Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại tại công ty tnhh giống lợn dabaco – tân chi – tiên du - bắc ninh và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.47 MB, 57 trang )

Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây chăn nuôi lợn công nghiệp đang ngày càng
phát triển. Trang trại được xây dựng ngày càng nhiều với quy mô chăn nuôi
lớn và được trang bị ngày càng hiện đại
Để chăn nuôi đàn lợn ngoại đạt hiệu quả cao bên cạnh các yếu tố về
thức ăn, chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi… thì một trong những yếu tố hết sức
quan trọng cần được đảm bảo là phải có đàn giống tốt. Điều này phụ thuộc rất
lớn vào năng suất sinh sản của đàn lợn nái ngoại.
Tuy nhiên một trong những bệnh làm hạn chế khả năng sinh sản của
đàn lợn nái là các bệnh về sinh sản đặc biệt là bệnh viêm tử cung chiếm tỉ lệ
cao. Bệnh này không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản
của lợn mẹ mà còn là một trong những nguyên nhân làm tăng cao tỉ lệ mắc
bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con đang trong thời gian theo mẹ, do đó chất lượng
của đàn giống bị ảnh hưởng.
Những vấn đề nêu trên chỉ ra rằng việc nghiên cứu về bệnh viêm tử
cung ở đàn lợn nái ngoại và tìm ra phương pháp phòng trị bệnh là một việc là
cần thiết.
Với mục đích góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái
ngoại đồng thời bổ sung vào các tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản của
giống lợn nái ngoại chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Bệnh viêm tử
cung trên đàn lợn nái ngoại tại Công ty TNHH Giống Lợn DABACO – Tân
Chi – Tiên Du - Bắc ninh và biện pháp phòng trị”

1
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
1.2. Mục đích của đề tài


- Xác định được thực trạng bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại tại
Công ty TNHH Giống Lợn DABACO – Tân Chi – Tiên Du - Bắc ninh
- Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở lợn
con theo mẹ.
- Đề xuất quy trình phòng và trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại
nuôi tại Công ty.
2
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nghiên cứu về bệnh viêm tử cung trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Nghiên cứu trên thế giới
Theo A.Vtrekaxova (1983) trong số các nguyên nhân dẫn tới ít sinh đẻ
vá vô sinh của lợn thì các bệnh ở cơ quan sinh dục chiếm từ 5-15%.
A I.Sobko và N.I.GaDenKo (1987) cho rằng nguyên nhân của bệnh viêm tử
cung là do tử cung bị tổn thương, do hiện tượng sát nhau. Bệnh phát triển là
do nuôi dưỡng không đủ chất, do đưa vào đường sinh dục những chất kích
thích đẻ, chúng phá hủy hoặc là kết tủa chất nhày ở bộ phận sinh dục.
Theo F.Madec và C.Neva (1995), hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo
dài từ lứa đẻ trước đến lần động dục tiếp theo có thể giải thích nguyên nhân
làm giảm độ mắn đẻ, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Tác giả cũng cho
biết, khi tiến hành ngiên cứu trên đàn lợn nái ở xứ Brơ-ta-nhơ (Pháp) năm
1991 thì phát hiện thấy 15% số lợn nái bị viêm tử cung. Viêm tử cung thường
bắt đầu bằng sốt ở một vài giờ sau khi đẻ, chảy mủ vào ngày hôm sau và bệnh
thường kéo dài từ 48 đến 72 giờ.
Thông tin tin từ website www.sciencedirect.com, công ty Bayer
nghiên cứu 828 lợn nái đẻ thuộc 4 nhóm: nhóm không được điều trị; nhóm 2
được điều trị bằng 25g hỗn hợp Furazolidone và Sulphadimidine sodiumsulfat
theo tỉ lệ phối hợp tương ứng là 1,25g :5g; nhóm 3 điều trị bằng Enrofloxacin

(2,5mg/kg) và nhóm 4 điều trị bằng Enrofloxacin (5mg/kg). Kết quả cho thấy
Enrofloxacin làm giảm tỷ lệ tử vong ở lợn con, giảm hiện tượng sốt và hiện
tượng tăng pH sữa của lợn mẹ
Ở Cuba các bác sĩ thú y sử dụng dung dịch Lugol 5% điều trị đạt kết
quả cao và dung thuốc Neometrina đặt trong tử cung đạt kết quả điều trị cao.
3
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Theo Popkov (Liên xô) đã sử dụng phương pháp tiêm các kháng sinh sau
vào mang treo tử cung của lợn nái vị viêm tử cung đạt kết quả điều trị cao:
Streptomycin 0,25g
Penicilline 500.000 UI
Dung dịch MgSO
4
1% 40ml + VTMC
2.1.2. Tại Việt Nam
Nguyễn Văn Thanh (2002) tỷ lệ viêm tử cung ở lợn nái sau khi sinh là
42,4% trong đó tỷ lệ bệnh trên đàn lợn thuần là 25,48%, trên nhóm lợn lai
chiếm 50,84%. Viêm tử cung xảy ra cao nhất ở lứa 1 và 2. Tỉ lệ chậm động
dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung cao hơn nhiều so với nhóm lợn không bị
viêm tử cung. có nhiều nguyên nhân gây viêm tử cung như: dinh dưỡng, tuổi,
lứa đẻ, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi… Nhưng sự hiện diện của
vi sinh vật được phát hiện trong hầu hết các trường hợp viêm tử cung. Các
nguyên nhân gây bệnh khác sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể hoặc tạo
điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và phát triển để gây ra các triệu chứng.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), tỷ lệ mắc viêm tử cung ở đàn nái
ngoại hướng nạc đang được nuôi tại các địa phương vùng đồng bằng châu thổ
Sông Hồng là tương đối cao (7,1%) và có sự khác nhau giữa các địa phương.
Bệnh viêm tử cung thường tập trung ở những lợn nái mới đẻ lứa đầu và đã đẻ
nhiều lứa.

The Trần Tiến Dũng (2004), bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỉ
lệ cao từ 30-50%, trong đó bệnh viêm tử cung chiếm tởi 80%, các bệnh đường
sinh dục khác chiếm 20%. Tỷ lệ viêm tử cung sau đẻ ở lợn nái ngoại cũng
cao, từ 1,82-23,33%.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung
tương đối cao, tập trung ở đàn lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã đẻ nhiều lứa, khi thử
nghiệm điều trị tác giả nhận thấy dùng PGF

liều 25mg tiêm dưới da kết hợp
với dung dịch Lugol 0,1 % thụt rửa tử cung cho kết quả điều trị cao.
4
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
2.1.3 Mối quan hệ giữa viêm tử cung và viêm vú và mất sữa
Theo Frank và Friton Gabriele (Boehringer Ingelheim GmbH, CHLB
Đức), trong thời hạn sản xuất heo con, hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất
sữa (MMA) và rối loạn vận động là những nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn
đến sức sản xuất của đàn lợn nái và sinh trưởng của lợn con. MMA làm tăng
tỷ lệ tử vong của đàn lợn con từ 4-5%; kéo dài thời gian cai sữa trung bình,
giảm tỷ lệ thụ thai của đàn nái
2.2. Cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý sinh sản của lợn cái
2.2.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài .
* Âm môn (Vulva).
Âm môn hay còn gọi là âm hộ, nằm ở dưới hậu môn. Bên ngoài chứa 2
môi (labia vulva), bờ trên của 2 môi có sắc tố đen, nhiều tuyến tiết chất nhờn
màu trắng và tuyến tiết mồ hôi.
5
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
* Âm vật (clitoris).

Âm vật của con cái giống như dương vật của con đực thu nhỏ lại, bên
trong có thể hổng. Trên âm vật có các nếp da tạo ra mũ âm vật (praeputium
clitoridis), ở giữa âm vật xuống là chỗ tập trung của nhiều đầu mút thần kinh.
* Tiền đình (vestibulum vaginae sinusinogenitalis).
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ bao gồm:
- Màng trinh: là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía
sau thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá
niêm mạc gấp lại thành một nếp.
- Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể
hổng ở bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hang chéo, hướng
quay về âm vật.
2.2.2 Bộ phận sinh dục bên trong .
* Âm đạo (vagina) .
Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu
sau thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là
màng trinh.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối đồng
thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các
chất dịch từ tử cung, gồm 3 lớp (1) lớp liên kết ở ngoài , (2) lớp cơ trơn có cơ
dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong và (3) lớp niêm mạc âm đạo, trên bề mặt có
nhiều thượng bì gấp nếp dọc. Âm đạo là cơ quan giao cấu, nơi tinh dịch được
phóng ra và đọng lại ở đó. Âm đạo lợn dài 10 – 12cm
* Tử cung (uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và
niệu đạo trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung
được cố định trong xoang chậu do 4 yếu tố
6
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă

Giang - l ớ p TYB-K51
- Sự bám của âm đạo vào cổ tử cung.
- Dây chằng của các nếp phúc mạc tạo thành.
- Dây chằng tròn (Ligamentum teres uteria) là do một dây chằng nhỏ
từ sừng tử cung đến vùng bẹn, bên trong có nhiều mạch quản, cơ
trơn.
- Dây chằng rộng(Ligamentum latum) là do nếp phúc mạc trùm lên tử
cung ở mặt trên, mặt dưới và kéo dài tới 2 thành của chậu hông. Dây chằng
rộng ở giữa hai lá phúc mạc, nên rất quan trọng và có nhiều mạch quản, thần
kinh
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm các phần:
- Hai sừng thông với ống dẫn trứng ở phía trước và than tử cung ở phía
sau. Sừng tử cung dài 50-100cm, hình ruột non,
- Thân tử cung dài 3-5cm
- Cổ tử cung: dài 10-18cm, có thành dầy, hình trụ, có các cột thịt xếp
theo kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: Lớp tương mạc, lớp cơ
trơn và lớp nội mạc.
- Lớp tương mac: là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và
nối tiếp vào các hệ thống các dây chằng.
- Lớp cơ trơn: gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài.
Giữa hai tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là
nhiều tĩnh mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi
hướng làm thành mạng vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dầy và khoẻ nhất
trên cơ thể. Do vậy, nó có đặc tính co thắt.
- Lớp nội mạc tử cung: Là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một
lớp tế bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung.
Nhiều tế bào biểu mô kéo dài thành lông nhung, khi lông rung động thì gạt
những chất nhày tiết ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp.
7

Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Lớp niêm mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di
chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của estrogen, các tuyến tử cung
phát triển từ lớp màng nhầy xâm nhập vào lớp dưới màng nhầy và cuộn lại.
Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng
của progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn
của chu kỳ lên giống.
* Ống dẫn trứng (oviductus)
Còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo buồng trứng . Một đầu của
ống dẫn trứng thông với xoang bụng, gần sát buồng trứng có hình loa kèn,
trên loa kền hình thành một cái tán rộng và lô nhô không đều. Đầu kia thông
với mút sừng tử cung là một cái ống nhỏ ngoằn ngoèo. Cấu tạo ống dẫn trứng
gồm 3 lớp (1) ngoài cùng là lớp sợi liên kết, (2) lớp cơ trơn ở giữa và (3) lớp
niêm mạc bên trong có các tế bào thượng bì tạo thành nhung mao. Khi tế bào
trứng chín rơi vào loa kèn, nhờ nhung mao rung động và cơ trơn co bóp trứng
sẽ đi vè phía tử cung. Đường kính ống dẫn trứng từ 0,2-0,4 mm, chia làm hai
đoạn: đoạn ống dẫn trứng phía buồng trứng: phần đầu trên thông với xoang
bụng ở gần buồng trứng, được phát triển to tạo thành một cái phễu để hứng tế
bào trứng, loa kèn phủ toàn bộ buồng trứng. Loa kèn có nhiều tua, nhung mao
rung động để hứng tế bào trứng. Quá trình thụ tinh thường xảy ra khi trứng và
tinh trùng gặp nhau ở đoạn 1/3 phía trên ống dẫn trứng. Đoạn ống dẫn trứng
phía sừng tử cung gắn với mút sừng tử cung. Đoạn này phía ngoài là lớp liên
kết sợi, được kéo dài từ màng treo buồng trứng. Ở giữa là 2 lớp cơ, cơ vòng
phía trong và cơ dọc phía ngoài. Trong cùng là lớp niêm mạc được cấu tạo
bằng lớp tế bào hình trụ, hình vuông làm nhiệm vụ tiết niêm dịch. Phía trên
lớp niêm mạc có lớp nhung mao luôn luôn rung động để đẩy tế bào trứng hay
hợp tử xuống tử cung làm tổ.
8

Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
* Buồng trứng (ovarium).
Gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng và nằm trong xoang
chậu. Buồng trứng bên ngoài là một lớp màng liên kết sợi chắc như màng bao
dịch hoàn. Bên trong buồng trứng chia làm hai miền: miền vỏ và miền tủy,
hai miền đó được cấu tạo bằng lớp mô liên kết sợi xốp tạo ra cho buồng trứng
một chất đệm (Stromaovaris). Ở miền tủy có nhiều mạch máu và tổ chức tươi
xốp cũng dày hơn. Miền vỏ có tác dụng về sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình
trứng chín và rụng trứng.
Buồng trứng như một tuyến nội tiết của con cái, làm nhiệm vụ nuôi
dưỡng cho trứng chín và tiết ra những hoocmon sinh dục, tác động đến chức
năng của tử cung và thay đổi tính biệt giữa con đực và con cái.
Bên dưới lớp màng của buồng trứng là tế bào trứng nguyên thủy hay
còn gọi là tế bào trứng non (Follicunlin ovocyt primario). Khi noãn bao chín
thì các tế bào nang bao quanh tế bào trứng phân chia thành nhiều tầng tế bào
có hình hạt(Stratum granulosum).
Lúc noãn bao đã thành thục thì màng bọc nang, màng bao liên kết
buồng trứng tách ra, tế bào trứng được rời khỏi buồng trứng,cùng với dịch
nang, tế bào hạt đi vào loa kèn. Màng noãn bao rách xong liền lại ngay, các tế
bào hạt trong xoang phân chia nhanh thành một khối tế bào lớn để lấp kín
xoang noãng bao và trở thành thể vàng (Corpus luteum).
Thể vàng tồn tại phụ thuộc vào tế bào trứng được thụ tinh hay không
được thụ tinh. Nếu tế bào trứng không được thụ tinh thì thể vàng tồn tại
không lâu, rồi tiêu tan mất. Còn trứng đã được thụ tinh thì thể vàng tồn tại tới
khi sinh đẻ.Trong suốt thời gian có thai thể vàng tiết ra hooocmon
Progesteron.
Buồng trứng của lợn hình chùm dâu, có màu hồng vân, vị trí nằm ở 2
bên hốc bụng. Noãn bao thành thục có kích thước 0,8-1,2cm.
9

Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng
đặc trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó đựoc duy trì
qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. ngoài ra,
còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như ngoại cảnh điều kiện nuôi dưõng,
chăm sóc, sử dụng… Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái người
ta thường tập trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu sau đây:
2.2.1. Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ
sinh dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như:
Buồng trứng, tử cung, âm đạo… Đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu
phản xạ về tính hay xuất hiện hiện tượng động dục.
Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt
và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưõng.
+ Giống
Theo Phạm Hữu Dân và cộng sự (1985) , tuổi thành thục về tính của
lợn nái ngoại và lợn nái lai cũng muộn hơn lợn nái nội thuần chủng (Ỉ, Móng
cái, mường khương…) Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục vào 4
– 5 tháng tuổi (121-158 ngày tuổi). Lợn ngoại là 6 – 8 tháng tuổi, lợn lai F1
(ngoại x nội) thường động lần đầu ở 6 tháng tuổi.
+ Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn
nái. Cùng một giống nhưng nếu đựơc nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia
súc phát triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn và ngựơc lại.
+ Điều kiện ngoại cảnh
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.
Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về
tính sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.

10
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn cái
hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những
con cái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng. Theo
Paul(1996), nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ngày, với thời gian
15-20 phút thì 83% lợn cái( ngoài 90 kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài
hơn lợn nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao
đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi
động dục lần đầu sớm hơn.
2.1.2.2. Chu kỳ tính và thời điểm phối giống thích hợp
* Chu kỳ tính
Từ khi thành thục về tính những biểu hiện tính dục của lợn được diễn
ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển, lớn
dần, chin và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang
Graaf vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có
những biểu hiện ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ
nên động dục cũng theo chu kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005).
Chu kỳ tính ở các loài khác nhau là khác nhau ở giai đoạn đầu mới
thành thục về tính thì chu kỳ chưa ổn định mà phải 2-3 chu kỳ tiếp theo mới
ổn định. Một chu kỳ tính của lợn nái dao động trong khoảng 18-22 ngày,
trung bình la 21 ngày và đựơc chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước động
dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục, giai đoạn nghỉ ngơi.
* Giai đoạn trước động dục
Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1-2 ngày, là thời gian
chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng, cũng
như đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai.
Trong giai đoạn này, có sự thay đổi cả về trạng thái cơ thể cũng như

trạng thái thần kinh: ở giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh, thành thục
11
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
và nổi rõ trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh,
đầu giai đoạn này noãn bao có đường kính là 4mm, cuối giai đoạn noãn bao
có đường kính 10-12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh
trưởng, số lượng lông nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu sung huyết nhanh,
hệ thống tuyến, âm đạo tăng tiết dịch nhày, niêm dịch ở cổ tử cung tiết ra làm
cổ tử cung hé mở. Các noãn bao chin, tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Tử
cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra, niêm dịch chảy ra. Con vật bắt đầu xuất
hiện tính dục, âm hộ sưng lên, hơi mở có màu hồng tươi, cuối giai đoạn có
dịch nhờn chảy ra. Do hàm lượng Progesteron giảm xuống đột ngột nên con
vật giảm ăn, hay kêu rống, thích nhảy lên lưng con khác nhưng không cho con
khác nhảy lên lưng mình.
* Giai đoạn động dục
Đây là giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài từ 2-3 ngày, tính từ khi tế
bào trứng tách khỏi noãn bao. Giai đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh
dục rõ nét nhất, niêm mạc âm hộ sung huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang
màu mận chin, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, keo đặc hơn, nhiệt độ âm
đạo tăng từ 0.3- 0.7 oC, pH hạ xuống trước. Con vật biểu thị tính hưng phấn
cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng, ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, kêu rống
trong trạng thái ngẩn ngơ, thích nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác
nhảy lên lưng mình. Ở giai đoạn này lợn thích gần đực, khi gần đực thì luôn
đứng ở tư thế sẵn sang chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, hai chân
sau dạng ra và hơi khuỵ xuống sẵn sàng chịu đực.
Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ
tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở giai đoạn có
thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tuỳ loài gia súc thì chu kỳ sinh
dục mới bắt đầu lại. Nếu không xảy ra quá trình trên thị lợn cái sẽ chuyển

sang giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tính.
12
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
* Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ
quan sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường. Trên buồng
trứng, thể hồng chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7-8 mm và bắt đầu
tiết Progesterone. Progesterone tác động lên vùng dưới đồi theo cơ chế điều
hoà ngược làm giảm tiết Oestrogen, từ đó làm giảm tính hưng phấn thần kinh,
con vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh, chịu khó ăn uống hơn, niêm mạc
toàn bộ đường sinh dục tăng sinh, các tuyến ở cơ quan sinh dục ngừng tiết
dịch, cổ tử cung đóng lại.
* Giai đoạn nghỉ ngơi
Giai đoạn này kéo dài từ 10-12 ngày, bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi
rụng trứng mà không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ. Đây là
giai đoạn con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng
thái sinh lý bình thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt
đầu phát dục, nhưng chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh
dục dần xuất hiện những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
2.1.2.3. Sinh lý đẻ
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), gia súc cái mang thai trong
một thời gian nhất định tuỳ từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ,
duới tác động của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những
cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá
trình này gọi là quá trình đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có nhừng triệu chứng biểu hiện: truớc khi đẻ 1 -2
tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra
ngoài. Trước khi đẻ từ 1-2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những
thay đổi: âm môn phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm to, bầu vú căng

to, sữa bắt đầu tiết.
13
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia
súc đẻ:
+Trước khi đẻ 3 ngày, hang vú giữa vắt ra sữa trong.
+Trước khi đẻ 1 ngày hang vú giữa vắt được sữa đầu
+Trước khi đẻ ½ ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu
+Trước khi để 2-3 h, hàng vú sau vắt được sữa đầu
* Cơ chế đẻ: Đẻ là một quá trính sinh lý phức tạp chịu sự điều hoà của cơ chế
thần kinh - thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục:
- Về mặt cơ giới: thai sinh trưởng và phát triển một cách tối đa trong
tử cung mẹ. Ở thời kỳ cuối, thai tăng kích thước, chèn ép các cơ quan trong
xoang bụng và các cơ quan trong hệ tiết niệu - sinh dục, ép các mạch máu
vùng chậu hông và chèn lên đám rối thần kinh hông – khum. Các tác động
của thai tạo kích thich truyền về thần kinh trung ương, tác động đến quá trình
sản sinh các hóc-môn gây đẻ. Mặt khác tác động cơ giới của thai làm tăng tần
số và cường độ co bóp cơ trơn tử cung dẫn đến mở cổ tử cung và tạo điều
kiện để thai ra ngoài.
- Nội tiết: trong thời gian mang thai, thể vàng và nhau thai cùng tiết ra
Progesterone. Hàm lượng cao của progesterone trong máu tạo nên trạng thái an
thai. Đến cuối thai kỳ, thể vàng teo dần và mất hẳn nên hàm lượng Progesterone
giảm (chỉ còn 0,22%). Tuyến yên tiết oxytocin, nhau thai tăng tiết Relaxin làm
giãn khớp bán động hang và bán động ngồi và mở cổ tử cung; tăng tiêt
Oestrongen làm tăng độ mẫn cảm của cổ tử cung với Oxytocin trước khi để.
- Biến đổi trong mối quan hệ giữa cơ thể mẹ và thai: khi thai đã
thành thục thì sự phụ thuộc về dinh dưỡng với cơ thể mẹ không còn cần thiết,
lúc này thai đã trở thành một ngoại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài
bằng động tác đẻ.

Thời gian đẻ dài hay ngắn tuỳ từng loại gia súc, ở lợn thường từ 2-6 giờ,
được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.
14
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Sơ đồ cơ chế điều khiển quá trình đẻ
Ngoại cảnh kích
thích
Ngoại cảnh ức
chế
Vỏ não
Thuỳ trước tuyến yên
Vùng dưới đồi
Oestrogen
Progesteron
Sừng tử cung
Prostaglandin
Buồng trứng
Tế bào hạt Thể vàng
15
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
2.3. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái (Metritis)
2.3.1. Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), viêm tử cung là một quá trình
vật lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các
tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc
cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cộng sư (2000), bệnh viêm tử cung
ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau:

- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng
phương pháp thu tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn
tinh không được vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử
cung lợn nái gây viêm
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật
hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm
đạo truyền sang cho lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc
tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn tới viêm tử
cung
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm,
phó thương hàn, bệnh lao… gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau
đẻ không sạch sẽ trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện
xâm nhập và gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động
đực ( vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường
16
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Theo
Lê Văn Năm và cộng sự,1997).
Theo F.Madec và C.Neva (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở
đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát
triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
2.3.2. Hậu quả của bệnh viêm tử cung.
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan
sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình vật lý nào thì đều

ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát
triển của lợn con.
Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa
học nghiên cứu về bệnh và đưa ra những nhân xét có ý nghĩa rất lớn cho quá
trình chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), Trần Thị Dân (2004) khi lợn
nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau
- Khi lợn vị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co
thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có
thể bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử
cung tiết nhiều Prostaglandin, PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng
bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch
hoặc thoái hoá các mao quản ở tế bào nên giảm lưu lượng máu đi đến thể
vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng
Progesterone sẽ giảm làm cho tính trường lực co của cơ tử cung tăng nên gia
súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển, khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng
Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung
17
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ
mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong
giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiểm trùng tử cung,trong đường sinh dục thường có mặt
của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra độc tố làm ức chế sự phân tiết kích

thích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa.
Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu
chảy, còi cọc
- Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở
lại.
Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thuỳ
trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong
buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng
được.
Theo F.Madec và C.Neva (1995), ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà
người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhân thấy ở lợn viêm tử cung lúc đẻ là: chảy
mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra trong khi đẻ
ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống
không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi đẻ. Hiện tượng viêm tử
cung kéo dài tử lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn
đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhan đẫn đến hội chứng
MMA, từ đó làm giảm tỷ lệ nuuoi sống. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo
viêm bàng quang sẽ ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng.
Tóm lại, viêm tử cung có ảnh hưởng rất lớn. Để hạn chế bệnh, người
chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra biện pháp để
phòng và điều trị hiệu quả.
18
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
2.3.3. Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1985), bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể:
viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
2.3.3.1. Viêm nội mạc tử cung (Endometritis)
Theo NguyễnVăn Thanh (1999), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp

niêm mạc của tử cung, đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng
sinh sản của gia súc cái, nó cũng là thể bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong
các bệnh của viêm tử cung. Viêm nội mạc tử cung thường xảy ra sau khi gia
súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp làm niêm mạc tử
cung bị tổn thương, tiếp đó là các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus,
E.Coli, Salmonella, C.Pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus….
Xâm nhập và tác động lên lớp niêm mạc gây viêm
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), bệnh viêm nội mạc
tử cung có thể chia 2 loại….
- Viêm nội mạc tử cung thể Cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở
niêm mạc tử cung.
- Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn
thương lan sâu xuống duới tầng cở của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
*Viêm nội mạc tử cung thể Cata cấp tính có mủ(Endomestritis Puerperalis)
Lợn bị bệnh này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm. Con vật
có trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh.
Từ âm hộ chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những
mảnh tổ chức chết,… khi con vật nằm xuống dịch viêm thải ra ngày càng
nhiều hơn. Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch
viêm, có khi nó khô lại thành từng đám vẩy màu trắng xám. Kiểm tra qua âm
đạo, niêm dịch và dịch rỉ viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ
chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.
19
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
*Viêm nội mạc tử cung thể màng giả
Ở thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết
thương đã ăn sâu và tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Lợn nái
mắc bệnh này thường xuất hiện triệu chứng toàn thân rỡ: thân nhiệt tăng cao,
lượng sữa giảm có khi hoàn toàn mất sữa, kế phát viêm vú, ăn uống giảm

xuống. Con vật đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục
luôn thải ra ngoài hỗn dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức
hoại tử, niêm dịch…….
2.2.3.2. Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperalis)
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), Viêm cơ tử cung
thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Niêm mạc tử cung bị
thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm
niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba
quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu
bệnh nặng, can thiệp chậm có thể dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm
trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung
bị phân giải mà tử cung bị thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ : thân
nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn.
Mép âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm. Gia súc
biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra
ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên
có mùi tanh, thối. Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mac.
Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần
sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
2.2.3.3. Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis Puerperali)
Theo Đặng Đình Tín (1985), viêm tương mạc tử cung thường kế phát
từ viêm cơ tử cung. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện
20
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
những triệu chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu
hồng, sau chuyển sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bong. Sau đó các tế bào
bị hoại tử và bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm
có mủ, lớp tương mạc có thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình

trạng viêm mô tử cung (thể Perimetritis), thành tử cung dầy lên, có thể kế phát
viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch
nhanh, con vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ
ăn. Lượng sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu
hiện trạng thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ
thải ra ngoài rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có mầu nâu và mùi
thối khắm. Khi kích thích vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn,
rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch chảy ra nhiều hơn. Trường hợp một số vùng của
tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện được
trạng thái thay đổi vị trí và hình dáng của tử cung, có khi không tìm thấy một
hoặc cả hai buồng trứng. Nếu điều trị không kịp thời sẽ chuyển thành viêm
mãn tính, tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì quá trình thụ
tinh và sinh đẻ lần sau sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể dẫn tới vô sinh. Thể
viêm này thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ.
2.2.4. Chuẩn đoán viêm tử cung
Theo F.Madec và C.Neva (1995), xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì
bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì
đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng
mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng
khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng,
đen nhu kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kỳ sau sinh đẻ hay
xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viên tử cung mạn tính thường gặp trong thời
kỳ cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc
tử cung.
21
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có
những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết

tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn
nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.
Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ
chảy ra thì có thể là do viêm bang quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì
có thể bị nhầm lẫn.
Như vây, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối.
Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ
nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt
khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho
chính xác.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ
ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu
quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ đó
đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian
điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
Để chẩn đoán người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục bộ
cơ quan sinh dục và triệu chứng toàn thân, có thể dựa vào các chỉ tiêu ở bảng
sau:
Bảng 2.1. Các tiêu chí chẩn đoán viêm tử cung
STT Các chỉ tiêu để phân biệt Viêm nội mạc Viêm cơ
Viêm
tương mạc
1 Sốt Sốt nhẹ Sốt cao Sốt rất cao
2 Dịch viêm
Màu
Trắng xám,
trắng sữa
Hồng, nâu
đỏ
Nâu rỉ sắt

Mùi Tanh Tanh thối Thối khắm
3 Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ Đau rất rõ
4 Phản ứng co của cơ tử cung
Phản ứng co
giảm
Phản ứng
co rất yếu
Phản ứng
co mất hẳn
5 Bỏ ăn
Bỏ ăn từng bữa
hoặc hoàn toàn
Bỏ ăn hoàn
toàn
Bỏ ăn hoàn
toàn
22
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
• Đối với lợn nái sau khi đẻ có thể dựa trên cách tính điểm sau:
+ Số ngày chảy mủ, tính từ ngày đầu tới ngày thứ năm sau khi sinh, 1 ngày
= 1 điểm.
+ Bỏ ăn từ ngày đầu tới ngày thứ năm sau khi sinh, 1 ngày = 1 điểm, nếu
bỏ ăn một phần tính bằng ½ điểm.
+ Ngưỡng thanh nhiệt để tính sốt và số ngày bị sốt là 39.8
0
C, 1 ngày = 1
điểm.
• Tổng số điểm được dùng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của điểm
như sau:

+ Tổng số điểm dưới 1 điểm: Lợn không bị viêm tử cung
+ Tổng số điểm từ 2 – 5 điểm: lợn bị viêm tử cung ở thể viêm nội mạc
+ Tổng số điểm trên 6 điểm: Lợn bị viêm tử cung ở thể viêm cơ và
viêm tương mạc
Tóm lại: Chẩn đoán viêm tử cung cần rất cẩn thận phải theo dõi thường
xuyên vì mủ chảy ra ở âm hộ chỉ mang tính chất thời điểm và có khi bị viêm
tử cung nhưng không sinh mủ. và có thể nhầm với bệnh viêm đường tiết liệu
23
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
Phần III
NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG, NGUYÊN LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
- Khảo sát tình hình dịch bệnh tại Công ty giống lợn DABACO – Tân
Chi - Tiên Du - Bắc Ninh.
- Một số bệnh sinh sản thường gặp ở đàn lợn nái.
- Điều tra tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi
tại Công ty.
+ Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở lợn nái qua các năm.
+ Ảnh hưởng của mùa vụ đến bệnh viêm tử cung
+ Ảnh hưởng của lứa đẻ đến tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung
- Xác định ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung ở lợn mẹ đến bệnh tiêu
chảy ở lợn con.
- Theo dõi một số chỉ tiêu lâm sàng của lợn mắc bệnh viêm tử cung
- Thử nghiệm quy trình phòng và trị bệnh viêm tử cung ở lợn nái,
điều trị phối hợp bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con đang trong thời kỳ theo mẹ.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
- Đàn lợn nái ngoại đang trong giai đoạn sinh sản nuôi tại Công ty
- Đàn lợn con đang trong giai đoạn theo mẹ

3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp xác định các đại lượng
- Thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: tổng hợp từ sổ theo dõi của công ty
Số liệu sơ cấp: theo dõi trực tiếp trong thời gian tiến hành đề tài
- Các chỉ tiêu đánh giá
24
Khóa lu ậ n t ố t nghi ệ p Nguy ễ n v nă
Giang - l ớ p TYB-K51
3.3.2. Các chỉ tiêu tính toán.
Tổng số con phối lần đầu có chửa
-Tỷ lệ lợn phối = ×100
lần đầu có chửa (%) Tổng số con khỏi bệnh
Tổng số con mắc bệnh
-Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = ×100
Tổng số con theo dõi
Tổng số con khỏi bệnh
-Tỷ lệ khỏi = × 100
Tổng số con mắc bệnh
Tổng số con mắc bệnh lặp lại
-Tỷ lệ mắc lặp lại (%) = ×100
Tổng số con đã khỏi bệnh

3.3.3. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu lâm sàng
Để theo dõi một số chỉ tiêu lâm sàng chính như: thân nhiệt, màu sắc
dịch viêm, mức độ thu nhận thức ăn chúng tôi đã sử dụng những phương
pháp thường quy:
+Thân nhiệt: Dùng nhiệt kế thuỷ ngân để đo thân nhiệt, một ngày
đêm đo 2 lần: Sáng: 7 – 9h; Chiều: 16 -18h
+Màu sắc dịch viêm: Theo dõi, quan sát bằng mắt thường và ghi

chép.
+Bỏ ăn: Kiểm tra lượng thu nhận thức ăn và ghi chép.
3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm excel; sai khác có ý nghĩa được
kiểm định bằng phép thử Khi bình phương (χ
2
– test)
25

×