Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Việc làm trong quá trình công nghiệp hóa ở Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 118 trang )



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA Ở NƯỚC TA 6
1.1. Việc làm và các nhân tố ảnh hƣởng tới việc làm trong
quá trình công nghiệp hoá. 6
1.2. Công nghiệp hoá tác động tới việc làm 21
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số địa phƣơng 28
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ Ở BẮC NINH 36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hƣởng tới
việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. 36
2.2. Tình hình giải quyết việc làm trong quá trình công
nghiệp hoá ở Bắc Ninh thời gian qua. 48
2.3. Những vấn đề đặt ra hiện nay về việc làm trong
trong quá trình CNH ở Bắc Ninh. 65
CHƢƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở TỈNH BẮC NINH 74
3.1. Phƣơng hƣớng cơ bản. 74
3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm
trong quá trình CNH ở tỉnh Bắc Ninh. 80
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107







DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á
CNH : Công nghiệp hóa
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
KCN : Khu công nghiệp
KCN, KĐT : Khu công nghiệp, khu đô thị
ILO :Tổ chức Lao động quốc tế
USD : Đô la Mỹ
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
UBND : Uỷ ban nhân dân
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm luôn là một trong những vấn đề xã hội có tính cấp thiết toàn
cầu, là mối quan tâm lớn của tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các
nước đang phát triển.
Ở nước ta, vấn đề việc làm cho người lao động luôn được Đảng và nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ
rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người,
ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng
chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Tạo việc làm cho người lao động, một mặt phát huy được tiềm năng lao
động nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội, mặt khác là điều kiện

cơ bản để xoá đói giảm nghèo có hiệu quả nhất, nâng cao đời sống nhân dân,
góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước.
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh
Hà Bắc cũ (1/1/1997) với diện tích tự nhiên 803,9 km
2
, dân số 976,700 người
(2003). Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Và từ năm 2000 đến nay, kinh tế Bắc
Ninh luôn tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) hàng năm
bình quân 13,9%, tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp, xây dựng tăng
nhanh từ 25, 6% (2000) lên 47,2% năm 2005, cùng với đó là quá trình đô thị
hóa diễn ra nhanh chóng.
Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn còn mang đậm dấu ấn của một tỉnh nông
nghiệp, lao động nông nghiệp chiếm 68,2% (2003) và một trong những thách
thức lớn nhất của Bắc Ninh hiện nay là tình trạng thất nghiệp đang có xu

2

hướng tăng nhất là ở khu vực nông thôn. Mặt khác tỷ lệ gia tăng dân số còn
khá cao trong khi diện tích đất nông nghiệp có hạn. Điều đó đã và đang cản
trở quá trình CNH, HĐH của tỉnh và là một bức xúc ngày càng lớn về việc
làm ở Bắc Ninh hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm
đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu
để sử dụng hợp lý nguồn lao động đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, tôi chọn đền tài “Việc làm trong
quá trình công nghiệp hoá ở Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

- Ở nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có những tác
giả có những công trình, bài viết xung quanh vấn đề này tiêu biểu như:
- PTS Nguyễn Hữu Dũng, PTS Trần Hữu Trung (Chủ biên): Về chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia. HN 1997. Các
tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận
chính sách việc làm, làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện nay.
Từ đó khuyến nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong
công cuộc CNH, HĐH.
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong
quá trình đô thị hóa, công nghiếp hóa nông nghiệp nông thôn – Tạp chí Lao
động xã hội, số 247 ( từ 16 – 30/9/2004). Tác giả đã đề cập đến thực trạng về
lao động và việc làm ở nông thôn trong quá trinh CNH, HĐH và đô thị hóa,
đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết việc
làm ở nông thôn.
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những
vấn đề đặt ra, Tạp chí Con số và sự kiện, số 8/ 2003, trong bài viết tác giả đã
đề cập những biến động của tình hình dân số ở nông thôn và những xu hướng

3

mới trong việc tạo việc làm ở nông thôn: Kinh tế trang trại, khôi phục và phát
triển làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ phát triển công nghiệp chế
biến nông – lâm – thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa từ các chương trình
quốc gia, quốc tế.
- GS.TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam, Tạp
chí Kinh tế và phát triển, số 64- 2002. Trong bài tác giả đã đánh giá thực
trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện
pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
- TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn:
Các giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 309

(6/2004). Trong bài tác giả đã đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và
việc phát triển này sẽ góp phần tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông thôn.
- TS Nguyễn Bá Ngọc, KS Trần Văn Hoan (Chủ biên): Toàn cầu hóa:
cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà nội
2002. Các tác giả đã trình bày tác động của toàn cầu hóa đến người lao động,
phân tích cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp cho lao động Việt Nam trong xu
thế toàn cầu hóa.
- TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/2002. Tác giả đã đánh giá tầm quan trọng
và những kết quả đạt được trong giải quyết việc làm ở nông thôn bằng cách
phát triển các ngành phi nông nghiệp vơi phương châm: “Ly nông bất ly
hương”.
- GS.TS Đỗ Thế Tùng: ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề
giải quyết việc làm ở Việt Nam, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 6/2002.
Tác giả phân tích và đánh giá ảnh hưởng của kinh tế tri thức đối với việc làm.

4

Ngoài ra, cũng có mốt số luận văn thạc sỹ viết về đề tài việc làm ở một
số tỉnh như: Hà Tĩnh, Hà Nội, Kiên Giang, Đồng Nai, …. Tuy nhiên dưới góc
độ khoa học kinh tế chính trị vẫn chưa có công trình nào viết về vấn đề này
dưới dạng luận văn khoa học để tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cho
giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ CNH phát triển mạnh mẽ.
Vì vậy, đề tài luận văn này là cần thiết đối với tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc
làm ở Bắc Ninh, phân tích thực trạng, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm

giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất
nghiệp, làm rõ những nhân tố tác động đến việc giải quyết việc làm trong quá
trình công nghiệp hóa từ đó làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết
việc làm ở tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ
năm 1997 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc
Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc
làm cho người lao động trên địa bản tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa từ những năm 1997 – 2007, trên cơ sở đó xây dựng
một số giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5

Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. đồng thời cũng sử dụng phương pháp đặc
thù của khoa học kinh tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học,
kết hợp logic với lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp với khảo sát
thực tiễn.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề lao động, việc làm và thất nghiệp.
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ
năm 1997 đến nay.
Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm giải quyết

việc làm ở tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.














6


NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA Ở NƢỚC TA

1.1. Việc làm và các nhân tố ảnh hƣởng tới việc làm trong quá trình
công nghiệp hoá
1.1.1. Khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp
1.1.1.1. Khái quát về lao động

Ngày nay có rất nhiều khác nhau về khái niệm lao động nhưng suy đến
cùng thì lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động
vào giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục
vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù
của con người, phân biệt con người và xã hội loài người với các loài động vật
và xã hội loài vật khác.
Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con
người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình,
con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự
nhiên” [9, tr 226]. Trong quá trình đó, con người đã vận dụng sức lực của
mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có ý thức,
có mục đích nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu
cầu của mình. Trong quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp
giữa ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Và trong bất
kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại ngày nay, thì lao động bao
giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát
triển của đời sống xã hội loài người. Điều này đã được C.Mác khẳng định:

7

“Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ
hình thái kinh tế – xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi
giới cho sự trao đổi chất của con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự
sáng tạo của con người” [9, tr 61]. Và được Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng:
“Lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi
đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành
của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế
đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng
tạo ra bản thân con người” [8, tr 641]. Như vậy có thể khẳng định rằng, lao

động là một phạm trù vĩnh viễn, nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự
xuất hiện, tồn tại và phát triển của xã hội loài người, lao động làm thay đổi
bản thân con người. Nói đến vai trò của lao động, nhà kinh tế học thuộc
trường phái cổ điển Anh – William Petty cũng phải thừa nhận rằng: “Lao
động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải”.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, trong bốn
nguồn lực cơ bản là: lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công
nghệ thì nguồn lực lao động có vai trò quan trọng nhất, nó là “nguồn lực của
mọi nguồn lực”, là “chìa khoá” cho sự phát triển của mọi quốc gia. Ngày nay,
khoa học và công nghệ phát triển cao đã chi phối mọi lĩnh vực kinh tế – xã
hội, nhưng xét cho cùng cũng không thể thay thế vai trò quyết định của lao
động. Hơn nữa, nguồn lao động là nhân tố sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và
sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế.
Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì nguồn lao
động là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ phận dân cư có khả năng lao
động. Nói một cách cụ thể, nguồn lao động là bộ phận dân cư có toàn bộ những
khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động.

8

Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động. Trên thế giới
có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động, song nhìn chung đều
thống nhất với quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là: “Lực lượng
lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi có khả năng lao động được pháp luật
quy định, thực tế đang làm việc và những người thất nghiệp”.
Điểm khác nhau giữa các nước trong quan niệm về lực lượng lao động
là ở độ tuổi quy định. Có nước quy định tuổi bước vào hoặc bước ra sớm hơn,
có nước lại muộn hơn. Tuy nhiên ở nước ta, độ tuổi lao động được pháp luật
quy định là đủ từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và từ 15 đến 55 tuổi đối với
nữ. Quy định về độ tuổi lao động ở nước ta trùng với quan niệm của ILO.

Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng
như: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi học, số người
đang làm việc, khả năng tiếp thu của người lao động, ý thức kỷ luật, sức khoẻ…
Vai trò của nguồn lực lao động được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử
dụng, phát triển các nguồn lực khác. Các nhà kinh tế học đều thống nhất cho
rằng, có bốn nguồn lực chủ yếu là: lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn,
khoa học công nghệ. Nhưng cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng,
nguồn lực lao động là nhân tố quyết định nhất. Bởi không dựa trên nền tảng
phát triển cao của nguồn lực lao động thì không thể sử dụng hợp lý các nguồn
lực trên. Thậm chí, thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao có thể làm lãng
phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác.
Thứ hai, nguồn lực lao động là một bộ phận của các yếu tố “đầu vào”
trong quá trình sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu
thành của nguồn lực lao động trong hàng hoá.

9

Thứ ba, nguồn lực lao động còn tham gia tiêu dùng các sản phẩm và
dịch vụ. Như vậy, với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng,
nguồn lực lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế.
Như vậy, điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn lực lao động với các nguồn
lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu của nền kinh tế, vừa trực tiếp điều
tiết quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế – xã hội do con người tạo nên. Do
có vị trí và vai trò quyết định đó, V.I.Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động” [24, tr 430].
Trong nền kinh tế thị trường càng khẳng định vai trò quyết định của
nhân tố nguồn lực lao động, nhân tố con người. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước
đã khẳng định mục tiêu và động lực phát triển kinh tế – xã hội là “vì con
người và do con người”.

1.1.1.2. Khái quát về việc làm
Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động. Việc
làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là
những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều
kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của
hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, xét đến cùng việc làm thể hiện mối
tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và
yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, người lao động chỉ được coi là có
việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể). Theo đó, xã hội không
thừa nhận việc làm ở các khu vực khác và cũng không thừa nhận hiện tượng
thất nghiệp hay thiếu việc làm.
Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan
niệm về việc làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Theo Điều 13,

10

Chương II của Bộ luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
chỉ rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”.
Như vậy, theo quan niệm trên, việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động
tạo ra thu nhập và không bị pháp luật ngăn cấm. Trước hết nó đã xoá bỏ được
quan niệm sai lầm trước đây cho rằng, chỉ có việc làm trong khu vực kinh tế
quốc doanh và tập thể… Ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này là ở chỗ
nó đã xoá bỏ được sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế,
động viên mọi tổ chức, cá nhân tham gia tạo việc làm cho bản thân và cho
người khác. Đồng thời, khái niệm trên còn làm rõ đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ nó cho phép công dân Việt Nam
được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ, nghề giúp việc gia

đình, buôn bán nhỏ (con buôn)… là nghề mà trước đây chưa được xã hội tôn
trọng thì nay đã trở thành việc làm đáng khuyến khích và được pháp luật bảo
vệ. Ngược lại, mọi công dân đều không được làm những việc mà pháp luật
cấm như: buôn bán ma tuý, mại dâm…
Như vậy, với quan niệm việc làm như Bộ luật Lao động quy định sẽ tạo
cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng
lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau, đồng thời cũng góp phần ngăn chặn những việc làm phi pháp dễ
nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần xét thêm khái niệm việc làm
đầy đủ và việc làm phù hợp.
Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thoả mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm
cho mọi thành viên có khả năng lao động và mong muốn được lao động trong
nền kinh tế quốc dân. Cũng có thể nói, việc làm đầy đủ đối với một người lao

11

động là trạng thái người lao động được sử dụng hết quỹ thời gian lao động
của mình trong ngày, trong tháng và trong cả năm.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, với các chính sách đúng đắn
về kinh tế, lao động và việc làm của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động tích
cực, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, vì vậy đời sống của đại bộ
phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động vẫn nổi lên là một trong những vấn đề bức xúc đặc biệt là
tình trạng thiếu việc làm đối với những địa phương đất chật, người đông, dân
số chủ yếu làm nông nghiệp.
Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá
hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong
muốn. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài
ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo pháp

luật quy định mà điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn những địa
phương chủ yếu làm nông nghiệp nhưng diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người thấp và nông nghiệp lại mang tính thời vụ… Tình trạng thiếu việc
làm còn xuất hiện ở những công việc mà tiền công thấp không đáp ứng đủ
nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ sung như nghề giáo
trước đổi mới. Khi đó người làm nghề này được coi là người nông dân có
nghề phụ là dạy học… Hay những người nông dân ở một số địa phương đất
chật, người đông thường xuyên ra các thành phố tìm việc làm thêm trong lúc
nông nhàn.
1.1.1.3. Thất nghiệp
Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nhưng
theo C.Mác, khi phân tích lý luận về thất nghiệp trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã phát hiện ra “quy luật nhân khẩu thừa tương đối”. Theo đó, dưới tác
động của cạnh trạnh và các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là

12

quy luật giá trị thặng dư mà nhà tư bản không ngừng mở rộng quy mô tích
luỹ. Quy luật của tích luỹ làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng
lên, song bộ phận bất biến của tư bản càng nhanh hơn bộ phận khả biến của
chúng. Trong khi đó, cầu về lao động trong xã hội lại không quan hệ trực tiếp
với tổng số tư bản, mà chỉ với bộ phận tư bản khả biến của nó. C.Mác viết:
“Vì lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định,
mà do quy mô của bộ phận tư bản khả biến của tư bản quyết định, cho nên
cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần giảm
bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỷ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản,
như chúng ta giả định trước đây, lượng cầu về lao động giảm xuống một cách
tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm xuống theo một cấp số
ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại lượng” [7, tr 159]. Sự giảm sút
của phần tư bản khả biến trong tổng tư bản xã hội sẽ gây ra hiện tượng thất

nghiệp “máy chèn lấn người”. Tuy nhiên đó chỉ là thừa tương đối.
Còn theo ILO, thất nghiệp là tình trạng một bộ phận của lực lượng lao
động có nhu cầu làm việc, nhưng hiện chưa có việc làm và đang tích cực tìm
kiếm việc làm.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì thất nghiệp là tình trạng số đông
người trong độ tuổi lao động không có việc làm hoặc không thể tìm được việc
làm để kiếm sống.
Tóm lại, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung các
nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, thất nghiệp có bốn đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, là người nằm trong độ tuổi lao động;
Thứ hai, có khả năng lao động;
Thứ ba, đang không có việc làm;
Thứ tư, đang tích cực tìm kiếm việc làm.

13

Theo quan điểm này, thì ở nước ta hiện nay những người từ đủ15 đến
60 đối với nam và từ đủ 15 đến 55 tuổi đối với nữ, nếu hiện đang không có
việc làm và đang tìm kiếm việc làm là những người thất nghiệp. Tuy nhiên,
những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối tượng sau đây không
thuộc những người thất nghiệp như:
+ Những người đang đi học;
+ Những người làm công việc nội trợ cho gia đình mình;
+ Những người không có khả năng lao động;
+ Những người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm thất nghiệp, chúng ta cần xem xét những
hình thức thất nghiệp cơ bản:
- Thất nghiệp cơ cấu là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa
cung và cầu về các loại lao động, các ngành nghề chuyên môn…
Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động

này tăng, còn mức cầu đối với một loại lao động khác lại giảm đi, trong khi
mức cung lại không được thay đổi một cách nhanh chóng và kịp thời vì quá
trình đào tạo và đào tạo lại cho một ngành nghề mới là thời kỳ không ngắn.
- Thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp do các chu kỳ kinh tế gây ra, nhất là
trong các cuộc khủng hoảng kinh tế khi đó nhu cầu chung về lao động giảm
mạnh ở hầu hết các ngành sản xuất.
- Thất nghiệp tự nguyện chỉ là những người tự nguyện không muốn làm
việc có thể vì mức lương chưa phù hợp với mong muốn của họ.
- Thất nghiệp không tự nguyện là những người muốn làm việc với mức
lương hiện hành vào thời điểm đó những vẫn không tìm được việc làm.
- Thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp phát sinh do người lao động muốn
có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.

14

- Thất nghiệp theo mùa vụ là thất nghiệp do cầu lao động giảm, thường
vào những thời kỳ nhất định trong năm.
Nhìn chung, thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan
tâm lớn của tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá cao sẽ làm lãng
phí các nguồn lực, thu nhập của người lao động giảm và rơi vào tình trạng
nghèo đói, nền kinh tế suy thoái dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội. Do đó,
tỷ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xem xét, đánh giá
tình trạng của một nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội và là mối quan tâm hàng đầu
của tất cả các quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc làm trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội
1.1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá trình
sản xuất vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở
quan trọng hàng đầu của sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho người lao

động.
Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia bao gồm tất cả những gì có
trong vùng trời, vùng biển, trên mặt đất, trong lòng đất, khí hậu, thời tiết, vị
trí địa lý, … đều có tác động đến sự phát triển, từ đó có ảnh hưởng lớn đến
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Thực tiễn đã chứng minh
rằng, ở quốc gia nào hoặc vùng nào có tài nguyên thiên nhiên thuận lợi thì ở
đó có điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn đề giải quyết việc làm và cơ cấu
việc làm, ngành nghề cũng đa dạng và phong phú hơn.
Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, do vậy đã tạo
điều kiện thuận lợi cho vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, góp
phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh nên số người

15

bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều. Hiện nay nước ta có khẳng trên
40 triệu lao động và hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động khoảng 1,3
đến 1,5 triệu người, do vậy tốc độ tạo việc làm không thể tăng kịp với tốc độ
gia tăng của nguồn lao động. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi phải phát
huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với các
nguồn lực khác như vốn, lao động, công nghệ,… để tạo ra nhiều việc làm mới
cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững.
1.1.2.2. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai tăng
cũng càng nhanh; đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu
nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển nhất
là cho phát triển nguồn nhân lực, do đó, cơ hội để tìm việc làm càng gặp khó

khăn, đồng thời nó cũng sẽ tác động ngược lại với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, bởi thiếu nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển, đặc biệt là
nguồn lao động chất lượng cao. Khi xem xét mức độ biến động dân số của
nước ta những năm gần cho thấy: “Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng
1,3%/năm, đến giữa năm 2003, dân số cả nước đã lên đến gần 81 triệu người,
hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên tham gia vào lực lược lao động xã
hội” [14, tr 24-25]. Đây là một sức ép lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm ở
nước ta hiện nay.
Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu
trong vấn đề giải quyết việc làm. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong
quá khứ quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều
do đó, tốc độ tạo việc làm càng không kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao

16

động. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị ở nước ta năm 1996 là 5,88% và năm 2003 là 5,78%, còn tỷ lệ thời
gian làm việc được sử dụng của lao động ở nông thôn năm 1996 là 72,28%,
đến năm 2003 là 77,66% [33, tr 23-24]. Đây chính là bài toán mà chúng ta
cần giải quyết để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
1.1.2.3. Khoa học – công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghệ sẽ làm tăng yêu cầu việc làm cho lao động
phức tạp và ngược lại, làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Điều này
đã được C.Mác dự báo: “Đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay
thế công nhân. Như thế, ở đây một phương thức lao động nào đó trực tiếp
chuyển từ người công nhân sang tư bản dưới dạng máy móc” [10, tr 368]. Do
vậy, theo đà phát triển của khoa học công nghệ, việc tạo ra của cải thực sự sẽ
trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí
mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào tiến bộ của kỹ
thuật, hay phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.

Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhấn mạnh đến nguồn
lực con người trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Nhờ sự tiến bộ của
khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào sản phẩm
ngày một giảm rõ rệt, hàm lượng lao động “chất xám” kết tinh vào sản phẩm
ngày càng cao. Theo dự báo “đến năm 2010 phần tỷ lệ lao động chân tay
trong sản phẩm chỉ còn 1/10” [32, tr 31]. Điều này đã được C.Mác khẳng
định: “Nhưng theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực
tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi
phí… mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào tình độ chung của khoa học và vào sự
tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản
xuất” [10, tr 368].

17

Như vậy, sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội
để người lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho
xã hội, đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước
phát triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hoá sẽ làm cho các
nước có nguồn lao động giản đơn và dư thừa nhưng thiếu lao động phức tạp,
có kỹ thuật cao như Việt Nam hiện nay bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay
là tăng lao động phức tạp có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy,
trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng
trong quá trình tìm kiếm việc làm. Do đó, nếu không lường trước được xu thế
này của sự phát triển khoa học công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối
trong nguồn nhân lực. Hiện nay, ngay cả nước Mỹ vẫn còn thừa khoảng 10
triệu chỗ làm việc và cũng có hơn 2 triệu người thất nghiệp nhưng không thể
bố trí được việc làm vì không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật” [ 29, tr 18]. Do
vậy, xu hướng chắc chắn xảy ra khi phát triển khoa học công nghệ là sự gia
tăng thất nghiệp của lao động giản đơn.
Ngày nay, khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có một nguồn lao
động có chất lượng cao. Ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy, nhiều
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có công
nghệ tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động qua đào
tạo vẫn còn thấp. Theo số liệu của Hội nghị Trung ương sáu, khoá IX của
Đảng thì số lao động đã qua đào tạo năm 2000 mới đạt gần 20% [34, tr 152].
Do vậy, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp cơ bản và cấp
bách để hạn chế thất nghiệp, đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu để thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.4.Sự phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động

18

Thị trường hàng hoá sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung
– cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi tiền công
cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động.
Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người thuê
mướn và đang sử dụng sức lao động của người khác và những người có nhu
cầu làm thuê hoặc đang làm việc cho những người khác bằng sức lao động
của mình để nhận được một khoản tiền công. Khi nghiên cứu thị trường lao
động dưới góc độ việc làm thì nội dung quan trọng nhất là quan hệ cung – cầu
về lao động.
* Quan hệ cung – cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều nhiều tố,
trong đó có một số yếu tố cơ bản sau:
+ Khả năng mở rộng cầu về lao động. Yếu tố này phụ thuộc vào tốc độ
phát triển kinh tế, vào mô hình và cơ cấu kinh tế. Nhìn chung, tốc độ phát
triển kinh tế càng cao thì khả năng giải quyết việc làm càng lớn, đặc biệt là sự
phát triển của các ngành sử dụng nhiều lao động, phát triển các vùng mà trước

hết là các vùng nông thôn có nhiều tiềm năng thu hút lao động, phát triển các
thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế, phát triển đa
dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và mối liên hệ giữa chúng,
mở rộng không gian kinh tế trong và ngoài nước…
+ Sự phát triển của nguồn lao động: Sự cung ứng sức lao động vào thị
trường lao động hàng năm, sự tồn động của lao động chưa có việc làm (thất
nghiệp)…
+ Sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động về không gian và
thời gian, đặc biệt là sự phù hợp của chất lượng lao động đối với nhu cầu của
thị trường.

19

+ Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là sự phát triển của
các tổ chức xúc tiến và dịch vụ việc làm…
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung – cầu về lao động có một số đặc
trưng sau:
Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao
động và tình trạng này được dự báo sẽ tiếp tục kéo dai trong những năm tới
dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. Ở đây xét đến khả năng phát triển việc làm
còn rất hạn chế mặc dù tiềm năng còn lớn nhưng chúng ta lại thiếu vốn đầu
tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch vẫn còn chậm và gặp khó khăn.
Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng
cung lao động với tỷ lệ cao, hàng năm số người tham gia vào lực lượng lao
động có từ 1,2 đến 1,5 triệu người.
Ba là, lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, đến nay vẫn chiếm gần
60% và theo mục tiêu của Đảng ta thì đến năm 2010 số lao động nông nghiệp
vẫn chiém 50% lao động xã hội [21, tr189] và tỷ lệ thời gian làm việc được sử
dụng của lao động nông thôn đến 2003 vẫn thấp chỉ chiếm 77, 66% [33, tr
24]. Số này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung

để tìm kiếm việc làm từ đó làm cho cung về lao động trên thị trường càng lớn.
Bốn là, sự không phù hợp giữa kỹ năng, trình độ của người lao động
với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi. Đây được coi là đặc
trưng cơ bản nhất của quan hệ cung – cầu về lao động ở nước ta, từ đó dẫn
đến tình trạng “thất nghiệp cơ cấu”, tính đến năm 2000 số lao động qua đào
tạo mới đạt gần 20%. Trong đó, cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ lao động
tính theo tỷ lệ giữa lao động có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và
công nhân kỹ thuật là: 1: 1,75: 2,3 [34, tr 153]. Đó vẫn là một cơ cấu bất hợp
lý từ đó dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, làm “trái ngành, trái nghề”.
Trong khi đó chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

20

hoá nên rất cần một đội ngũ lao động có trình độ cao trong một số lĩnh vực
áp dụng công nghệ mới, lĩnh vực tài chính, ngân hàng… trong khi chúng ta
lại dư thừa đội ngũ lao động giản đơn và số lao động này sẽ tiếp tục gia tăng
do chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đặc biệt là chuyển đổi từ nông nghiệp sang
công nghiệp.
* Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động:
Vấn đề giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp về thực chất là giải
quyết mối quan hệ giữa cung – cầu về lao động trên thị trường lao động. Theo
nghĩa đó, xuất khẩu lao động là hướng đi quan trọng vừa tăng cầu lao động,
giải quyết việc làm cho người lao động, vừa tạo ra nguồn thu nhập cho người
lao động và tăng thu ngân sách Nhà nước; vừa nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động và tiếp thu khoa học tiên tiến của nhân loại, vừa mở rộng giao
lưu kinh tế.
Do vậy, ngày nay xuất khẩu lao động được các quốc gia có tình trạng
dư thừa lao động coi là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho
người lao động. Ví dụ, “năm 1998, số người lao động của Philíppin làm việc
tại nước ngoài là 4 triệu người; năm 1995, luợng kiều hối quan kênh chính

thức về Philíppin là trên 4 tỷ USD” [36, tr 232]. Con số này đối với Trung
Quốc còn lớn hơn nhiều.
Ở nước ta, từ năm 1998 đến nay, công tác xuất khẩu lao động đã đạt
được một số kết quả đáng kể, số lượng lao động xuất khẩu đã tăng dần hàng
năm và đang có xu hướng gia tăng. Chúng ta đã mở ra nhiều thị trường mới
có khả năng xuất khẩu lớn như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malayxia,
các nước Trung Đông… và theo mục tiêu của Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội thì năm 2008 nước ta sẽ xuất khẩu 85.000 lao động.
Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng lao động của đất nước, do vậy, sức ép về lao động và việc làm vẫn hết

21

sức cấp bách. Do vậy, trong thời gian tới chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác xuất khẩu lao động, phát triển và mở rộng hơn nữa thị trường lao
động để góp phần giải quyết sự bất cân đối giữa cung và cầu về lao động, đáp
ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
1.1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
Đảng và Nhà nước ta đã có bước ngoặt trong nhận thức, quan niệm và
chủ trương về tạo việc làm, từ chỗ chỉ thừa nhận việc làm trong thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể) đến quan niệm được ghi rõ ở
Điều 13 Chương II Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Điều này còn
được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều
được tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật. Phát triển dịch vụ
việc làm. Tiếp tục phân bổ lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế,
an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng
kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” [19, tr 114-115].

Và đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã thừa nhận: “Đảng viên
được làm kinh tế tư nhân”. Đây được coi là “chốt chặn” cuối cùng đối với việc
mở rộng khả năng tạo việc làm cho người lao động.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Đảng và Nhà nuớc phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người
lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách
cụ thể nhằm phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội. Có thể có
rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành
một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại hướng vào phát triển
cả cung và cầu, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau nhằm hạ đến

22

mức thấp nhất tỷ lệ thất nghiệp, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao
động, cải thiện đời sống nhân dân.
1.2. Công nghiệp hoá tác động tới việc làm
1.2.1. Tác động tới sự di động dân cư và lao động
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá là con đường phát triển của
mọi quốc gia trên thế giới. Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia cho thấy,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi
căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang phương thức sản xuất mới hiện đại. Quá trình đó đã làm thu
hẹp xã hội nông thôn, từ đó làm cho dân cư và lao động của khu vực nông thôn
giảm xuống.
Ở nước ta trong những năm qua trên khắp các vùng miền của đất nước,
nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới được xây dựng, hệ thống kết cấu hạ
tầng được nâng cấp xây mới ngày càng đồng bộ và hiện đại. Nhờ đó, bộ mặt
kinh tế – xã hội của đất nước thay đổi nhanh chóng theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Việc thu hồi đất bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp cho
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội dẫn

đến đất cho sản xuất – kinh doanh của người dân ở khu vực nông thôn bị thu
hẹp, phải thay đổi chỗ ở và điều kiện sống. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, tính đến năm 2006 cả nước có 139 khu công nghiệp được thành lập
với tổng diện tích là 29,4 nghìn ha” [27, tr 6]. Theo các chuyên gia kinh tế thì
cứ một ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang mục đích sản xuất nông nghiệp
sẽ làm cho 2 đến 3 ha đất nông nghiệp xung quanh mất chức năng phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Qua trình thu hẹp diện tích đất nông nghiệp sẽ tăng
nhanh chóng cùng với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời với nó
là cơ cấu dân cư có xu hướng chuyển từ đại bộ phận sống ở nông thôn sang
sống ở thành thị ngày một đông hơn. Năm 1999, dân số thành thị chiếm

23

23,56% tổng dân số cả nước, sẽ đạt 33-34% vào năm 2010, và dự báo năm
2020 sẽ có 50 – 60% số dân sống ở đô thị [38, tr 203].
Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn làm cho chất
lượng nguồn lao động cũng có sự di chuyển mạnh mẽ, trong đó lao động có
trình độ chuyên môn chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị. Theo kết quả điều
tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố tháng 10 năm 2002 thì
tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn cao gấp 6 lần thành thị, trong khi đó,
lao động ở thành thị có trình độ trung học phổ thông trở lên cao gấp 8 lần
nông thôn và tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị là
44,6%, ở nông thôn là 11,89% [34, tr 152].
Như vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho dân cư và
lao động có sự di chuyển cả về số lượng và chất lượng theo xu hướng dân cư
và lao động ở khu vực đô thị ngày càng tăng còn ở khu vực nông thôn ngày
càng giảm.
1.2.2. Tác động đến cơ cấu việc làm
Theo tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh sự
phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, việc xây dựng các khu công

nghiệp, khu đô thị sẽ góp phần quan trọng phát triển các cơ sở sản xuất – kinh
doanh và dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, các trung tâm thương mại và dịch vụ, từ đó sẽ làm
thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo xu hướng: tỷ trọng của ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng dần, tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng
giảm. Trong đó, nông nghiệp giảm về giá trị tương đối, nhưng vẫn tăng lên về
giá trị tuyệt đối trong cơ cấu GDP của cả nước. Công nghiệp và dịch vụ sẽ
tăng lên nhanh chóng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối. Xem hình 1.1
Bảng 1.1: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta

×