Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

skkn cách thức tổ chức một giờ tập làm văn luyện nói để đạt hiểu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 31 trang )



1
KINH NGHIỆM DẠY TIẾT TẬP LÀM VĂN
LUYỆN NÓI
  

TRÌNH TỰ TRÌNH BÀY SÁNG KIẾN

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

II. YÊU CẦU VÀ THỰC TRẠNG DẠY TIẾT LUYỆN NÓI THCS:

1. YÊU CẦU:( theo phân phối chương trình và theo chuẩn kiến thức).
2. THỰC TRẠNG:
a. Với học sinh:
b. Với giáo viên:

III. TRÌNH BÀY KINH NGHIỆM DẠY TIẾT LUYỆN NÓI Ở THCS:
A. GIỚI THIỆU TRÌNH TỰ CHUNG (cho tất cả các khối lớp: (6,7,8,9).

1. Hình thức 1: Nói theo nhóm.

 Bước 1: Chuẩn bị.
 Bước 2: Trình bày.
 Bước 3: Tổng hợp điểm.
 Bước 4: Nhận xét chung.
 Bước 5: Bảng điểm của từng cá nhân trong nhóm.

2. Hình thức 2: Nói cá nhân.( Theo 5 bước trên)


B. MINH HỌA ( Hai tiết dạy theo hai hình thức đã trình bày)
1. Hình thức: Nói theo nhóm.
Bài : Luyện nói: Tự sự kết hợp nghị luận và miêu tả nội tâm ( Lớp 9)

2. Hình thức : Nói cá nhân:
Bài : Luyện nói : Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học ( Lớp 7).

IV. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

V. KẾT LUẬN.

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÁC CẤP .
  


2
KINH NGHIỆM DẠY TIẾT TẬP LÀM VĂN
LUYỆN NÓI

  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :

Nói , chỉ một từ thôi nhưng chứa đựng trong đó biết bao ý nghĩa .“Trẻ lên ba cả
nhà học nói” - tiếng bập bẹ đầu đời của con trẻ khiến cả nhà cùng vui… Theo năm
tháng, đời một con người có bao điều cần nói : Nói lời kính trọng, nói tiếng yêu
thương, nói những nghĩ suy, nói lời chia sẻ , nói tiếng phản bác nói chữ đồng
tình…Nói thực sự là ngôn ngữ giao tiếp không thể thiếu trong đời sống con ngƣời.
Cho dù khoa học kĩ thuật có phát triển cao đến mấy thì khả năng nói – khả năng tự
diễn đạt của con người vẫn vô cùng cần thiết. Nó hiện diện trong tất cả các mối quan

hệ xã hội ; nó là phương tiện, là cách thức biểu đạt : suy nghĩ, ý tưởng , tình cảm…
của con người. Điều đó không máy móc nào có thể thay thế được.
Thực tế cho thấy nếu con người được sống trong môi trường xã hội và không có
những dị tật về các bộ phận phát âm thì đều nói được. Nhưng nói làm sao cho “ lọt
đến xương”; nói làm sao cho “mát lòng mát dạ” ; nói làm sao cho người nghe “vừa
lòng”, cho “kiến trong lỗ cũng phải bò ra” … thì không phải chuyện dễ dàng. Muốn
như vậy thì cần phải “học cách nói” và không chỉ có trẻ lên ba học nói mà cần phải
xác định “học cách nói ” là một việc làm thƣờng xuyên , liên tục có khi đến hết cả
cuộc đời.
Là giáo viên dạy Ngữ văn nên tôi hiểu năng lực viết, ngôn ngữ viết đương nhiên
là quan trọng song đó là ngôn ngữ trìu tượng chỉ có chữ viết, không có yếu tố khác
bổ trợ; còn ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu sống động
có sức truyền cảm trực tiếp , có sự phối hợp biểu đạt của tư thế, nét mặt, âm lượng và
có sự giao cảm trực tiếp giữa người nói và người nghe. Nắm vững ngôn ngữ này sẽ
làm cho con ngƣời có thêm một công cụ sắc bén trong xã hội. Ý thức được điều
quan trọng ấy, ngay từ khi mới vào nghề, trong quá trình soạn , giảng, cho học sinh
thực hành hay trong quá trình kiểm tra… tôi luôn luôn suy nghĩ và tìm mọi cách để
hướng tới rèn luyện và phát huy khả năng nói - khả năng tự diễn đạt cho các em.


3
Hơn hai mươi năm đã trôi qua, khoảng thời gian không phải là ngắn để tôi có
thể kiểm nghiệm , thẩm định lại những cách thức mà mình đã vận dụng và nhìn lại kết
quả đạt được từ những cách thức ấy. Có cách không mang lại hiệu quả nhất định,
song cũng có rất nhiều cách đã trở thành kinh nghiệm nằm trong hành trang nghề
nghiệp, giúp tôi vững tin hơn trên con đường thực hiện nhiệm vụ giáo dục của
mình.Trong rất nhiều cách đã trở thành kinh nghiệm, tôi nhận thấy có cách : Tổ chức
cho học sinh luyện nói - rất đơn giản nhưng lại rất vui, rất hấp dẫn và đặc biệt là rất
hiệu quả . Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày cụ thể cách thức tổ chức một giờ tập
làm văn luyện nói để đạt hiệu quả cao .


II. YÊU CẦU VÀ THỰC TRẠNG DẠY TIẾT LUYỆN NÓI:

1. YÊU CẦU:
Theo phân phối chƣơng trình, từ lớp 6 đến lớp 9 các em đều có tiết tập làm văn
luyện nói. Cụ thể là:
 Lớp 6 ( 3 tiết )
- Luyện nói : văn kể chuyện.
- Luyện nói : quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
- Luyện nói : văn miêu tả.
 Lớp 7: ( 2 tiết )
- Luyện nói : văn biểu cảm về sự vật, con người.
- Luyện nói : phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
 lớp 8: ( 2 tiết )
- Luyện nói: kể chuyện theo ngôi kể kết hợp miêu tả biểu cảm.
- Luyện nói : thuyết minh về một thứ đồ dùng.
* Lớp 9: ( 2 tiết )
- Luyện nói: tự sự kết hợp nghị luận, miêu tả nội tâm.
- Luyện nói : nghị luận bài thơ, đoạn thơ.
Tất cả các tiết luyện nói trên, đòi hỏi các em phải nắm vững các đơn vị kiến thức
có liên quan đồng thời phải biết diễn đạt trôi trảy, gãy gọn, biểu cảm, sinh động trước
tập thể và biết vận dụng kết hợp các yếu tố phi ngôn ngữ.


4
Như vậy luyện nói trong nhà trường là để nói về môi trường giao tiếp khác môi
trường sinh hoạt hàng ngày. Bài luyện nói là để học cho học sinh tập nói, tập trình
bày trƣớc tập thể một nội dung nào đó bằng lời của mình qua đó rèn luyện cho các
em khả năng diễn đạt, sự tự tin vào bản thân mình.
Cả ba khối lớp chỉ có 9 tiết luyện nói. Số lượng tiết luyện nói trong chương trình

thực sự còn quá ít. Nhưng dù sao đây cũng vẫn là điều kiện thuận lợi để các em luyện
tập khả năng diễn đạt của mình.

2. THỰC TRẠNG:

a. Với học sinh:
- Luyện nói trong nhà trƣờng là để nói theo chủ đề, những vấn đề không quen
thuộc như trong giao tiếp hàng ngày lại yêu cầu có mạch lạc, liên kết, không
được nói tùy tiện. Đứng trước môi trường này nhiều học sinh thường ngày biết
ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu.
- Có một thực tế là càng lên lớp lớn, các em càng ngại nói, ngại phát biểu trước
tập thể . Biết cũng không nói. Có nhiều em lên bục giảng đứng nói mà không
dám nhìn xuống lớp, tay chân như thừa thãi, vụng về…
- Có em ấp úng một chút rồi không thể nói tiếp được nữa.
- Cá biệt còn có những trường hợp không nói được một ý nào; không biết dùng
từ, sắp xếp từ để biểu đạt ý nghĩ.
- Đa phần các em nói như viết ( đúng hơn là viết ra giấy học thuộc rồi nói như
đọc ) vì thế mà thiếu tự nhiên không đúng ngữ điệu nói, không kết hợp được các
yếu tố phi ngôn ngữ dẫn đến bài nói không thuyết phục, không có hiệu quả cao.

b. Với giáo viên :
Qua thông tin từ học sinh và qua tiết dự giờ tập làm văn luyện nói, tôi nhận
thấy tiết tập làm văn luyện nói thực sự chƣa đƣợc nhiều giáo viên quan tâm.
- Có tiết tập làm văn luyện nói, giáo viên cho học sinh cả lớp ngồi viết bài hết
quá nửa tiết sau đó cho một vài học sinh đứng tại chỗ cầm giấy đọc bài.
- Giáo viên không dặn các em chuẩn bị trước nội dung nói và tập luyện nói ở
nhà nên chất lượng tiết luyện nói chưa cao.


5

Từ nhu cầu cần thiết của nói trong thực tế, từ yêu cầu của các tiết tập làm văn
luyện nói trong chương trình và từ thực trạng trên, tôi tự thiết kế cho mình một
tiết dạy tập làm văn luyện nói. Sau đây tôi sẽ tình bày cụ thể kinh nghiệm tổ chức
một giờ tập làm văn luyện nói để đạt hiệu quả cao.

III. TRÌNH BÀY KINH NGHIỆM DẠY TIẾT LUYỆN NÓI :

A. GIỚI THIỆU TRÌNH TỰ CHUNG (Cho tất cả các khối lớp: (6,7,8,9).

1. Hình thức 1: Nói theo nhóm.( theo tổ )

 Bƣớc 1: Chuẩn bị .( chuẩn bị trƣớc tiết luyện nói)
Do thời lượng của tiết luyện nói chỉ có 45 phút vì vậy tôi giao công việc cho các
em chuẩn bị trƣớc để tiết luyện nói thực sự có hứng thú và đạt hiệu quả cao.
Chuẩn bị là bƣớc cực kì quan trọng. Tôi dặn các em từ tiết trước để các em có
thời gian chuẩn bị. Chuẩn bị tốt các em mới có hứng thú, có tâm thế vào cuộc. Để
làm tốt khâu này tôi phổ biến trƣớc cách thức thực hiện tiết luyện nói và thực
hiện chuẩn bị theo theo trình tự sau:
- Giáo viên chuẩn bị sẵn số lƣợng đề bài tương ứng với số lượng tổ ( hay nhóm)
trong mỗi lớp; cho các tổ trưởng lên bốc thăm đề ; giáo viên ghi lại đề của mỗi
tổ.( khoảng 5 tổ là vừa)
- Yêu cầu tổ trƣởng thông báo đề bài cho tổ, tổ tự thu xếp thời gian để cùng
làm việc nhóm : thảo luận nội dung nói theo yêu cầu; cử đại diện tổ trình bày
trong giờ luyện nói trên lớp (cũng có thể chọn nói theo hình thức tiếp sức : mỗi
người nói một phần ) ; yêu cầu học sinh đại diện, nói trước trong tổ để cả tổ
cùng chỉnh sửa cách thức thể hiện ( ví dụ: chỉnh sửa :giọng điệu, cử chỉ, nét
mặt…); tổ trưởng ghi nhận mức độ, thái độ tham gia thảo luận của từng người
trong tổ để sau có căn cứ cho điểm).
- Thành lập trƣớc một ban giám khảo:
Đây cũng là một hình thức gây hứng thú cho các em trong giờ luyện nói. Ban giám

khảo gồm ban cán sự lớp và các cán sự môn văn.( nếu thành viên trong ban giám khảo
là đại diện tổ lên trình bày thì có thể thay học sinh khác) .Tôi giao nhiệm vụ cho các
em: đến giờ luyện nói ngồi lên dãy bàn đầu : nghe, quan sát và đánh giá thật khách


6
quan.( tôi sẽ phát phiếu cho các em cho điểm); hướng dẫn các em cho điểm theo hai
phần: Nội dung ( 6 điểm – theo yêu cầu của đề ), hình thức ( 4 điểm – gồm cách thức
trình bày : phải có lời giới thiệu ( thưa , tên…đại diện tổ…trình bày vấn đề…., khi
trình bày phải kết hợp tốt cử chỉ, nét mặt, giọng điệu…, cuối cùng phải có lời kết thúc,
cảm ơn người nghe, mong đóng góp ý kiến để bài nói sau sẽ tốt hơn…); giám khảo
chấm điểm độc lập, khách quan.
PHIẾU ĐIỂM
LỚP: …….
STT
TỔ
ĐIỂM
GHI CHÚ
NỘI
DUNG
HÌNH
THỨC
1
TỔ 1



2
TỔ 2




3
TỔ 3



4
TỔ 4



Giám khảo chấm
( Kí và ghi rõ họ tên)
 Bƣớc 2: Trình bày.
- Vào tiết, giáo viên mời ban giám khảo lên vị trí ( dãy bàn trên cùng)
- Dành khoảng 5 phút để nhắc lại yêu cầu cơ bản của tiết luyện nói, ghi trình tự
lên bảng và gọi các tổ trưởng lên bốc thăm thứ tự trình bày.
- Yêu cầu học sinh dưới lớp nghe, quan sát, tự ghi nhận ( để có căn cứ nhận xét),
vỗ tay chào mừng, động viên các bạn lên trình bày…
- Giáo viên xuống ngồi cuối lớp, quan sát và ghi nhận.
- Theo thứ tự, lần lượt các tổ lên trình bày ( không phải mời, gọi vì vậy không mất
thời gian và hứng thú không bị gián đoạn…)
- Mỗi tổ trình bày khoảng 7 phút.
 Bƣớc 3: Tổng hợp điểm.
- Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên tổng hợp điểm từ mỗi giám khảo
(công khai điểm của từng giám khảo trên bảng rồi cho học sinh nhận xét ( đồng
ý hay không đồng ý vói điểm của các giám khảo ( vì sao? )
- Tổ trưởng hay các thành viên trong tổ cộng và chia điểm cho tổ mình.
- Điểm của tổ sẽ là điểm trung bình cộng của các giám khảo.



7
Ví dụ : tổ 1
Giám khảo 1 : cho 7 điểm
Giám khảo 2: cho 8 điểm
Giám khảo 3: cho 9 điểm.
Giám khảo 4 : cho 6 điểm
 Lấy : 7 + 8 + 9 + 6 = 30
 Lấy : 30: 4 = 7.5 ( cho tròn 8 điểm)
 Điểm của tổ 1 sẽ là 8.

 Bƣớc 4: Nhận xét chung.

- Giáo viên nhận xét ưu điểm và hạn chế chung của tiết luyện nói.
- Khen ngợi ưu điểm và yêu cầu học sinh khắc phục hạn chế trong tiết sau.
- Có thể gọi một vài em phát biểu cảm nghĩ sau tiết luyện nói : Em học tập được
gì sau tiết luyện nói này ? Theo em cần phải làm như thế nào để bài nói có hiệu
quả cao hơn.

 Bƣớc 5: Bảng điểm của từng cá nhân trong nhóm. ( tổ trưởng thống
nhất cho điểm và nộp lạo cho giáo viên ).
Cách thống nhất điểm như sau:
- Có điểm chung của tổ, tổ trưởng và các thành viên bàn bạc thống nhất cho điểm
từng thành viên trong tổ theo mức độ và ý thức tham gia thảo luận. Phải thực
hiện công bằng theo quan điểm :
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho” .

Ví dụ : Điểm chung của tổ 1 là: 8.

- Em A, thảo luận nhiệt tình, có nhiều đóng góp hay trong quá trình xây dựng bài
nói hoặc nhận xét cách nói của tổ… Vì vậy em A sẽ được điểm cao nhất : 8
điểm.
- Em B cũng như em A …… , em B cũng đạt điểm cao nhất : 8 điểm


8
- Em C, cũng nhiệt tình như em A , B nhưng ý kiến chưa hay lắm cho nên em C
chỉ được 7 điểm.
- Em D, trong quá trình thảo luận còn thiếu tập trung, thờ ơ, ít ý kiến… , em D
chỉ dược 5 điểm.
- Em Đ, không tham gia thảo luận , em Đ sẽ bị điểm 0 .
Sau khi thống nhất điểm trong tổ xong, tổ trưởng ghi danh sách tổ cùng với số
điểm của từng bạn và nộp lại cho giáo viên để giáo viên vào sổ điểm cá nhân ( tôi
lấy vào điểm kiểm tra thƣờng xuyên ( tôi thường quy định rất nhiều con điểm
kiểm tra thường xuyên : điểm đọc văn bản, điểm khảo bài, điểm câu trả lời hay
trong phát biểu xây dựng bài, điểm sưu tầm tài liệu học tập, điểm chấm tập ghi bài,
điểm luyện nói , điểm bút vấn: 5 phút, 10 phút hay 15 phút… Cuối mỗi kì sẽ chọn
cho các em những điểm cao nhất để ghi vào cột điểm kiểm tra thường xuyên).

Trên đây là phần trình bày cách thức tiến hành một giờ tập làm văn luyện nói theo
nhóm. Sau đây tôi sẽ trình bày hình thức 2 : Nói cá nhân.

1.

Hình thức 2: Nói cá nhân.

 Bƣớc 1: Chuẩn bị. ( trƣớc tiết luyện nói)

Cũng như cách thức thực hiện hình thức 1, tôi dặn các em chuẩn bị thật kĩ để tiết

tập làm văn luyện nói đạt hiệu quả cao.
- Nói cá nhân nên tôi cho các em tự chọn đề để chuẩn bị. Tự chọn đề các em sẽ
dễ dàng hơn trong việc bày tỏ suy nghĩ, và ngôn ngữ nói.
- Tôi yêu cầu học sinh cả lớp phải chuẩn bị.
+ Chuẩn bị nội dung nói ( theo hướng lập dàn bài – định hướng nói…) .
+ Chuẩn bị cách thức nói ( giọng điệu, cử chỉ, điệu bộ…) . Tôi nói các em về nhà
thử tập làm diễn viên, ca sĩ…các em đứng trước gương và vừa nói vừa quan sát
cách bày tỏ cảm xúc, cử chỉ, điệu bộ của mình từ đó tự chỉnh sửa cho phù hợp với
nội dung nói.
 Bƣớc 2: Trình bày. ( Gần nhƣ trình tự nhƣ hình thức nói theo nhóm)

- Giáo viên mời ban giám khảo lên vị trí ( dãy bàn trên cùng)


9
- Dành khoảng 5 phút để nhắc lại yêu cầu cơ bản của tiết luyện nói, ghi trình tự
lên bảng và gọi ngẫu nhiên theo danh sách lớp tên học sinh sẽ trình bày. ( ví dụ
số 5, số 10, số 15, số 20, số 25, số 30, số 35, số 40…) . Một tiết khoảng 6 đến 7
em lên trình bày là vừa ( nếu nhanh thì có thể 8 đến 9 em).
- Yêu cầu học sinh dưới lớp nghe, quan sát, tự ghi nhận ( để có căn cứ nhận xét),
- Đề nghị học sinh vỗ tay chào mừng, động viên các bạn lên trình bày…
- Giáo viên xuống ngồi cuối lớp, quan sát và ghi nhận.
- Theo thứ tự, lần lượt từng học sinh lên trình bày ( không phải mời, gọi để không
mất thời gian và hứng thú không bị gián đoạn…)
- Mỗi em trình bày khoảng trên 5 phút.
 Bƣớc 3: Tổng hợp điểm. ( như hình thức 1)

 Bƣớc 4: Nhận xét chung.( như hình thức 1)

 Bƣớc 5: Điểm của cá nhân ( giáo viên đọc lại điểm trung bình của từng cá

nhân trình bày)

B. MINH HỌA : ( Hai bài dạy theo hai hình thức)

1. Hình thức: Nói theo nhóm.

Bài : Luyện nói: Tự sự kết hợp nghị luận và miêu tả nội tâm ( trang
179 sách Ngữ văn - Lớp 9, tập I.)

 Bƣớc 1: Chuẩn bị.
- Tôi chuẩn bị sẵn số lƣợng đề bài tƣơng ứng với số lƣợng tổ trong mỗi lớp :
Ví dụ : Lớp 93 có 5 tổ, tôi chuẩn bị 5 đề bài ( 2 đề trong tiết luyện nói trang 179
sách Ngữ văn - Lớp 9 và lấy thêm 3 khác.)
Đề 1 : Tâm trạng của em sau khi để xảy ra một việc có lỗi với bạn.( trang 179)
Đề 2 : Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam
Xương”của Nguyễn Dữ , hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện và bày tỏ
niềm ân hận. ( trang 179)
Đề 3 : Kể lại lời dạy bảo sâu sắc mà giản dị của người thân. ( tr. 161 Ngữ văn lớp
9)
Đề 4 : Kể lại cuộc gặp gỡ một nhân vật văn học mà em yêu thích. ( đề thêm)


10
Đề 5 : Chuyển nội dung bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt thành câu chuyện theo
lời kể của người cháu. ( đề thêm)
- Cho các tổ trƣởng lên bốc thăm đề ; giáo viên ghi lại đề của mỗi tổ.
Tổ 1: Đề 1 : Tâm trạng của em sau khi để xảy ra một việc có lỗi với bạn.
Tổ 2: Đề 5 : Chuyển nội dung bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt thành câu chuyện
theo lời kể của người cháu.
Tổ 3: Đề 3 : Kể lại lời dạy bảo sâu sắc mà giản dị của người thân.

Tổ 4: Đề 2: Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam
Xương”của Nguyễn Dữ, hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện và bày tỏ
niềm ân hận.
Tổ 5: Đề 4 : Kể lại cuộc gặp gỡ một nhân vật văn học mà em yêu thích.
- Yêu cầu tổ trƣởng thông báo đề bài cho tổ, tổ tự thu xếp thời gian để cùng
làm việc nhóm : thảo luận nội dung nói theo yêu cầu sau :
+ Lập đề cương ( không viết thành văn, chỉ nêu ra ý chính mà mình sẽ nói ) theo
yêu cầu của đề.
+ Có sử dụng các yếu tố nghị luận, miêu tả nội tâm, các hình thức đối thoại, độc
thoại.
- Tổ trƣởng cử đại diện tổ trình bày trong giờ luyện nói trên lớp (cũng có thể
chọn nói theo hình thức tiếp sức : Mỗi người nói một phần ) ; Yêu cầu học
sinh đại diện, nói trước trong tổ để cả tổ cùng chỉnh sửa cách thức thể hiện ( ví
dụ: giọng điệu, cử chỉ, nét mặt…); tổ trưởng ghi nhận mức độ, thái độ tham gia
thảo luận của từng người trong tổ để sau có căn cứ cho điểm).
- Thành lập ban giám khảo: Ban giám khảo gồm : 8 em.
 Bƣớc 2: Trình bày. ( theo hình minh họa)
- Vào tiết, giáo viên mời ban giám khảo lên vị trí ( dãy bàn trên cùng).


11

(Ban giám khảo lớp 93)
- Dành khoảng 5 phút để nhắc lại yêu cầu cơ bản của tiết luyện nói, ghi trình tự
lên bảng và gọi các tổ trưởng lên bốc thăm thứ tự trình bày.



( Giáo viên ghi trình tự lên bảng)


- Yêu cầu học sinh dưới lớp nghe, quan sát, tự ghi nhận ( để có căn cứ nhận xét),
vỗ tay chào mừng, động viên các bạn lên trình bày…
- Giáo viên xuống ngồi cuối lớp, quan sát và ghi nhận.



12


( Học sinh nghe - giáo viên ngồi cuối lớp quan sát, ghi nhận)

- Theo thứ tự, lần lƣợt các tổ lên trình . Mỗi tổ trình bày khoảng 7 phút.


( Em Hồng Nhung - học sinh 93 - đại diện tổ 1 trình bày)



13


( Em: Quang Trung - Đại diện tổ 2 trình bày )



( Em: Thiên An - Đại diện tổ 3 trình bày - em
đang giả điệu bộ và giọng nói của bà)




( Em : Ngọc Yến – đại diện tổ 4 trình bày)


14



( Em: Hà Phương – Đại diện tổ 5 trình bày)



( Giáo viên, học sinh rất hào hứng sau mỗi lần trình bày )



( Học sinh rất tự tin khi lên trình bày)


15



( Ban giám khảo nghe, quan sát)
 Bƣớc 3: Tổng hợp điểm
- Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên tổng hợp điểm từ mỗi giám khảo (
công khai điểm của từng giám khảo trên bảng )

( Giáo viên tổng hợp điểm từ mỗi giám khảo)




( Học sinh hồi hộp, hào hứng sau mỗi lần giám khảo công bố điểm)


16




( Giáo viên tổng hợp xong điểm của từng tổ)

 Bƣớc 4: Nhận xét chung.
Trong phần nhận xét chung, tôi khen các em nhiều hơn chê.
+ Khen các tổ chuẩn bị tốt, khen học sinh lên trình bày tự tin, có kết hợp biểu cảm.
+ Đặc biệt là khen cách trình bày của đại diện tổ 3, rất tốt, rất có hiệu quả. ( Sau
phần tự giới thiệu, em bắt đầu bằng một câu hỏi mà ngay cả tôi cũng bất ngờ: “
Xin cho em hỏi : Cô và các bạn ngồi đây đã ai từng sống với bà thì giơ tay lên ạ ?
” , theo dòng cảm xúc trong câu hỏi của em, tôi cũng giơ tay, bởi chính tôi cũng có
những năm tháng sống bên bà nội yêu thương. Sau câu hỏi, em mở đầu bài nói rất
tự nhiên. Rất đáng khen.
+ Khen ban giám khảo làm việc nghiêm túc, công minh.

(Cả rừng cánh tay giơ lên khi em Thiên An


17
đại diện tổ 3 hỏi : “ …ai đã từng được sống với bà ” ?).
 Bƣớc 5: Bảng điểm của từng cá nhân trong nhóm.

( Điểm của từng cá nhân đã thống nhất trong tổ )


2. Minh họa hình thức : Nói cá nhân:

Bài : Luyện nói : Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học (Trang
154 - Ngữ văn - Lớp 7-Tập I.).

 Bƣớc 1: Chuẩn bị.

- Tôi cho đề tự do : Phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ mà em yêu thích trong
chương trình ngữ văn lớp 7 tập I. ( không chọn lại dàn bài mẫu sách Ngữ văn
7 trang 154).
- Yêu cầu học sinh cả lớp chuẩn bị.
+ Lập đề cương ( không viết thành văn, chỉ nêu ra ý chính mà mình sẽ nói ) theo
yêu cầu của đề. > ( dựa vào dàn bài mẫu trang 154 để lập dàn ý nói)
+ kết hợp các yếu tố : giọng điệu, cử chỉ, nét mặt…bổ sung cho lời nói.
- Thành lập ban giám khảo: gồm 6 học sinh

Bƣớc 2: Trình bày. ( theo hình minh họa)
- Giáo viên mời ban giám khảo lên vị trí ( dãy bàn trên cùng).



18

( Ban giám khảo lớp 77 )

- Dành khoảng 5 phút để nhắc lại yêu cầu cơ bản của tiết luyện nói, ghi trình tự
lên bảng .
- Gọi ngẫu nhiên theo danh sách lớp tên học sinh sẽ trình bày:
+ Số 1 : Trâm Anh.

+ Số 5 : Tùng Dương.
+ Số 10 : Thu Hồng.
+ Số 15 : Hữu Khoa.
+ Số 20 : Kiều Oanh.
+ Số 25 : Văn Tài.
+ Số 30 : Nhật Thanh.
+ Số 35 : Phan Thiết.
+ Số 40 : Thái Thị Yến.
- Yêu cầu học sinh dưới lớp nghe, quan sát, tự ghi nhận. ( để có căn cứ nhận xét),
vỗ tay chào mừng, động viên các bạn lên trình bày…
- Giáo viên xuống ngồi cuối lớp, quan sát và ghi nhận.
- Theo thứ tự, lần lượt từng học sinh lên trình bày. Mỗi em trình bày gần 5 phút.



19


( Trâm Anh : Phát biểu cảm nghĩ bài thơ “ Cảnh khuya ”của Hồ Chí Minh )





Tùng Dƣơng: Cảm nghĩ về bài thơ “ Bạn đến chơi nhà”- Nguyễn Khuyến )


20



(Thu Hồng: cảm nghĩ về bài thơ “ Bài ca Côn Sơn” – Nguyễn Trãi)



( Hữu Khoa - cảm nghĩ về bài thơ “ Bánh trôi nƣớc”- Hồ Xuân Hƣơng.)



( Kiều Oanh - cảm nghĩ về bài thơ “ Tiếng gà trƣa”- Xuân Quỳnh).


21


( Văn Tài - Cảm nghĩ về bài thơ “ Nam quốc sơn hà” – Lí Thƣờng Kiệt)





( Nhật Thanh - Cảm nghĩ về bài thơ “ Cảnh khuya”- Hồ Chí Minh)



( Phan Thiết - Cảm nghĩ về bài thơ “ Tiếng gà trƣa” - Xuân Quỳnh )


22




( Thái Thị Yến : Cảm nghĩ về bài thơ “ Qua Đèo Ngang ”
của Bà huyện Thanh Quan ).



( Giáo viên và học sinh chăm chú lắng nghe)


( Học sinh vỗ tay tán thƣởng khi thấy bạn nói hay quá).


23
 Bƣớc 3: Tổng hợp điểm

- Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên tổng hợp điểm từ mỗi giám khảo
(công khai điểm của từng giám khảo trên bảng ).



(Tổng hợp điểm của giám khảo và điểm trung bình của mỗi học sinh trình bày)

 Bƣớc 4: Nhận xét chung.

Trong phần nhận xét chung tôi nói với các em rằng: Tiết luyện nói văn biểu cảm (
ngữ văn 7 – tập I, các em mới chỉ làm quen với cách thức luyện nói theo nhóm. Tiết
này các em thực hiện luyện nói theo hình thức cá nhân . Là tiết đầu tiên luyện nói
theo hình thức cá nhân nhưng các em đã thực hiện rất tốt : 9 em đƣợc gọi lên trình
bày thì 8 em đạt yêu cầu( kết quả ở bảng điểm). Đặc biệt là em Thu Hồng, em Kiều
Oanh, hai em nói rất hay, rất truyền cảm , bày tỏ rất sâu sắc cảm nghĩ của mình với

tác phẩm văn học mà em yêu thích ; Em Văn Tài phát biểu về bài “ Sông núi nước
Nam” cũng rất mạnh mẽ, rất hùng hồn và có ý liên hệ rất hay ( nếu có giặc ngoại
xâm em cũng sẽ quyết tâm đánh giặc để bảo vệ đất nước…); Em Thái Thị Yến bày tỏ
cảm xúc cũng khá tốt. Các em rất đáng khen. Hãy cố gắng phát huy . Riêng em Phan
Thiết, có chuẩn bị bài nhưng chưa tự tin khi trình bày một vấn đề trước các bạn nên


24
còn run, ấp úng và cuối cùng thì không thể diễn đạt được suy nghĩ và cảm xúc của
mình. Em phải tập luyện thật nhiều , cô tin lần sau em sẽ làm tốt hơn.
Nhận xét xong, tôi hỏi một số em trong lớp xem em học tập đƣợc gì, rút đƣợc
kinh nghiệm gì trong tiết luyện nói này ?


(Em Nguyễn Triệu – Lớp trƣởng : “Em học đƣợc rất nhiều, nhất là phải tự tin”)


( Em: Văn Tài : “Ở nhà em luyện tập nhiều lắm
nhƣng lên nói em vẫn còn run, em sẽ cố gắng trong lần sau” )


25

(Em: Phan Thiết: "Lên đứng nói trƣớc các bạn,
em quên sạch không nhớ một chút nào lần sau em sẽ cố gắng”. )

Dù lố sang giờ ra chơi khoảng 3 phút nhưng tiết học của lớp 7
7
thực sự có hiệu
quả. Tôi tin các em sẽ tự rút cho mình những bài học, những kinh nghiệm thiết thực về

kiến thức cũng như về kĩ năng trình bày một vấn đề trước tập thể.
 Bƣớc 5: Cho điểm
( ở cột điểm đã làm tròn trong bảng điểm ).

IV. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Chúng ta đều biết rèn luyện khả năng diễn đạt và tự diễn đạt cho học sinh là
việc làm khó và cần phải có thời gian, có sự nỗ lực kiên trì của cả người học lẫn
người dạy. Kết quả có thể chưa thấy ngay nhưng “mưa lâu thấm dần”, tôi tin sự nỗ
lực của chúng ta sẽ được đền đáp.

 Có một thực tế mà tôi thấy là sau mỗi tiết luyện nói như trên các em lại xúm xít
đề nghị : “ Lần sau lại thực hiện như vậy nghe cô”. Tôi nghĩ đó là kết quả bởi
tôi đã có những tác động tích cực, đã khơi được nhu cầu muốn bày tỏ suy nghĩ,
cảm xúc cho các em.

×