Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

KINH tế đối NGoại xuất khẩu lao động của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.45 KB, 14 trang )

I. Nhu cầu XKLĐ của VN
I.1. Tiềm năng Xuất khẩu lao động Việt Nam
1. Tiềm năng xuất khẩu lao động của Việt Nam:
+ Lực lượng lao động dồi dào:
- Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang
trong thời kỳ “dân số vàng”
nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Tuy nhiên, chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn thấp và cần phải được cải thiện
càng sớm càng tốt.
- Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12 năm 2010, Việt Nam có gần
87 triệu người, chủ yếu
là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của
các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu
người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu
người, nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là
hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; …
(vẽ biểu đồ tròn m nhé!)
+ Chất lượng lao động ngày càng tăng:
- Trình độ học vấn: Trình độ học vấn của người lao động Việt Nam nhìn
chung tương đối cao so
với nhiều nước có thu nhập tương đương trên thế giới, 50% lao động đã
tốt nghiệp THCS và THPT.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Năm 2010: Trong 20.1 triệu lao động đã qua đào tạo có: 8.4 triệu lao
động có bằng cấp, khoảng
8 triệu lao động trên 15 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật.
trình độ người lao động ngày càng nâng cao.
- Khả năng sáng tạo, thích ứng nhanh với môi trường làm việc mới
Với tiềm năng nguồn lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ, thị trường
lao động Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường hấp dẫn
nhất khu vực.


2. Nhu cầu từ thị trường nước ngoài:
+ Nhu cầu quốc tế hóa về lao động:
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế ÌM, thị trường lao động thế giới hiện nay tăng
gấp 4 lần so với năm 1980, dự
báo tăng gấp đôi vào năm 2050. Ở các nước có nền kinh tế phát triển,
lao động có tay nghề, kỹ thuật cao
vẫn thiếu trầm trọng. Mặt khác, việc xuất khẩu lao động sẽ giúp cả các
quốc gia xuất khẩu lao động cũng
như các quốc gia nhập khẩu lao động tiết kiệm rất nhiều chi phí. Cụ thể
là các quốc gia xuất khẩu lao
động sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo lao động, còn quốc gia nhập khẩu
lao động sẽ không tiêu tốn chi
phí nuôi dưỡng người lao động từ nhỏ đến độ tuổi lao động (như chi phí
ăn ở và bồi dưỡng trình độ văn
hóa)
+ Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu lao động
ngày càng được cải thiện:
Việc nước ta gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới WTO cũng góp phần
tạo điệu kiện để nước ta xuất
khẩu lao động sang các quốc gia phát triển.
I.2. Vai trò:
Vai trò của xuất khẩu lao động đối với việt nam: có 3 vai trò chính.
- Giúp giải quyết việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước
Với đặc điểm lực lượng lao động nước ta có số lượng lớn trong khu
nông nghiệp,
nông thôn, có năng suất lao động thấp ,XKLĐ vừa giải quyết được 1 số
lượng lớn
nhân lực dư thưa trong nước, xử lý hiệu quả các sức ép tiềm ẩn về dân
số, lao động
và việc làm do tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên tăng, lại vừa tăng thêm thu

nhập ngoại
tệ cho đất nước.
Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi năm nước ta đưa khoảng 2 vạn lao
động
ra nước ngoài với thời hạn 3-5 năm. Năm 2003, số lượng XKLĐ lên đến
16 vạn
người. Theo thông kê, nguồn thu về kiều hối của Việt Nam khoảng 7-9
tỷ USD,
trong đó XKLĐ vào khoảng gần 2 tỉ USD, đây là nguồn thu nhập ngoại
tệ quân
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế.
- Giảm bớt các tệ nan do thất nghiệp gây ra.
Thất nghiệp không những là thiệt hại cho nền kinh tế mà còn gây ra các
vấn nạn xã
hội như bạo lực, maiij dâm, trộm cắp, Biện pháp tốt nhất để giải
quyết các vấn
đề xã hội này là tạo việc làm cho người lao động, như vậy XKLĐ cũng
góp phần
giảm bớt các tệ nạn xã hội.
- Giúp nâng cao chát lượng lao động.
Khi XKLĐ người lao động không những có cơ hôi cải thiện thu nhập so
với trong
nước mà còn có cơ hội học tập nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn,
ngoại ngữ,
tác phong làm việc công nghiệp, hiểu biết văn hóa thế giơi
II. Thực trạng XKLĐ của VN
II.1: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về xuất khẩu lao động
1) Đường lối:
- 09/11/1991: Chính phủ ban hành Nghị định số 370/HĐBT chỉ rõ : “

Đưa người
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là 1 hướng giải quyết việc
làm, tạo
thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước;
góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế- văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa
Việt Nam với
những nước đã sử dụng lao động theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên
cùng có lợi,
tôn trọng pháp luật và truyền thống của nhau”.
- 1996: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
22/09/1998: Chỉ thị số 41-CT/TW
ð “ Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế- xã hội
góp
phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và
nâng
cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất
nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các
nước…”
-04/2006: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “ Tiếp tục
thực hiện
chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu qua đào
tạo, quản
lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động”.
- Nghị quyết Hội nghị TW 7 khóa X: “ Khuyến khích thanh niên đi lao
động có
thời hạn ở nước ngoài. Chú trọng giáo dục ý thức kỷ luật, kỹ năng lao
động, tay
nghề cho thanh niên đi lao động, tay nghề cho thanh niên đi lao động có

thời hạn ở
nước ngoài; đồng thời, có biện pháp quản lý, giáo dục, giúp đỡ số thanh
niên này”.
- 29/11/2006: tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- 01/07/2007: Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp
đồng có hiệu lực.
2. Chính sách:
- Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động: Cho
phép doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp hội đủ các điều
kiện về
vốn pháp định, bộ máy tổ chức, có đề ắn hoạt động đưa người lao động
đi làm việc
ở nước ngoài, đóng tiền ký quỹ được tham gia xuất khẩu lao động.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động:
+Khuyến khích, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành
thăm dò, tìm
kiếm lao động chất lượng.
+ Khuyến khích doanh nghiệp mở rộng thị trường phù hợp với trình độ,
tay nghề và
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.
- Đào tạo nghề cho người lao động:
+Giáo dục, định hướng trước cho người lao động phù hợp vớ từng loại
hình công
việc, thị trường nơi họ sẽ làm việc
+ Dạy ngoại ngữ, đào tạo tay nghề cho người lao động.
- Cơ chế hỗ trợ tài chính :

+ Nhà nước hỗ trợ 1 phần các chi phí đào tạo tay nghề, dạy ngoại ngữ,
giáo dục
định hướng,…
+ Cho người lao động vay tín chấp theo lãi suất ưu đãi qua Ngân hàng
Chính sách
xã hội, ngân hang thương mại, nhất là các đối tượng chính sách, bộ đội
xuất ngũ,
lao động nghèo, lao động vùng sâu, vùng xa, hải đảo, dân tộc ít người,…
- Quản lý xuất khẩu lao động: quản lý trên cơ sở thông thoáng và bình
đẳng nhằm
tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân có điều kiện tham gia.
II.2: Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam
Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam bắt đầu được triển khai
từ năm 1980. Cho đến nay, hoạt động này đã trải qua được gần 30
năm và được chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1980 – 1990: Giai đoạn hợp tác lao động với các nước
xã hội chủ nghĩa trong tình hình kinh tế Việt nam đang gặp nhiều
khó khăn, sản xuất công nghiệp trì trệ, mô hình hợp tác xã không
tạo ra cạnh tranh nên không kích thích được sản xuất. Thêm vào đó
là các khoản nợ sau chiến tranh cần phải trả và hai cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc ảnh hưởng nặng nề lên nền
kinh tế.
+ Trong giai đoạn này Việt Nam đã đưa 290.776 lao động đến 9
nước làm việc theo thời hạn hợp đồng từ 2 đến 6 năm. Trong đó,
245.000 lao động và chuyên gia làm việc tại các nhà máy, xí
nghiệp trong nước được đưa đến 4 nước Xã hội chủ nghĩa (Liên
Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc và Bungari). Bên cạnh đưa người đi
lao động, Việt Nam cũng đã ký kết về hợp tác chuyên gia trong các
lĩnh vực: y tế, giáo dục, nông nghiệp với một số quốc gia châu
Phi (Libya, Angeri, Angola, Mozambique, Congo, Madagasca)với

con số là 7.200 người; Trung Đông (Iraq) khoảng 18.000 người.
+ Theo thống kê từ năm 1980 đến 1989, ngân sách nhà nước đã thu
được khoảng 800 tỷ đồng và hơn 300 triệu USD, một khoản tiền
lớn tại thời điểm lúc đó. Ngoài giảm bớt số người thất nghiệp trong
nước; người lao động được tiếp cận với công nghệ mới và gửi về
nước một khối lượng hàng hóa tiêu dùng khá lớn, giúp cải thiện
cuộc sống gia đình tại Việt Nam trong thời kỳ khó khăn.
- Giai đoạn từ 1991 đến nay: Xuất khẩu lao đọng chuyển dần sang
cơ chế thị trường. Được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì 1991- 1999: Đây là thời kì chuyển đổi xuất khẩu lao
động theo cơ chế mới. Băt đầu thể chế hóa chủ trương của Đảng về
đồi mởi chính sách, cơ chế xuất khẩu lao động với hệ thống pháp
luật về XKLD được ban hành cùng với viện hình thành đội ngũ
doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ XKLD đã đưa 94.397 lao động đi
làm việc tại 30 thị trường. Đồng thời, cũng có sự thay đổi về thị
trường trong giai đoạn này. Ban đầu, Việt Nam xuất khẩu công
nhân xây dựng sang một số nước Trung Đông (chủ yếu
là Iraq), Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Kuwait. Năm
1992, Việt Nam kí các hợp đồng xuất khẩu thuyền viên với Đài
Loan, Hàn Quốc.
+ Thời kì 2000 đến nay: Thời kì đảy mạnh xuất khẩu lao động.
Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi năm có hơn 83.000 lao
động xuất khẩu sang nước ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao
động được giải quyết việc làm trong cả nước. Đến năm 2009 đã có
khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở 40 quốc gia và
vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau. Vào thời
điểm năm 2011, xét về lượng tiếp nhận thì lao động Việt Nam
nhiều nhất tại Đài Loan, Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi
năm có hơn 83.000 lao động xuất khẩu sang nước ngoài. Tuy nhiên
do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 dẫn

đến cac s thị trường xuất khẩu chủ lực của VN có những diễn biến
bất lợi về chính trị khiến nhiều lao động VN phải về nước trước
hạn.
Đến năm 2009 đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc
ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề đa
dạng và phong phú. Vào thời điểm năm 2011, xét về lượng tiếp
nhận thì lao động Việt Nam nhiều nhất tại Đài Loan, sau đó là Hàn
Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập Saudi, Lào, Campuchia, Trong
số đó lao động nữ chiếm gần 50%, chủ yếu làm trong ngành phục
vụ cá nhân và xã hội và công nghiệp.
Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các Tiểu vương
quốc Ả Rập Thống nhất cũng đang được mở rộng. Các quốc gia
phát triển có thu nhập cao như Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và
Ý cũng là mục tiêu xuất khẩu lao động Việt Nam hướng đến.
Năm 2011, tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài
theo số liệu từ Cục Quản lý Lao động Ngoài nước là 81.475 người.
Riêng số lao động Việt Nam đang có mặt tại bốn thị trường lớn
nhất là Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản là hơn 200.000
người (40% tổng số lao động Việt Nam tại nước ngoài).
Thị trường xuất khẩu lao
động 10T.2012
Thị trường Số lao
động
Đài Loan
24.553
Hàn Quốc
8.989
Nhật Bản
7.006
Lào

5.092
Malaysia
6.675
Campuchia
4.278
Macao
1.783
Cộng hòa Síp
1.255
Ả rập Xê-út
1.829
UAE
1.380
Kuwait
425
Libya
306
LB Nga
290
Mozambique
213
Peru
173
Israel
157
Oman
154
Bồ Đào Nha
145
Các thị trường

khác
480
III.Đánh giá chung:
Từ thực tế hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian qua chúng ta có thể thấy được:
Thuận lợi:
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đã và
đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát triển nhiều hình
thức dịch vụ tiến bộ, đầu tư có trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh
tranh. Lao động và chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài với nhiều
ngành nghề đa dạng như xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến
thủy sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản; chuyên gia y
tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học
- Dịch vụ xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp góp phần làm cho
hàng vạn người có việc làm với thu nhập cao; giảm được khoản đầu tư
khá lớn cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong nước, người lao
động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghệ sản xuất mới và
phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao
động công nghiệp.
- Thị trường xuất khẩu lao động của nước ta từng bước ổn định và mở
rộng, số thị trường nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng lên. Việc chỉ
đạo khai thác, củng cố và mở rộng thị trường đã được định hướng: tập
trung khai thác, củng cố các thị trường trọng điểm, từng bước tiếp cận,
thí điểm để mở rộng sang các khu vực.
- Các hợp đồng ký kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước
ngoài đều phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp nước sử dụng lao
động, phù hợp với mặt bằng thị trường và bảo đảm bảo được quyền lợi
của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Khó khăn:
[ Bên cạnh những mặt thuận lợi thì vẫn tồn tại một số khó khăn. Pháp

luật hiện hành đang điều chỉnh loại hình di chuyển theo hình thức xuất
khẩu lao động và mốt số loại hình của di chuyển con người. Việc quy
định như vậy có thể phù hợp với điều kiện hiện tại, khi Việt Nam mới
gia nhập WTO và đang tiến hành cải cách, điều chỉnh hệ thống pháp luật
theo các cam kết gia nhập tổ chức này. Hơn nữa, sự di chuyển quốc tế
của người lao động còn chưa rõ ràng, nhiều nước trên thế giới hiện cũng
chưa có sự phân biệt rõ về vấn đề này, kể cả những nước có nhiều lao
động đang làm việc ở nước ngoài, thì quy định đó của Việt Nam có thể
còn tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Việt Nam tiếp cận việc
làm ở nước ngoài để nâng cao trình độ tay nghề và thu nhập, thuận tiện
cho công tác quản lý lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc của các
cơ quan chức năng. Tuy nhiên, về lâu dài, khi tự do hóa thương mại toàn
cầu được thúc đẩy hơn nữa, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào
khu vực và thế giới, các quy định đó của Việt Nam sẽ không còn phù
hợp, tạo ra các rào cản hạn chế sự tự do di chuyển để tìm việc làm của
người lao động, cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Hơn nữa, khi đạt đến điều kiện tự do hóa hoàn toàn, sự di chuyển mạnh
của nguồn lao động từ trong nước ra nước ngoài,trong đó có cả lao động
có trình độ tay nghề cao là điều không tránh khỏi. Khi đó, nếu không có
sự rõ ràng trong các quy định đối với người lao động ra nước ngoài làm
việc, Việt Nam sẽ không phát huy được các lợi thế cũng như đảm bảo
được các lợi ích từ việc thực hiện tự do hóa hợp đồng cá nhân lao động.
Đặc biệt, trong trường hợp mà khả năng cung ứng lao động, nhất là lao
động có trình độ tay nghề cao không bắt kịp với các nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, hạn chế cả về số lượng và chất lượng như
hiện nay, một sự di chuyển lao động như vậy có thể tạo ra những bất lợi
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, gây tổn thương cho đất nước.
Đó cũng là thách thức, khó khăn đối với Việt Nam trong hội nhập kinh
tế quốc tế, đặt ra vấn đề ngay từ bây giờ cần có sự nghiên cứu bổ sung,
sửa đổi các văn bản pháp lý, trong đó có các quy định liên quan đến sự

di chuyển quốc tế của người lao động Việt Nam cho phù hợp để thực
hiện các chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có
đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo và lao
động nông nghiệp.](đọc)
[slide:]
- Số lượng lao động đưa đi của các doanh nghiệp nhìn chung còn thấp
so với yêu cầu. Một số doanh nghiệp đã không tích cực đầu tư, thiếu chủ
động trong tìm kiếm, khai thác thị trường để ký kết hợp đồng cung ứng
lao động.
- Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của các doanh nghiệp vẫn còn
thấp so với đòi hỏi của thị trường, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp
ứng được nhu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại chủ yếu là xuất khẩu
lao động phổ thông; một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu
cầu nhưng ta chưa có đủ để đáp ứng.
- Nhiều trường hợp người lao động tự bỏ hợp đồng trốn ra ngoài sống
bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động và thị trường lao
động của Việt Nam. Tình trạng lao động phải về nước trước hạn cũng
xảy ra phố biến, dẫn đến việc doanh nghiệp mất nguồn thu phí dịch vụ,
phát sinh tăng chi phí để giải quyết các vấn đề phát sinh và làm giảm
đáng kể hiệu quả của dịch vụ xuất khẩu lao động của doanh nghiệp.
IV. Giải pháp:
Các giải pháp tăng cường xuất khẩu lao động ở Việt Nam
1. Tăng cường mở rộng thị trường xkld (Vai trò của Chính phủ quyết
định)
-Thiết lập mối quan hệ cấp nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng
lao động nước ngoài (Thị trường quen thuộc: Đài Loan, Hàn Quốc,….;
Thị trường mới: Châu Phi, Trung Đông, EU, Bắc Mỹ…)
-Thành lập Quỹ phát triển thị trường lao động ngoài nước
-Làm tốt công tác thông tin-truyền thông: Xây dựng chiến lược tuyên
truyền, tiếp thị, quảng bá về lao động VN để thế giới biết đến (VD Ả rập

Xê út trong giáo trình); ngược lại cũng cập nhật
những thay đổi, biến động về thị trường quốc tế cho người lao động (VD
Malaysia trong giáo trình).
2. Chấn chỉnh, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo lao động xk tại các bộ,
ngành, địa phương
-Rà soát hoạt động của các cơ sở, những đơn vị hoạt động hiệu quả,
chấp hành nghiêm pháp luật và các quy định thì khuyến khích phát triển.
Ngược lại, tùy theo mức độ vi phạm mà có các chế tài xử lý phù hợp.
-Hình thành hệ thống cơ sở đào tạo cho lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài à Thống nhất chất lượng lao động xuất khẩu.
-Đầu tư cho các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đầu tư các trường dạy
nghề, các trung tâm bồi dưỡng xuất khẩu lao động.
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý lao động xuất
khẩu
-Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, quản lý nhà nước
-Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, sửa đổi theo một số hướng
trong sách cơ mà hình như sách phát hành lúc chưa có luật này
*Ở VN: Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Luật này được
ban hành ngày 12 tháng 12 năm 2006, có hiệu lực từ
ngày 1 tháng 7 năm 2007 và đến nay vẫn còn hiệu lực)
4. Chấn chỉnh các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu lao
động
-Doanh nghiệp đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới được
tham gia xuất khẩu lao động.
-Các doanh nghiệp căn cứ vào nhu cầu thị trường và khả năng ký kết để
lập kế hoạch xuất khẩu lao động hằng năm và dài hạn.
-Chủ động nghiên cứu, khảo sát thị trường.
-Tìm hiểu kỹ về đối tác, pháp luật nước sở tại, chế độ làm việc, lương
bổng, bảo hiểm….

-Định ra các phương án xử lý tranh chấp lao động, thường xuyên phối
hợp với các đại sứ quán và cơ quan đại diện của VN tại nước ngoài.
-Cung cấp thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao
động để định hướng cho người lao động.
-Ngoài ra: Công tác tuyển người phải nghiêm túc, đảm bảo yêu cầu của
đối tác, không sách nhiễu người lao động. Cơ quan chức năng, địa
phương làm tốt công tác tuyên truyền; hỗ trợ người lao động; nâng cao
bản lĩnh chính trị, ý thức kỉ luật của người lao động; bảo vệ quyền lợi
chính đáng khi người lao động gặp khó khăn, đồng thời xử lý nghiêm
các vi phạm.
5. Nâng cao tính tự chủ, tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của người lao
động
-Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, quy định của Việt Nam và các nước
sở tại.
-Chấp hành tốt kỷ luật lao động, thực hiện tốt hợp đồng, giúp đỡ nhau
hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao uy tín của lao động VN trên thị trường
quốc tế.

×