Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Xuất khẩu lao động của việt nam sang thị trường khu vực đông bắc á thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.61 KB, 113 trang )

1

Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trơng của Đảng và
Nhà nớc, đợc coi là một chiến lợc quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết
việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo
nguồn thu ngoại tệ cho đất nớc. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển
giao công nghệ tiên tiến từ nớc ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lợng và tăng cờng các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho
Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế.
Khu vực Đông Bắc á có các nớc có trình độ cao về phát triển kinh tế,
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nớc công nghệ
nguồn, là khu vực có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ
sang khu vực này còn có mục đích tiếp thu các kiến thức khoa học công nghệ
(KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh hiện
đại từ các nớc trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn luyện tác phong
công nghiệp cho ngời lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thị trờng
XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nớc nhập khẩu lao
động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm
1990 đến nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ
trọng lớn và có tác động tích cực đối với ngời lao động cũng nh đối với sự
phát triển chung của các ngành, địa phơng của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông
Bắc á thời gian qua đà bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến
phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tợng lao động Việt Nam
bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm
dụng, lao động tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và c trú bất hợp
pháp, v.v... Đặc biệt, số lợng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trèn



2

ngày càng lớn, đến mức các nớc này đà nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trờng nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặn và giải quyết dứt điểm, thậm chí
Đài Loan đà tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam ở một số lĩnh vực.
Những vấn đề đó đà tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của Việt
Nam với các nớc trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng
hoặc mất thị trờng XKLĐ vào tay các nớc XKLĐ khác, làm phức tạp thêm
tình hình, gây khó khăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nớc
này. Hơn nữa, xét về tầm chiến lợc, những vấn đề đó nếu không đợc giải quyết
triệt để sẽ làm mất uy tín của ngời lao động cũng nh các doanh nghiệp XKLĐ
của Việt Nam trên thị trờng lao động quốc tế, tạo d luận và tâm lý không tốt
trong xà hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả
của hoạt động XKLĐ cđa ViƯt Nam sang khu vùc nµy trong thêi gian tới.
Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt
động XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á để tìm ra
những nguyên nhân của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh
nghiệm, đa ra các giải pháp nhằm hạn chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng khu vực này phát triển là rất có
ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn đề "Xuất khẩu lao
động của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải
pháp" đợc chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nớc ta trong những năm qua đà có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề XKLĐ, nh: Nguyễn Lơng Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả
việc đa lao động đi làm việc có thời hạn ở nớc ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế;
Cao Văn Sâm (1994): Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao
động - Luận án tiến sĩ kinh tế; Trần Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm
đổi mới quản lý nhà nớc về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995-2010 Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề vÒ xuÊt



3

khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ kinh
tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nớc về xuất
khẩu lao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế;
Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với chơng trình quốc gia về
việc làm - Thực trạng và giải pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có
một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, các bài nghiên cứu đăng trên
nhiều tạp chí viết về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đà tiếp cận vấn đề XKLĐ
của Việt Nam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích
đánh giá hoạt động XKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh
chính sách, cơ chế quản lý hoạt động XKLĐ. Tuy đề cập đến thực trạng và hớng phát triển XKLĐ của Việt Nam sang các nớc thuộc khu vực Đông Bắc á
nh Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhng các công trình này mới chỉ dừng
lại ở mức độ đánh giá chung, tổng quát, cha đi sâu vào phân tích, đánh giá đầy
đủ về nhu cầu tuyển dụng lao động nớc ngoài (LĐNN) của khu vực cũng nh
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Hơn
nữa, trong điều kiện nền kinh tế thế giới, khu vực và bản thân Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan cũng luôn hàm chứa những yếu tố có tác động không nhỏ tới
việc tuyển dụng LĐNN ở từng nớc, hoạt động XKLĐ của nớc ta còn nhiều tồn
tại, khó khăn, có nhiều diễn biến phức tạp cha giải quyết đợc thì việc nghiên
cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn về XKLĐ nói chung, hoạt động XKLĐ
của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á nói riêng cần phải đợc tiến
hành thờng xuyên, để từ đó đa ra đợc các giải pháp phù hợp thúc đẩy hoạt động
này tăng trởng ổn định và phát triển bền vững.
Do đó, tiếp tục nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt động XKLĐ
của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á nói riêng là cần thiết, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.



4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
về XKLĐ của một số nớc và ở nớc ta trong thời gian qua, luận văn có mục
đích xác định những quan điểm cơ bản về hoạt động XKLĐ và kiến nghị một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng
khu vực Đông Bắc á trong thời gian tới, góp phần phát triển hoạt động XKLĐ
nói chung của nớc ta.
Để thực hiện đợc mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây:
- Phân tích làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt
động XKLĐ và vai trò của hoạt động XKLĐ.
- Khái quát những kinh nghiệm của một số nớc về XKLĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang
thị trờng khu vực Đông Bắc á; rút ra một số kinh nghiệm đối với hoạt động
XKLĐ của Việt Nam.
- Phân tích nhu cầu tuyển dụng LĐNN của khu vực Đông Bắc á và
nêu phơng hớng XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á.
- Xác định một số quan điểm về hoạt động XKLĐ cần nhận thức đúng;
đề xuất một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế và đẩy mạnh hoạt động
XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á.
4. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu XKLĐ với tính chất là một hoạt động xuất
khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu
hình thức XKLĐ trực tiếp: đa ngời lao động Việt Nam đi làm việc tại các nớc và vùng lÃnh thổ ngoài Việt Nam theo các hợp đồng cung ứng lao động
giữa các tổ chøc kinh tÕ cđa ViƯt Nam vµ níc ngoµi, cã sự quản lý của nhà
nớc.


5


Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á đợc thực
hiện chính thức từ năm 1992 và chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam
sang thị trờng khu vực Đông Bắc á chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu
hoạt động XKLĐ trực tiếp của Việt Nam sang các thị trờng Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan từ năm 1992 đến năm 2004. Đối tợng nghiên cứu là hoạt
động đa ngời lao động Việt Nam đi làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh
và làm dịch vụ giúp việc tại các nớc và vùng lÃnh thổ này.
Thuật ngữ xuất khẩu sức lao động và xuất khẩu lao động đợc dùng tơng đơng trong luận văn và đồng nhất về cách hiểu, mặc dù về khía cạnh khoa
học, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa và là đối tợng của trao đổi, mua bán,
trong đó có xuất khẩu. Ngời lao động ở các trình độ, nghề nghiệp khác nhau
đợc đa đi làm việc ở nớc ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động đợc
nghiên cứu chung là lao động xuất khẩu (LĐXK).
5. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phơng pháp khác
nh thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logíc, có kế thừa những
kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khoa học trớc đây để giải
quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động XKLĐ.
- Làm rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan và phơng hớng XKLĐ của Việt Nam sang các nớc này.
- Tìm ra một số nguyên nhân của thành công và hạn chế trong hoạt
động XKLĐ của Việt Nam sang thị trờng khu vực Đông Bắc á, rút ra một số
kinh nghiệm về hoạt động XKLĐ của Việt Nam.


6


- Đa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế các
phát sinh tiêu cực, đồng thời thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị
trờng khu vực Đông Bắc á phát triển trong thời gian tới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể đợc dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách kinh tế - xà hội, nhất là đối với những ngời làm công tác
XKLĐ, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chơng, 9 tiết.


7

Chơng 1
Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Về Xuất Khẩu LAO Động

1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế
quốc tế

Xuất khẩu lao động là một hoạt động có tính chất phức tạp, nhạy cảm
do liên quan trực tiếp đến con ngời, tới nhiều lĩnh vực nh kinh tế, chính trị, xÃ
hội, quan hệ đối ngoại cũng nh do có nhiều quan điểm và nhận thức khác
nhau. Bởi vậy, làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động
XKLĐ sẽ giúp cho có đợc một cách nhìn toàn diện, thống nhất vỊ quan ®iĨm
trong lý ln cịng nh thùc tiƠn vỊ hoạt động XKLĐ ở nớc ta.
1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ XKLĐ

Theo cách hiểu thông thờng, việc khảo sát thị trờng lao động, tìm kiếm
ngời sử dụng lao động ở nớc ngoài, ký kết các hiệp định hợp tác hoặc hợp
đồng lao động, tiến hành đa ngời lao động đi làm việc ở các nớc và các hoạt
động kèm theo là nội dung chính của hoạt động XKLĐ. Theo cách hiểu đó,
hoạt động XKLĐ bao hàm việc di chuyển của ngời lao động từ một nớc này
đến nớc khác làm việc. Tuy nhiên, không phải bất cứ một sự di chuyển lao
động nào nh vậy của ngời lao động đều là hoạt động XKLĐ. Vấn đề này, ở
các quốc gia, thậm chí ở một quốc gia, tùy từng điều kiện cụ thể mà ngời ta có
các cách hiểu, quan niệm khác nhau. Nhng nhìn chung, vỊ thùc chÊt, sù di
chun nµy lµ viƯc ngêi lao động đi làm thuê cho ngời sử dụng lao động ở
ngoài nớc.
Để làm rõ bản chất cũng nh đa ra đợc khái niệm đầy đủ về hoạt động
XKLĐ, cần xem xét tới một số vấn đề liên quan sau:


8

Thị trờng lao động: Là thị trờng trao đổi sức lao động, là một không
gian trao đổi, tiến tới một thỏa thuận giữa ngời sở hữu sức lao động và ngời
cần sức lao động đó để sử dụng. Kết quả của sự trao đổi đó là sự thỏa thuận
bằng hợp ®ång vỊ tiỊn c«ng cïng víi mét sè ®iỊu kiƯn khác cho một công việc
cụ thể. Thị trờng lao động chính là biểu hiện của sự trao đổi, là mối quan hệ
kinh tế cần thiết giữa ngời sở hữu và ngời sử dụng sức lao động. Hàng hóa trên
thị trờng lao động là sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt, giá cả của nó
cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung - cầu.
Lao động di c (migrant worker) chỉ ngời lao động di chuyển từ nớc
này sang nớc khác để làm việc, thuộc phạm trù di dân quốc tế (international
migration). Di dân quốc tế bao gồm những vấn đề lớn hơn khái niệm lao động
di c, để chỉ những ngời hoặc dòng ngời di chuyển từ nớc này sang nớc khác vì
nhiều mục đích khác nhau, với nhiều lứa tuổi khác nhau, trong đó có một bộ

phận thuộc lực lợng lao động.
Xuất khẩu lao động: Đợc hiểu nh là công việc đa ngời lao động từ một
nớc đi lao động tại nớc có nhu cầu thuê mớn, sử dụng lao động. Nó có liên
quan đến các khái niệm: lao ®éng xt c - chđ u ®Ị cËp tíi ngêi lao động ra
đi từ một nớc nào đó tới nớc mà họ lao động; lao động nhập c - chủ yếu đề
cập đến ngời lao động từ nớc ngoài vào một nớc nào đó để làm việc; lao động
xuất khẩu - ®Ị cËp ®Õn ngêi lao ®éng cđa mét níc có độ tuổi, sức khỏe và kỹ
năng lao động khác nhau đợc đa đi làm việc ở ngoài nớc theo các quy định
của pháp luật nớc đó.
Trên thế giới, thuật ngữ thông dụng để chỉ sự di chuyển của ngời lao
động ra khỏi biên giới một nớc là lao động di c hay lao động di trú. Theo Điều
11 của Công ớc số 97 (1949) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khái niệm
ngời lao động di c chỉ mét ngêi di c tõ níc nµy sang mét níc khác để làm thuê
cho ngời khác [47]. Nh vậy, bất cứ sự di chuyển nào của ngời lao động từ nớc
này đến nớc khác để làm việc đều đợc gọi chung là lao động di c, không phân
biệt hình thức tổ chức và đối tợng tham gia. Với cách hiểu này, thuật ngữ lao


9

động di c chỉ phản ánh biểu hiện bề ngoài sự di chuyển của ngời lao động đi
làm việc ở nớc ngoài dới bất kỳ hình thức nào, cha thể hiện đợc bản chất của
nó là quá trình mua bán sức lao động giữa ngời lao động (ngời sở hữu sức lao
động) với ngời thuê lao động (ngời sử dụng sức lao động). Hơn nữa, khái niệm
cũng bao hàm và không phân biệt các trờng hợp di chuyển hợp pháp (có sự
quản lý của nhà nớc) và di chuyển bất hợp pháp (nhà nớc không kiểm soát đợc) của ngời lao động.
ở Việt Nam, liên quan đến sự di chuyển của ngời lao động đi làm việc
ở nớc ngoài có một số quan niệm, thuật ngữ đợc sử dụng ở các thời kỳ khác
nhau nh: hợp tác quốc tế về lao động, đa ngời lao động đi làm việc có thời
hạn ở nớc ngoài, xuất khẩu lao động.

Hợp tác quốc tế về lao động hay hợp tác quốc tế về sử dụng lao động
là cụm từ đợc sử dụng vào những năm 1980, phản ánh hoạt động cung ứng và
tiếp nhận lao động giữa Việt Nam với một số nớc xà hội chủ nghĩa cũ và một
số nớc ở châu Phi và Trung Đông theo các hiệp định chính phủ. Nh vậy, hợp
tác quốc tế về lao động bao gồm các hoạt động: đa lao động Việt Nam sang nớc khác làm việc, cung cấp lao động cho nớc ngoài sử dụng ngay trong nớc và
tiếp nhận LĐNN vào Việt Nam làm việc. Nhng thực tế lúc đó chủ yếu là Việt
Nam thực hiện cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao động bị thiếu hụt ở các
nớc tiếp nhận, đợc thể hiện dới hình thức Nhà nớc tuyển chọn và trực tiếp đa
lao động ra nớc ngoài nhằm mục đích đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề ở
các nớc tiếp nhận trên tinh thần giúp đỡ, hợp tác hữu nghị, cha chú trọng đến
mục đích kinh tế. Vì vậy, "hợp tác quốc tế về lao động" chỉ đợc sử dụng với
nghĩa hẹp, phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và điều
kiện lịch sử lúc đó, không thể hiện đợc bản chất của nó đó là sự trao đổi, mua
bán hàng hóa sức lao động trên cơ sở ngang giá và cân bằng lợi ích giữa các
chủ thể tham gia.
Đa ngời lao động đi làm việc (có thời hạn) ở nớc ngoài: Là cụm từ đợc
sử dụng vào đầu những năm 1990 thay cho cụm từ hợp tác quốc tế về lao


10

động, gắn liền với sự thay đổi nhận thức về sức lao động và quan niệm về việc
đa lao động ra nớc làm việc. Sức lao động đà đợc thừa nhận là một hàng hóa
có thể trao đổi, mua bán ở cả trong và ngoài nớc. Hoạt động đa ngời lao động
ra nớc ngoài là nhằm các mục tiêu: kinh tế (thu nhập cho ngời lao động và thu
ngoại tệ cho đất nớc), xà hội (giải quyết việc làm); quan hệ quốc tế (hợp tác
kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật), đợc thực hiện theo các hình thức tổ
chức: hiệp định giữa hai chính phủ (nếu có); các hợp đồng cung ứng lao động
giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và nớc ngoài; các hợp đồng lao động
giữa ngời lao động với các tổ chức kinh tế Việt Nam hoặc các tổ chức kinh tế

và cá nhân nớc ngoài [22]. Nhà nớc không trực tiếp đa lao động đi làm việc ở
nớc ngoài mà chủ yếu do các tổ chức kinh tế đợc cấp phép đảm nhiệm. Hoạt
động này đà phản ánh sát thực bản chất của việc cung ứng và tiếp nhận lao
động giữa các quốc gia, đó là sự trao đổi, mua bán hàng hãa søc lao ®éng
nh»m mơc ®Ých kinh tÕ - x· hội, nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc.
Xuất khẩu lao động: Là thuật ngữ hiện đợc sử dụng phổ biến, có ý
nghĩa tơng đơng với cụm từ đa ngời lao động đi làm việc ở nớc ngoài trên các
phơng tiện thông tin đại chúng, trong nhiều văn bản pháp luật, tài liệu nghiên
cứu về ngời lao động đi làm việc ở ngoài nớc. Trong cơ chế kinh tế thị trờng,
XKLĐ phản ánh hoạt động cung - cầu lao động trên thị trờng lao động quốc tế
theo các quy luật kinh tế, trên cơ sở giá cả của hàng hóa sức lao động và lợi
ích kinh tế của các chủ thể tham gia; phản ánh đợc sự khác biệt giữa hình thức
tổ chức đa lao động ra nớc ngoài làm việc một cách hợp pháp với các hình
thức tổ chức khác.
1.1.1.2. Bản chất của hoạt động XKLĐ
Từ hiện tợng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình gắn
liền với quá trình phát triển kinh tế của mỗi nớc. Đó cũng là một quá trình
nhận thức khách quan về vai trò của ngời lao động và sức lao động tiềm ẩn
trong các nớc d thừa lao động. Vấn đề di chuyển lao động và XKLĐ về thực


11

chất là việc đem sức lao động từ một nớc này tới một nớc khác nhằm mục đích
kinh tế, nhng giữa chúng có sự khác nhau về chất. Việc di chuyển lao động
ban đầu mang tính tự phát còn việc di chuyển lao động trong XKLĐ lại mang
tính tự giác, tức là có việc tổ chức đa lao động đi và về kèm theo hạch toán
kinh tế, có ý nghĩa chiến lợc của một quốc gia. Nh vậy, XKLĐ bản thân nó là
một hoạt động nhằm mục đích kinh tế, có liên quan đến nhiều vấn đề nhạy

cảm và phức tạp vì gắn liền với hoạt động của ngời lao động.
Từ thực tế nêu trên cùng với tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động đÃ
tạo ra sự phức tạp trong hoạt động XKLĐ, do đó vẫn còn có những điểm khác
nhau trong các khái niệm khi nghiên cứu về hoạt động XKLĐ ở Việt Nam.
Dới góc độ chuyên ngành kinh tế và tổ chức lao động, theo tác giả
Nguyễn Lơng Trào: "Việc tổ chức đa lao động ra nớc ngoài làm việc đợc nhà
nớc xem đó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế hợp pháp và cho phép các tổ
chức kinh tế (nhà nớc hoặc t nhân) thực hiện thì đó chính là hoạt động xuất
khẩu lao động" [45, tr. 5].
Trên giác độ phân tích một hoạt động nghiệp vụ ngoại thơng, tác giả
Nguyễn Phúc Khanh cho rằng: "Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế đối
ngoại đặc thù của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một
quốc gia khác trên cơ sở hợp đồng có thời hạn, có tính chất pháp quy đợc
thống nhất giữa quốc gia đa và nhận lao động" [25, tr. 10].
Phân tích XKLĐ dới góc độ quản lý kinh tế, XKLĐ đợc quan niệm:
"Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc
cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định, hợp
đồng giữa các nhà nớc, tổ chức kinh tế, pháp nhân, cá nhân của qc gia xt
khÈu víi c¸c qc gia nhËp khÈu" [44, tr. 5].
Có thể thấy, trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, theo cách tiếp
cận khác nhau, ngời nghiên cứu đa ra các khái niệm khác nhau, hoặc có điểm
khác nhau trong quan niệm về XKLĐ. Các khái niệm này nhìn chung đà phản


12

ánh những biểu hiện cụ thể, mang tính kỹ thuật của hoạt động XKLĐ: cung
ứng lao động cho nớc ngoài theo các hợp đồng đà ký kết. Việc phản ánh bản
chất của hoạt động XKLĐ mới ở mức độ khái quát những biểu hiện chung
nhất - đó là một hoạt ®éng nh»m mơc ®Ých kinh tÕ qua viƯc ®a lao động từ nớc

này sang nớc khác, mà cha thể hiện đợc đó là việc bán hàng hóa sức lao động
trong níc cho chđ sư dơng ë níc ngoµi.
Trong nỊn kinh tế thị trờng, sức lao động đợc coi là hàng hóa, đợc đem
ra trao đổi, mua bán trên thị trờng. Nhng ngời lao động là chủ sở hữu sức lao
động, chỉ bán giá trị sử dụng của sức lao động và bán nó trong một khoảng
thời gian nhất định cho ngời mua là ngời sử dụng lao động, theo những điều
kiện đà đợc thỏa thuận giữa hai bên. Ngời mua chỉ đợc sử dụng sức lao động
trong thời gian đà thỏa thuận để thu giá trị thặng d do ngời lao động tạo ra, hết
thời hạn này, sự ràng buộc giữa hai bên chấm dứt. Hoạt động mua bán này
diễn ra dới nhiều hình thức khác nhau, có thể ngời lao động trực tiếp tìm đến
ngời sử dụng hoặc thông qua các môi giới trung gian theo các hợp đồng cung
ứng lao động. Nếu ngời lao động bán sức lao động, đi làm thuê cho ngời sử
dụng ở ngoài nớc thì việc mua bán này diễn ra trên thị trờng lao động quốc tế,
khi đó hoạt động này vợt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và do đó, liên
quan tới các quan hệ kinh tế, chính trị, xà hội, giữa quốc gia mà ngời lao
động đi và quốc gia mà ngời lao động đến để làm việc. Để đảm bảo quyền lợi
của ngời lao động cũng nh các lợi ích khác của quốc gia, nhà nớc đà phải
tham gia vào hoạt động này. Cho đến nay, hầu hết sự di chuyển của ngời lao
động ra nớc ngoài làm việc đều có sự can thiệp của nhà nớc, nhng với các mức
độ khác nhau ở các nớc khác nhau. Vì thế trên thế giới ngời ta thờng xếp
XKLĐ vào hoạt động kinh tế đối ngoại hay hoạt động kinh tÕ qc tÕ.
Nh vËy cã thĨ thÊy, thùc chÊt XKL§ là hoạt động xuất khẩu hàng hóa
sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt, bản chất của hoạt động này là việc
bán hàng hóa sức lao động trong nớc cho nớc ngoài. Ngời lao động thông qua
các tổ chức môi giới giao dịch hàng hóa sức lao động, hay các tổ chức XKLĐ,


13

của nhà nớc hoặc t nhân, để bán sức lao động, đi làm thuê cho chủ sử dụng lao

động ở ngoài nớc.
Từ những phân tích trên, chúng tôi mạnh dạn tóm lợc các nội dung
trên và đa ra một khái niệm tơng đối đầy đủ về XKLĐ nh sau:
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xà hội đặc thù, thuộc
lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tÕ cđa mét qc gia nh»m thùc hiƯn viƯc cung
øng hàng hóa sức lao động cho nhu cầu sử dụng ở nớc ngoài theo các hình
thức do nhà nớc quy định. Đây là một hình thức giao dịch hàng hóa sức lao
động trên thị trờng lao động quốc tế, trong đó ngời chủ bán hàng hóa sức lao
động cho ngời sử dụng ở nớc ngoài thông qua các tổ chức môi giới trung gian
của nhà nớc hoặc t nhân.
1.1.1.3. Đặc điểm của hoạt động XKLĐ
Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó, hoạt động XKLĐ
cũng có những đặc điểm khác với hoạt động xuất khẩu các hàng hóa khác.
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động đặc thù thuộc lĩnh vực hợp tác
kinh tế quốc tế. Tính đặc thù này đợc thể hiện hoạt động XKLĐ là một hoạt
động nhằm mục đích kinh tế nhng mang tính xà hội sâu sắc trong quan hệ với
nớc ngoài.
Là một hoạt động kinh tế, ở nhiều nớc, XKLĐ đà trở thành một giải
pháp để giải quyết việc làm cho lực lợng lao động ngày càng tăng, tích lũy t
bản tõ ngn tiỊn chun vỊ níc cđa ngêi lao ®éng đi XKLĐ và các khoản thu
khác từ hoạt động này. Những lợi ích kinh tế này buộc nớc XKLĐ phải nỗ lực
để có thể chiếm đợc thị phần XKLĐ cao nhất. Chính vì vậy, nớc XKLĐ phải
tính toán sao cho bù đắp đợc chi phí trong hoạt động XKLĐ và thu đợc các lợi
ích kinh tế cho các chủ thể tham gia, vì vậy phải có cơ chế thích hợp để tăng
tối đa khả năng cung lao động. Mục tiêu kinh tế luôn đợc chú trọng trong hoạt
động XKLĐ, do đó, mọi chủ trơng, chính sách, các biện pháp quản lý, ®iỊu


14


tiết của nhà nớc về hoạt động XKLĐ đều bám sát đặc điểm này, định hớng và
bảo đảm cho hoạt động XKLĐ đạt đợc mục tiêu về lợi ích kinh tế.
Tính chất xà hội của hoạt động XKLĐ bắt nguồn từ tính chất đặc biệt
của hàng hóa sức lao động. Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con ngời đang sống và đợc ngời đó
đem ra sử dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [34, tr. 251]. Vì
vậy, xét cả về số lợng và chất lợng, hàng hóa sức lao động phụ thuộc hoàn
toàn vào bản thân ngời mang loại hàng hóa này. Hơn nữa, sức lao động còn
bao hàm các yếu tố về lịch sử và tinh thần [34, tr. 257], nên hàng hóa sức lao
động có một đặc tính xà hội riêng có. Ngời lao động có khả năng t duy và tự
làm chủ bản thân, mang trong mình các đặc điểm về đạo đức, truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán của một quốc gia, dân tộc, chúng di chuyển
cùng ngời LĐXK. Vì thế, các chính sách điều tiết hoạt động XKLĐ đều phải
kết hợp với các chính sách xà hội khác, nhất là phải đảm bảo đợc quyền lợi
của ngời lao động, trong các hiệp định hợp tác lao động, hợp đồng XKLĐ
cũng phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, tinh thần, văn
hóa, sinh hoạt của ngời lao động nh vấn đề thăm thân, tham gia các hoạt động
văn hóa, lễ hội, sinh hoạt tập thể...
Hoạt động XKLĐ luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nớc - với t
cách là một chủ thể tham gia vào quá trình này. Nhà nớc tham gia vào hoạt
động XKLĐ bằng cách xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động
XKLĐ để bảo đảm các lợi ích quốc gia, quyền lợi của các tổ chức, doanh
nghiệp, ngời lao động tham gia XKLĐ, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác
với các nớc NKLĐ,... Trong những trờng hợp cần thiết, nhà nớc phải trực tiếp
giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp XKLĐ không
thể đảm đơng đợc nh bảo vệ ngời lao động ở nớc ngoài, đàm phán ký kết các
hiệp định chính phủ về hợp tác lao động với nớc ngoài, ký kết các điều ớc
quốc tế liên quan đến ngời lao động, giải quyết các vấn đề tiêu cực trong hoạt



15

động XKLĐ nh lao động vi phạm pháp luật ở nớc NKLĐ, lừa đảo trong hoạt
động XKLĐ,...
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Đặc
điểm này đợc thể hiện qua tính chất vô hình không thể chia cắt và tính chất
không xác định trong hoạt động XKLĐ.
+ Tính chất vô hình, không thể chia cắt: Hoạt động dịch vụ thông thờng có đặc điểm không hiện hữu, không tồn tại dới dạng vật thể, không thể sờ
mó, tiếp xúc hay nhìn thấy đợc khi ra quyết định sử dụng. Đối với XKLĐ, yếu
tố không hiện hữu thể hiện ở chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đÃ
hoàn thành thủ tục đa ngời lao ®éng ®i lµm viƯc ë níc ngoµi, nã kÐo dµi từ khi
đa ngời lao động đi XKLĐ, giúp ngời lao động thích nghi với công việc ở nớc
ngoài cho đến khi ngời lao động về nớc. Các bên liên quan đến hoạt động
XKLĐ có quyền lợi và nghĩa vụ trong suốt thời hạn của hợp đồng, đồng thời,
phải thờng xuyên có những hành động để thực hiện nghĩa vụ quy định trong
hợp đồng, hoặc cả trờng hợp không quy định trong hợp đồng nhng có liên
quan đến quyền lợi của ngời lao động, ngời cung ứng lao động và ngời sử
dụng lao động [24, tr. 12].
+ Tính chất không xác định: Dịch vụ có tính không đồng nhất, sản
phẩm dịch vụ phi tiêu chuẩn hóa, chất lợng thờng không xác định bởi các
dịch vụ phụ thuộc vào ngời cung cấp chúng. Tính chất không xác định trong
hoạt động XKLĐ đợc quy định bởi chất lợng hàng hóa sức lao động. Chất lợng của hàng hóa sức lao động đợc phản ¸nh vµ phơ thc vµo ngn lùc thĨ
chÊt vµ tinh thần của ngời lao động, hay là khả năng dẻo dai, bền bỉ trong lao
động, khả năng thành thạo và sáng tạo của ngời lao động cũng nh điều kiện
làm việc, sinh hoạt nghỉ ngơi, các hoạt động văn hóa cho ngời lao động.
Tuy nhiên, các yếu tố này ở mỗi ngời, ở mỗi địa phơng, khu vực là khác
nhau, có thể thay đổi làm cho chất lợng hàng hóa sức lao động thay đổi theo,
không ổn định, do đó tạo ra tính chất không xác định trong hoạt động
XKLĐ.



16

- Hoạt động XKLĐ có cách tính giá cả hàng hóa xuất khẩu khác biệt.
Hàng hóa xuất khẩu trong hoạt động XKLĐ là sức lao động, giá cả hàng hóa
sức LĐXK là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động của ngời LĐXK và
đợc xác định trên thị trờng lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động đợc
xác định gồm: giá trị t liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sự sống và đảm bảo
tái sản xuất sức lao động của bản thân ngời lao động, để nuôi sống gia đình,
con cái của ngời lao động và các chi phí đào tạo nghề nghiệp, kỹ năng lao
động, các chi phí để thỏa mÃn các nhu cầu văn hóa tinh thần của ngời lao
động [34, tr. 256-258]. Do đó, ngoài vấn đề phải đảm bảo đợc sức cạnh tranh
trong môi trờng cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc tính toán giá cả hàng hóa
trong XKLĐ phải tính đúng và tính đủ các yếu tố hình thành giá trị hàng hóa
sức lao động, phải tính toán trong điều kiện từng thị trờng cụ thể, nơi diễn ra
việc trao đổi sức lao động vì mỗi thị trờng có chi phí và điều kiện sinh hoạt
khác nhau. Nh C.Mác đà chỉ ra "những nhu cầu thiết yếu, cũng nh phơng thức
thỏa mÃn những nhu cầu đó... phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của
mỗi nớc, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào những thói quen và những nhu
cầu sinh hoạt" [34, tr. 256].
- Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho ba chủ thể tham gia.
Hoạt động XKLĐ, ngoài sự tham gia của Nhà nớc và doanh nghiệp XKLĐ,
còn có sự tham gia trùc tiÕp cđa ngêi lao ®éng. Ngêi lao ®éng tham gia vào
hoạt động XKLĐ với t cách vừa là ngời tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là ngời
trực tiếp mang hàng đi bán, lợi ích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công
lao động ở nớc ngoài; lợi ích của các doanh nghiệp XKLĐ chủ yếu là các loại
phí trong việc giúp cho ngời lao động đi làm việc ở nớc ngoài; lợi ích của nhà
nớc là các khoản ngoại tệ ròng nhận đợc thông qua các khoản tiền của ngời
lao động gửi về nớc, các khoản phí và thuế từ hoạt động XKLĐ. Vì lợi ích
kinh tế, cả ngời lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi phạm các quy định

của pháp luật. Do đó, các chính sách điều chỉnh phải đảm bảo đợc sự hài hòa


17

lợi ích trực tiếp của các chủ thể tham gia, trong đó phải chú trọng đến lợi ích
của ngời lao động.
- Hoạt động XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất
khẩu, việc thực hiện quyền sử dụng hàng nhập khẩu có thời hạn. Sức lao động
gắn chặt với ngời lao động, không thể tách rời khỏi cơ thể sống của ngời lao
động và luôn thuộc quyền sở hữu của ngời lao động. Ngời lao động với t cách
là một con ngời phải thờng xuyên duy trì mối quan hệ đối với sức lao động
của mình nh là đối với một vật sở hữu của mình hay nh đối với một hàng hóa
của bản thân anh ta [34, tr. 252]. Do đó, ngời lao động chỉ bán sức lao động
của mình và bao giờ cũng chỉ để cho ngời mua sức lao động sử dụng hay tiêu
dùng sức lao động đem bán trong một thời hạn nhất định, không từ bỏ quyền
sở hữu về sức lao động đó. Nếu ngời lao động chuyển quyền sở hữu sức lao
động của mình cho ngời mua, tức ngời lao động đà "bán đứt hẳn toàn bộ sức
lao động ấy trong một lần thì ngời lao động sẽ tự bán cả bản thân anh ta, và từ
chỗ là một ngời tự do, anh ta sẽ trở thành nô lệ, từ chỗ là ngêi chđ hµng hãa,
anh ta sÏ trë thµnh mét hµng hóa" [34, tr. 252]. Vì vậy, trong hoạt động XKLĐ
không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất khẩu từ ngời bán cho ngời
mua nh hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông thờng, quyền sở hữu sức lao
động vẫn thuộc về ngời lao động khi hợp đồng đợc thực hiện.
Trong khoảng thời gian của hợp đồng XKLĐ, ngời chủ sử dụng tiến
hành khai thác và sử dụng sức lao động mua về một cách hiệu quả nhất nhằm
thu đợc tối đa giá trị tăng thêm do sức lao động đó tạo ra. Tuy nhiên, việc sử
dụng đó là có giới hạn, phải tuân theo các điều kiện, thỏa thuận đà ký kết giữa
họ và ngời LĐXK, tuân theo các hiệp định chính phủ ký kết giữa nớc họ với nớc XKLĐ và phù hợp với các quy ớc, thông lệ quốc tế về lao động nhập c. Sau
thời hạn hợp đồng, ngời chủ sử dụng hết quyền sử dụng hàng hóa sức lao động

đó và phải trả ngời lao ®éng vỊ níc XKL§.


18

- Hoạt động XKLĐ có sự đa dạng về thị trờng, hình thức và chủng loại
hàng hóa. Đây là một thực tế phản ánh quá trình phân công lao động quốc tế
trong bối cảnh tự do hóa kinh tế và toàn cầu hóa, dới tác động của sự phát
triển mạnh mẽ của KHCN. Trong quá trình phát triển kinh tế, vì nhiều lý do
khác nhau, có nhiều ngành, lĩnh vực mà bản thân lực lợng lao động của mỗi nớc cũng không đáp ứng đợc, do đó có nhu cầu sử dụng LĐNN. Hơn nữa, trong
điều kiện tự do hóa kinh tế và tác động của các quy luật kinh tế, ngời lao động
sẽ di chuyển từ nơi d thừa lao động, thu nhập thấp đến nơi thiếu hụt lao động,
thu nhập cao. Đặc biệt, ở nhiều nớc, nhất là các nớc đang và chậm phát triển,
sự di chuyển này đợc thúc đẩy mạnh mẽ bởi các chính sách của chính phủ, coi
việc đa lao động ra nớc ngoài làm việc bằng nhiều hình thức khác nhau là một
hớng đi để góp phần giải quyết vấn đề việc làm trong nớc, tăng thu nhập ngoại
tệ cho quốc gia. Quá trình ®ã ®· t¹o ra sù ®a d¹ng trong ho¹t ®éng XKLĐ:
diễn ra ở tất cả các nớc, khu vực trên thế giới, không chỉ đơn thuần hớng từ
các nớc đang và chậm phát triển sang các nớc phát triển mà còn có chiều ngợc
lại, hoặc giữa các nớc có cùng trình độ phát triển, dới nhiều hình thức khác
nhau, bao gồm nhiều loại lao động có trình độ khác nhau, làm việc trong
nhiều lĩnh vực khác nhau theo nhu cầu của các nớc tiếp nhận. Do đó, quá trình
này đà tạo ra tình trạng một nớc vừa XKLĐ loại này nhng vẫn phải NKLĐ
loại khác.
Tuy nhiên, dòng XKLĐ từ các nớc phát triển sang các nớc kém phát
triển hơn thờng gắn liền với các hiệp định chính phủ, các hoạt động đầu t, thơng mại, các công trình thầu khoán của các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia
của các nớc phát triển. Đây là sự di chuyển của dòng lao động chất lợng cao,
có trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao nh các chuyên gia, các nhà
quản lý, kỹ thuật viên cao cấp, sức lao động của họ đợc định ở mức giá cao
hay có mức lơng luôn lớn hơn so với mức lơng của ngời lao động bản xứ,

thậm chí trong cùng một công việc, do đó, giá trị XKLĐ của các nớc phát
triển thờng cao h¬n.


19

- Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền
thống, văn hóa, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc. Sức lao động
bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh thần, vì thế ngời lao động luôn mang trong
mình các yếu tố thuộc về đạo đức, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán...
của một quốc gia, dân tộc và chúng đợc di chuyển cùng ngời lao động sang nớc NKLĐ. Ngời LĐXK, để sống và làm việc ở nớc NKLĐ, buộc phải thích
nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, pháp luật, thói
quen sinh hoạt và làm việc,... của nớc sở tại, do đó tạo ra sự trao đổi, hiểu biết
về các yếu tố đó giữa ngời LĐXK và ngời dân bản địa. Vì vậy, hoạt động
XKLĐ cũng là một nhân tố thúc đẩy giao lu văn hóa và hợp tác hữu nghị giữa
nớc XKLĐ và nớc NKLĐ.
1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.2.1. Sự hình thành hoạt động XKLĐ
Hoạt ®éng kinh tÕ cđa bÊt cø mét qc gia nµo cũng luôn phải tính đến
nguồn nhân lực, trong đó vấn ®Ị chÝnh lµ sù d thõa lao ®éng ë trong níc. Tríc
søc Ðp vỊ viƯc lµm, tû lƯ thÊt nghiƯp và thu nhập, việc XKLĐ để giảm các sức
ép này và thu ngoại tệ là một yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, hoạt động
XKLĐ không nhất thiết phải từ các nớc d thừa lao động. Một số nguyên nhân
cơ bản dẫn đến sự hình thành hoạt động XKLĐ là:
- Sự phát triển không đều giữa các quốc gia trên thế giới. Các nớc trên
thế giới ngày càng có xu hớng phát triển cao dựa trên nền tảng KHCN tiên
tiến và có những cải tiến vợt bậc trong các lĩnh vực cơ khí hóa và tự động hóa.
Trong điều kiện tự do kinh tế, các nớc, nhất là các nớc phát triển, đều không
ngừng đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để nâng cao năng lực sản
xuất và hiệu quả của nền kinh tế, tăng cờng khả năng cạnh tranh của quốc gia.

Quá trình này đà dẫn đến hiện tợng, ở nhiều ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế
của một quốc gia nào đó, đôi khi chính lực lợng lao động của nớc đó cũng
không đáp ứng đợc, do vậy có nhu cầu sử dụng lao động từ níc ngoµi. Trong


20

khi đó, ở một số nớc khác, thờng là các nớc đang và chậm phát triển, nớc
nghèo nhng đông dân, có mức tiền công lao động thấp, thờng xuyên d thừa lao
động, đà nảy sinh nhu cầu cung ứng lao ®éng cho nh÷ng níc thiÕu lao ®éng.
Tõ mèi quan hƯ cung và cầu về lao động đó tất yếu dẫn đến hoạt động XKLĐ
giữa các quốc gia.
- Sự phân bổ tài nguyên không đồng đều giữa các nớc trên thế giới.
Những nớc có ít tài nguyên thiên nhiên bị thiếu hụt nguyên, nhiên, vật liệu
trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhất là các nớc phát triển, phải
tìm kiếm từ nớc khác. Một số nớc đà trở thành khách hàng của các nớc nhiều
tài nguyên (dầu mỏ, than đá, khoáng sản...), trong khi các nớc nhiều tài
nguyên này lại rất cần kỹ thuật, vốn đầu t, lao động từ các nớc phát triển hơn
để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Chính mối quan hệ này đà nảy
sinh các nhu cầu lao động phục vụ cho các dự án khai thác tài nguyên và phát
triển kinh tế này, từ đó thúc đẩy khuyến khích một cách không tự giác việc
XKLĐ trong các nớc có d thừa lao động.
- Sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ đà đẩy nhanh quá trình chuyên môn hóa sản
xuất và phân công lao động ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế, hình thành lên
các ngành nghỊ, lÜnh vùc míi trong nỊn kinh tÕ dùa trªn các kỹ thuật, công
nghệ cao ở nhiều nớc. ở các nớc phát triển, sự tập trung các nguồn lực vào
phát triển các ngành, lĩnh vực mới, có lợi nhuận cao một mặt dẫn tới sự thiếu
hụt lao động ở các ngành kinh tế truyền thống sử dụng nhiều lao động, thậm
chí ở cả những ngành, lĩnh vực mới do sự phát triển của các ngành này vợt quá

khả năng cung cấp nhân lực của nớc đó, do đó các nớc này có nhu cầu sử
dụng LĐNN; mặt khác, lại có nhu cầu đa một số lao động trong nớc theo các
dự án chuyển giao các công nghệ (cũ) sang các nớc khác. ở các nớc đang và
chậm phát triển, việc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hớng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), thực hiện chuyên môn hóa và
phân công lao động quốc tế một mặt tạo ra sự d thừa lao động, thiếu viƯc lµm


21

trong nền kinh tế, do đó có nhu cầu đa lao động sang các nớc khác làm việc.
Mặt khác, lại cần lao động chất lợng cao từ nớc ngoài vào làm việc trong các
lĩnh vực sử dụng nhiều chất xám, hoặc theo các dự án tiếp nhận công nghệ từ
nớc ngoài mà lao động trong nớc cha đáp ứng đợc. Dới tác động của các quy
luật kinh tế các quá trình trên tất yếu dẫn đến sự trao đổi lao động để đáp ứng
các nhu cầu về lao động giữa các nớc, hình thành lên hoạt động XKLĐ.
- Quá trình toàn cầu hóa và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs). Quá trình toàn cầu hóa đà thúc đẩy mạnh mẽ sự di chuyển của các
dòng đầu t và thơng mại giữa các quốc gia, kéo theo sự di chuyển của ngời lao
động. Tác động của quá trình này cũng thúc đẩy ngời lao động có xu hớng di
chuyển tới làm việc ở những nơi có thu nhập cao hơn, sức lao động đợc định
giá cao và xác thực hơn. Xu hớng này đà kéo theo sự tham gia của các tổ
chức, doanh nghiệp làm trung gian để ®a ngêi lao ®éng ®i lµm viƯc ë níc
ngoµi, vµ để đảm bảo đợc quyền lợi của các bên tham gia cũng nh giữ đợc trật
tự an toàn xà hội, đến lợt nhà nớc phải trực tiếp tham gia vào hoạt động này.
Việc TNCs bành trớng hoạt động ra phạm vi toàn cầu đà thúc đẩy
mạnh mẽ sự phân công lao động và quá trình tái cơ cấu kinh tế ở các quốc gia,
làm nảy sinh nhu cầu trao đổi lao động giữa các nớc. Một mặt, việc đẩy nhanh
quá trình tích tụ và tập trung t bản để thực hiện sự bành trớng kinh tế của
TNCs đà thúc đẩy việc tìm kiếm nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào giá rẻ từ

các nớc khác, trong đó có sức lao động, do đó tạo ra sự di chuyển lao động
giữa các nớc, nhất là từ các nớc nghèo, đông dân sang các nớc giàu hơn. Mặt
khác, quá trình tái cơ cấu TNCs ở các quốc gia cũng thúc đẩy sự di chuyển lao
động từ nớc này sang nớc khác. Việc hình thành các chi nhánh, công ty con
của TNCs để thực hiện chuyên môn hóa trong hệ thống sản xuất kinh doanh
của TNCs đà tạo ra các nhu cầu lao động khác nhau ở các nớc khác nhau. Một
sản phẩm hàng hóa của một công ty ở một nớc nào đó không nhất thiết phải đợc sản xuất tại chính nớc đó, do vậy, tự nó phát sinh các nhu cầu lao động kỹ
thuật nh nhau, tất yếu phải có trao đổi lao động kỹ thuật và chuyên gia giữa các


22

nớc. Do đó, sự di chuyển lao động từ nơi này đến nơi khác tất yếu xảy ra, làm
xuất hiện hoạt động XKLĐ giữa các nớc.
1.1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh hởng của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách
phát triển của cả nớc XKLĐ và nớc NKLĐ, đồng thời có tác động trở lại đối
với nền kinh tế - xà hội của các nớc này. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trờng, hoạt động XKLĐ chịu tác động của một số yếu tố sau:
- Quan hệ cung - cầu về lao động: Từ thực trạng hoạt động xuất và
nhập khẩu lao động của các nớc trên thế giới cho thấy, một nớc phải sử dụng
LĐNN khi nguồn lao động trong nớc không đáp ứng đợc cho nhu cầu phát
triển kinh tế của nớc đó. Sự thiếu hụt một hay nhiều loại lao động của một nớc
nào đó không chỉ do thiếu dân số mà còn do không đủ lực lợng lao động có đủ
kỹ năng cần thiết để đảm nhận công việc, hoặc đơn giản chỉ do ngời lao động
nớc đó không sẵn sàng làm việc. Điều này thể hiện rất rõ ở các nớc phát triển,
trờng hợp Nhật Bản và Hàn Quốc là ví dụ điển hình ở châu á. Bên cạnh đó, do
thị trờng lao động là một bộ phận không thể tách rời với chu kỳ kinh tế, vì thế
sự tăng trởng hay suy thoái, khủng hoảng hay phục hồi của một nền kinh tế
cũng có những tác động tới nhu cầu lao động trong nền kinh tế, có thể tạo ra

việc làm cho ngời lao động hay cũng có thể làm giảm bớt số việc làm cho họ.
Trong những điều kiện nh vậy, nhu cầu về lao động và khả năng cung ứng ở
các nớc có tác động rất lớn tới hoạt động XKLĐ trên phạm vi quốc tế. Thực
trạng quan hệ cung - cầu về lao động là cơ sở để một quốc gia quyết định
NKLĐ hay XKLĐ, xác định số lợng lao động, cơ cấu ngành nghề, loại lao
động cần nhập khẩu hay có thể xuất khẩu. Sự phù hợp giữa nhu cầu lao động
của nớc NKLĐ và khả năng cung ứng của nớc XKLĐ là yếu tố quyết định
đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia.


23

Trình độ phát triển kinh tế và KHCN là yếu tố có tác động mạnh mẽ
tới quan hệ cung - cầu về lao động giữa các nớc, quyết định loại hình và số lợng lao động mà một nớc sẽ nhập khẩu hay xuất khẩu. Các nớc có trình độ
công nghệ tiên tiến nh Mỹ, Đức, Nhật Bản thực hiện các chính sách khuyến
khích và u đÃi để thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao từ các
nớc khác, hạn chế tuyển dụng lao động phổ thông, trong khi những nớc có
trình độ kém hơn nh Đài Loan lại nhập khẩu nhiều loại lao động đáp ứng các
nhu cầu lao động bị thiếu hụt trong nớc, phần lớn là lao động có trình độ kỹ
thấp, lao động phổ thông; hoặc nh Malaysia, Thái Lan lại vừa xuất khẩu và
nhập khẩu lao động phổ thông, lao động giản đơn.
- Sự cạnh tranh: Thị trờng lao động quốc tế vừa là thị trờng tự do cạnh
tranh, vừa là thị trờng cát cứ giữa các quốc gia. Do đó, hoạt động XKLĐ vừa
diễn ra sự hợp tác giữa các nớc vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là
yêu cầu bắt buộc, yếu tố cạnh tranh đảm bảo cho sự sống còn của hoạt động
XKLĐ. Sự cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp
XKLĐ của một nớc XKLĐ, hay của các nớc XKLĐ, thậm chí giữa các nhà nớc của các quốc gia XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua số lợng hợp đồng
XKLĐ, cơ chế quản lý lao động ở nớc ngoài, mức lơng, sự đa dạng về ngành
nghề, trình độ, kỹ năng lao động, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại
nơi làm việc, khả năng thích nghi về văn hóa, khả năng giao tiếp của ngời

lao động. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh giữa LĐXK với lao động bản địa về
việc làm ở nớc NKLĐ. Do sự cạnh tranh này, công đoàn tại các nớc NKLĐ thờng tạo sức ép với chính phủ để hạn chế số lợng LĐNN đợc tiếp nhận vào làm
việc.
- Chất lợng lao động: Chất lợng hàng hóa sức lao động đợc xem xét dới góc độ là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao động của ngời lao động
nh thĨ lùc, trÝ lùc, c¸c mèi quan hƯ x· héi của ngời lao động có ảnh hởng tới
năng lực làm việc của ngời lao động ở nớc NKLĐ. Chất lợng lao động phải


24

đảm bảo đợc việc tạo ra giá trị tăng thêm trong thời gian sử dụng sức lao động
đó, bảo đảm cho ngời lao động duy trì và tái tạo sức lao động, phát huy đợc
các khả năng sáng tạo, đảm bảo đợc cờng độ lao động, tạo đợc nhiều giá trị
thặng d cho ngời chủ sử dụng. Yếu tố này có tác động quan trọng tới quyết
định của chủ sử dụng về quy mô tuyển dụng LĐNN. Chính vì vậy, chất lợng
lao động là yếu tố căn bản quyết định khả năng cạnh tranh và lợi thế trong
việc chiếm lĩnh thị trờng XKLĐ, đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động
XKLĐ.
- Các chính sách, pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều
ngời, nhiều tổ chức, liên quan đến nớc XKLĐ và nớc NKLĐ, liên quan đến
các tổ chức quèc tÕ nh Tæ chøc di c quèc tÕ (IOM), Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), do đó nó chịu tác động mạnh mẽ của môi trờng chính trị, pháp luật và
chính sách của chính phủ cả nớc XKLĐ và nớc NKLĐ cũng nh luật pháp quốc
tế.
Hoạt động XKLĐ của mét qc gia lu«n cã sù tham gia cđa chÝnh
phđ nớc đó nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, hoạt động
XKLĐ chịu tác động trực tiếp từ chủ trơng và các chính sách, biện pháp
quản lý, điều tiết của chính phủ nớc XKLĐ. Các văn bản, chính sách đó có
thể khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XKLĐ nhng cũng
có thể gây khó khăn, cản trở hoạt động này. Trong khi ®ã, bÊt cø mét sù ®iỊu

chØnh trong chÝnh s¸ch tiÕp nhận LĐNN, những quy định, điều kiện nhập c,
thậm chí những thay đổi trong chính sách đầu t, tái cơ cấu kinh tế, chính
sách đối ngoại... của chính phủ các nớc NKLĐ đều có những tác động có thể
làm thay đổi nhu cầu LĐNN ở nớc NKLĐ, thậm chí trở thành rào cản hạn
chế số lợng lao động nhập khẩu, do đó làm thay đổi mức cung ứng lao động
của nớc XKLĐ. Ví dụ, Hàn Quốc cho phép Việt Nam tham gia đa lao động
vào Hàn Quốc làm việc Luật cấp phép cho LĐNN mới đà làm cho chỉ tiêu
lao động Việt Nam đợc tiếp nhận vào nớc này trong năm 2005 tăng hơn


25

3.000 ngời so với năm 2004; Đài Loan quyết định ngừng tiếp nhận lao động
giúp việc gia đình và chăm sóc ngời bệnh từ Việt Nam đà cản trở việc tăng
số lợng LĐXK của Việt Nam vào thị trờng này và làm cho hơn 30 doanh
nghiệp XKLĐ của Việt Nam bị đình chỉ hoặc tạm dừng hoạt động XKLĐ
vào Đài Loan. Sự thay đổi chính sách đầu t của chính phủ Malaysia trong
lĩnh vực xây dựng làm cho hàng trăm LĐXK Việt Nam ở nớc này bị mất việc
làm phải về nớc sớm hoặc phải chuyển làm các công việc khác vào đầu năm
2003,...
- Các yếu tố truyền thống văn hóa và con ngời: Các chính sách tuyển
dụng LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ
các giá trị truyền thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì
vậy, một quốc gia sẽ có chủ trơng u đÃi hơn đối với lao động đến từ các nớc
có nền văn hóa tơng tự (về tôn giáo, phong tục tập quán, về ngôn ngữ).
Hơn nữa, thị trờng thực chất là sự kết hợp của con ngời và nền văn hóa của
thị trờng đó. Vì thế, một số thị trờng lao động có thể tạo ra rất nhiều cơ hội
đối với một loại việc làm cho LĐNN do tính chất riêng có của thị trờng ấy
hoặc đơn thuần chỉ vì thị trờng đó không có đủ lao động có khả năng đảm
nhận công việc đó. Ví dụ, ở châu Âu, Nhật Bản nhu cầu về y tá là rất lớn gắn

liền với sự già hóa dân số ở các nớc này, nhng các nớc ở Trung Đông lại ít
khi có ý định thuê nữ y tá chăm sóc cho bệnh nhân nam; hoặc ở những nớc
mà phụ nữ tham gia tích cực vào lực lợng lao động hoặc đấu tranh để khẳng
định quyền bình đẳng về việc làm, thu nhập, trình độ và địa vị trong xà hội
nh Đài Loan thì nhu cầu về ngời giúp việc gia đình, trông trẻ và chăm sóc
ngời già cũng cao hơn. Điều này cũng có tác động nhất định về số l ợng,
ngành nghề, loại lao động trong việc cung ứng lao động của nớc XKLĐ.
1.1.2.3. Các hình thức XKLĐ
Theo cách tổ chức thực hiện, XKLĐ có một số hình thức chủ yếu sau:


×