớp chuyên
về đào tạo chuyên môn cho nganh dệt may cung cấp lao động cho
không những nội bộ doanh nghiệp mà cả cho các doanh nghiệp khác.
Hoặc các doanh nghiệp có thể liên kết đẻ mở trường va sủ dụng đội ngũ
giáo viên la các công nhân co tay nghề bộ quản lí kinh nghiệm. Công
tác đào tạo nên thực theo các hình thức đào tạo lại: đào tạo bổ sung,
nâng cao và đào tạo dài hạn tạo nguồn.
Việc đào tạo nhân lực phải được tiến hành cho tát cả lực lượng lao

động ở tất cả các cấp của ngành. Lực lượng lao động trực tiếp tham gia
sản xuất có ảnh hưởng quyết điịnh đén chất lượng của sản phẩm
18
nhưng mấu chốt cho sự ổn định lại ở đội ngũ cán bộ cấp trung và cấp
cao. Đây là lực lượng có thể giải quyết những yếu kém về năng suất và
thương hiệu sản phẩm. Đào tạo cộng nhân ngành may phải đi đôi với
công nhân ngành dệt, nhuộm và đội ngũ các nhà thiết kế thời trang.
Để giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp, hiệp hội dệt may đã xây
dựng kế hoạch chi tiết về đào tạo, sử dụng nhân lực, nhưng để giải bài
toán khan hiếm lao động dệt may phụ thuộc rất lớn vào tính chất địa lý
của từng vùng và việc quy hoạch các khu công nghiệp dệt may.
Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh Hải Dương cho biết: Hiện, nhu cầu
tuyển dụng trong tháng 1.2010 của các doanh nghiệp dệt may gửi qua
TT nhờ tuyển giúp lên tới hơn 1.700 doanh nghiệp, gồm: Thợ dệt, may
mặc và các lao động liên quan. Đó là chưa kể tới các doanh nghiệp tự
treo băngron tuyển dụng, nhận hồ sơ liên tục ngay tại doanh nghiệp.
Tại các KCN, KCX khác thuộc các tỉnh, TP phía bắc, những bảng tuyển
dụng liên tục được treo lên, những đợt tuyển dụng liên tục được tổ
chức, thậm chí kéo dài cả năm, nhưng nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn
khốn khổ vì thiếu nhân lực. Ông Nguyễn Xuân Dương- Chủ tịch HĐQT
Cty dệt may Hưng Yên cho biết, do lượng lao động dịch chuyển trong
các doanh nghiệp dệt may rất nhiều nên cứ vào thời điểm đầu năm nỗi
lo thiếu lao động lại gay gắt hơn bao giờ hết.
Theo thống kê, lượng lao động dịch chuyển tại các doanh nghiệp dệt
may rất lớn. Nếu một doanh nghiệp có 5.000-6.000 công nhân thì hàng
năm trung bình khoảng 1.000-2.000 công nhân thường xuyên ra, vào.
Lý do chính khiến doanh nghiệp phải dịch chuyển là công việc ca kíp
quá vất vả, trong khi đó thu nhập thấp, đời sống tinh thần nghèo nàn…
Ơ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức lương trung bình thường trên
dưới 1 triệu đồng/tháng. Để giữ chân lao động, dù các doanh nghiệp

này có tăng thêm khoảng 10% lương thì cũng không có sức hút lớn
đáng kể.
Theo dự báo của Hiệp hội Dệt may, giai đoạn 2008-2020 ngành này cần
tới gần 217.000 lao động, trong đó có 202.500 công nhân kỹ thuật,
6.000 lao động kỹ thuật, 6.000 lao động kinh tế và 2.250 lao động quản
lý. Trong ngắn hạn, nhu cầu công nhân dệt may tới năm 2010 là
270.000 người (gồm 15.000 công nhân sợi, 17.000 công nhân dệt,
6.000 công nhân nhuộm, 220.000 công nhân may và ngành khác là
12.000 người). Nguồn lao động trên sẽ “hút” từ đâu ra khi bản thân lao
động không mấy mặn mà với nghề này và chỉ coi đó là công việc tạm
thời, trước mắt mà không có ý định gắn bó lâu dài?
19
Trước nguồn cung lao động dệt may luôn thiếu hụt, ảnh hưởng trực tiếp
tới kế hoạch xuất khẩu và phát triển của ngành, Bộ Công Thương đã
ban hành một chương trình đào tạo nhân lực ngành dệt may tới năm
2015 và tầm nhìn 2020. Dựa trên việc xác định các nhu cầu sử dụng lao
động cụ thể trong từng lĩnh vực, chiến lược này đã đưa ra kế hoạch đào
tạo nhằm đáp ứng sự thiếu hụt triền miên này.

Theo đó, việc đào tạo lực lượng lao động dệt may giai đoạn 2008-2020
sẽ gồm đào tạo nhân lực cho các dự án mới và đào tạo nhân lực bổ
sung thay thế cho lao động nghỉ hưu, nghỉ việc tự nhiên (4% số lao
động hiện có). Số lao động này sẽ được tham gia vào các chương trình
đào tạo ngắn hạn và dài hạn… Tuy nhiên, kế hoạch đào tạo này hiện
mới xác định được nhu cầu cụ thể trên diện rộng của các ngành nhỏ
trong dệt may. Trong khi vấn đề ở chỗ, sự khan hiếm lao động dệt may
còn phụ thuộc rất lớn vào tính chất địa lý của từng vùng và việc quy
hoạch các KCN dệt may.
Nói tóm lại, đẻ có thể đảm bảo và duy trì sự ổn định của chất lượng các
sản phẩm ngành dệt may thì việc đào tạo nguồn nhân lực phải thực

hiên song song giữa đủ số lượng và nâng cao chất lượng, giữa lao
động sản xuất và lao động quản lí.
2.2 Chính sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp thực
hiện chiến lược phát triển ngành dệt - may Việt Nam 2000
– 2010
2.2.1 Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với
các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu,
nuôi tằm; đầu tư các công trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm
công nghiệp dệt; xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp
mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường và trung tâm nghiên
cứu chuyên ngành dệt - may.
2.2.2 Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in
nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt - may:
a) Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó
50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại
thời điểm rút vốn, thời gian vay 12 năm, có 3 năm ân hạn; 50% còn lại
được vay theo quy định của Quỹ Hỗ trợ phát triển;
b) Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu
tư theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
20

2.2.3 Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ để trình Ủy ban
Thường vụ Quốc hội cho phép áp dụng cơ chế đối với vải và phụ liệu
may sản xuất trong nước nếu bán cho các đơn vị sản xuất gia công
hàng xuất khẩu tại Việt Nam được hưởng mức thuế suất thuế giá trị gia
tăng như đối với hàng xuất khẩu.
2.2.4 Đối với các doanh nghiệp nhà nước sản xuất sợi, dệt, in
nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt - may:
a) Trong trường hợp cần thiết, được Chính phủ bảo lãnh khi mua
thiết bị trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài

chính trong và ngoài nước;
b) Được cấp lại tiền thu sử dụng vốn trong thời gian 5 năm (2001-
2005) để tái đầu tư;
c) Được ưu tiên cấp bổ sung một lần đủ 30% vốn lưu động đối với
từng doanh nghiệp.
2.2.5 Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn
ngạch dệt - may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi
phí cho các hoạt động tham gia các Tổ chức dệt - may quốc tế, cho
công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt
- may.
2.2.6 Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt -may vào thị trường Mỹ. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp
với các cơ quan liên quan nghiên cứu trong quý II năm 2001, trình Thủ
tướng Chính phủ chính sách hỗ trợ thích hợp hàng dệt - may xuất khẩu
sang thị trường Mỹ.
2.3 Các chỉ tiêu phát triển chủ yếu.
2.3.1 Sản xuất:
- Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 30.000 tấn; xơ
sợi tổng hợp 60.000 tấn; sợi các loại 150.000 tấn; vải lụa thành
phẩm 800 triệu mét vuông; dệt kim 300 triệu sản phẩm; may mặc
780 triệu sản phẩm.
- Đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn; xơ
sợi tổng hợp 120.000 tấn; sợi các loại 300.000 tấn; vải lụa thành
phẩm 1.400 triệu mét vuông; dệt kim 500 triệu sản phẩm; may mặc
1.500 triệu sản phẩm.
2.3.2 Kim Ngạch xuất khẩu:
- Đến năm 2005: 4.000 đến 5.000 triệu đô la Mỹ.
- Đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu đô la Mỹ.
21
2.3.3 Sử dụng lao động:

- Đến năm 2005: Thu hút 2,5 đến 3,0 triệu lao động.
- Đến năm 2010: Thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động.
2.3.4 Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm
dệt may xuất khẩu:
-Đến năm 2005: Trên 50%
- Đến năm 2010: Trên 75%.
2.3.5 Vốn đầu tư phát triển:
- Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt - may Việt Nam giai đoạn
2001-2005 khoảng 35.000 tỷ đồng, trong đó Tổng công ty Dệt - May
Việt Nam khoảng 12.500 tỷ đồng.
- Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt - may Việt Nam giai đoạn
2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó Tổng công ty Dệt - May
Việt Nam khoảng 9.500 tỷ đồng.
- Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến
năm 2010 khoảng 1.500 tỷ đồng.
III. Những Kiến Nghị Đối Với Chiến Lược Kinh Doanh Của
Các Doanh Nghiệp Ngành Dệt May Thời Gian Tới.
1. Kiến nghị về đầu tư
1.1 Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư
phát triển ngành dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
1.2 Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất
nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu
gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự
án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu.
1.3 Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều
kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các
yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo.
1.4 Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong đó
chú trọng xây dựng vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu
bông cho ngành dệt, sợi.

2. Kiến nghị phát triển nguồn nhân lực
Triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May
Việt Nam theo các nội dung sau:
22
2,1 Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp
chế, cán bộ bán hàng chuyên ngành Dệt May, cán bộ kỹ thuật và công
nhân lành nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm.
2.2 Mở các khoá đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý
sản xuất, kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán
hàng, kiến thức về tiêu chuẩn nguyên liệu, sản phẩm, tiêu chuẩn môi
trường và lao động).
2.3 Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các
khoá đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ
bán hàng, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào
tạo ở nước ngoài.
2.4 Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa
đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước
với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo.
2.5 Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây
dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vất chất cho
việc triển khai các lớp đào tạo.
2.6 Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công
nhân thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may
nhằm cung cấp đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội Dệt May Việt
Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết
với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình đạo
tạo nguồn nhân lực cho ngành.
3. Kiến nghị về khoa học công nghệ
3.1 Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng
tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

- Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công
nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động
nghiên cứu triển khai các tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng
cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam.
3.2 Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo
ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình
sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong
thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May.
23
3.3 Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt
may phù hợp và hài hoà với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
và thông lệ quốc tế. Hỗ trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra
chất lượng sản phẩm Dệt May, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt May
trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật.
3.4 Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát
triển các mặt hàng vải trong giai đoạn 2008-2010.
3.5 Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành Dệt May, nâng cao chất lượng
của trang thông tin điện tử.
3.6 Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển
giao công nghệ trong ngành Dệt May.
4. Kiến nghị thị trường
4.1 Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt
May trên thị trường quốc tế.
4.2 Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất
nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản
hoá các thủ tục.
4.3 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn
lậu, trốn thuế, gian lận thương mại.
4.4 Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn

bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho
các doanh nghiệp xuất khẩu.
4.5 Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị
xuất khẩu, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương
hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh của ngành Dệt May Việt Nam trên thị
trường trong nước và quốc tế.
4.6 Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để
tham gia soạn thảo, đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng,
nhất là hợp đồng thương mại quốc tế.
5. Kiến nghị về cung ứng nguyên phụ liệu
5,1 Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại Thành phố
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp
thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành.
24
5.2 Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung
nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với
chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý.
6. Kiến nghị về tài chính
6.1 Vốn cho đầu tư phát triển
Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, ngành Dệt May Việt Nam huy
động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các
hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ
phần hoá các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế),
vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính
phủ.
6.2 Vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực và xử lý môi
trường
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các

Viện nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để
tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và
đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May theo nguyên tắc phù hợp
với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Nhà nước cho doanh nghiệp Dệt May được vay vốn tín dụng nhà nước,
vốn ODA và vốn của quỹ môi trường để thực hiện các dự án xử lý môi
trường.
25

×