Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

tổng quan về tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.02 KB, 19 trang )

1

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ :

TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ, TRƯỚC HẾT LÀ ĐẦU
TƯ CÔNG.
TS TRẦN DU LỊCH
*

LỜI NÓI ĐẦU

Chủ đề của Báo cáo chuyên đề này được thực hiện theo sự phân công của Uỷ
ban kinh tế Quốc hội để trình bày tại cuộc Hội thảo “ Kinh tế Việt nam năm 2012 :
Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế”. Trong vài năm gần đây tôi
đã có nghiên cứu từng mảng các vấn đề có liên quan đến tái cơ cấu nền kinh tế,
trong đó có một số tham luận tại các cuộc hội thảo của Uỷ ban kinh tế Quốc hội
khoá 12 và trình bày trên một số Tạp chí nghiên cứu khoa học. Kế thừa những công
trình nghiên cứu có liên quan của chính mình và tham khảo các công trình nghiên
cứu khác, tôi khái quát, phát triển và hệ thống lại thành 15 điểm, bao quát 3 nội
dung : (1)Tái cơ cấu đầu tư trong tổng thể tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế; (2) Quan điểm định hướng tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư
công và (3)Kiến nghị chính sách, giải pháp và bước đi.
Về cách trình bày, tôi không theo cách trình bày nội dung chương, mục, mà trình
bày theo dạng kiến nghị với 15 điểm. Ở mỗi điểm thể hiện quan điểm của tác giả
đối với từng vấn đề có liên quan, bao gồm việc nhận định thực trạng và phương
cách giải quyết vấn đề đặt ra :

1. Cần đặt nội dung tái cơ cấu đầu tư trong tổng thể Đề án “ tái cơ cấu và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế…”theo nghị quyết 11/2011/QH13 ngày
9.11.2011của Quốc hội.
Tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh


tranh và hiệu quả của nền kinh tế, trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập với kinh
tế toàn cầu và khu vực đang là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong Chiến
lược 10 năm phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc
hội khoá 13( ngày 9.11.2011) về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012 đã
“ Giao cho Chính phủ khẩn trương hoàn thành đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh; thực hiện đồng bộ theo lộ trình thích hợp trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ Ba”.


Nghị quyết TW 3 ( khoá XI) tháng 10.2011 đề ra nhiệm vụ phải tập trung ưu tiên
trong giai đoạn 2011-2015, tái cơ cấu 3 lĩnh vực : đầu tư công; thị trường tài
chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và doanh nghiệp nhà nước,

*
ủy viên ủy ban kinh tế;phó trưởng đoàn ĐBQH.tp. Hồ chí Minh.

Nghị quyết số: 11/2011/QH13 ngày 9.11.2011, trang 2,3.
2

trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước.Như vậy về mặt quan điểm, vấn
đề tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công không phải là nhiệm vụ riêng biệt, mà
là một bộ phận trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, được thực hiện với lộ trình và
bước đi thích hợp.
Trong tổng thể nội dung tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư, mà trước hết là
đầu tư công đang được lựa chọn như là một trong các nhân tố “đột phá”, nhưng
thực tiễn 10 năm gần đây cho thấy: hiệu quả đầu tư của nền kinh tế ngày càng
giảm, cả khu vực nhà nước lẫn khu vực tư nhân có liên quan đến môi trường và
chính sách kinh tế vĩ mô; chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, tức liên quan
đến thể chế kinh tế. Do đó, không thể tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và

tái cơ cấu đầu tư nói riêng, nếu không bắt đầu từ việc đổi mới thể chế kinh tế. Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng rất đúng đắn khi xem đây là một trong 3 đột phá chiến
lược trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020.Tuy nhiên, đây là
lĩnh vực dù đầu tư ít tốn kém nhất, mang lại hiệu quả nhất, nhưng cũng khó làm
nhất, vì liên quan đến lợi ích của từng địa phương, từng ngành và từng “nhóm lợi
ích”.
Nếu hiểu “đầu tư công” bao gồm đầu tư của Nhà nước và đầu tư của các tổ
chức kinh tế nhà nước

thì vấn đề tái cơ cấu đầu tư công phải bao gồm cả 2 bộ phận
trên, nên việc tái cơ cấu đầu tư công không thể tách rời với tái cơ cấu DNNN ( các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước). Do đó, cách tiếp cận vấn đề tái cơ cấu đầu tư
công phải đặt trong mối quan hệ và gắn với nội dung tái cơ cấu DNNN.Hơn thế
nữa, khi giải quyết vấn đề tái cơ cấu DNNN, mà trọng tâm là các tổng công ty và
Tập đoàn kinh tế nhà nước không thể tách rời với việc làm rõ chức năng kinh tế của
Nhà nước trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường.Do đó, vấn đề trước tiên
là phải xây dựng một hệ thống quan điểm đồng bộ để làm cơ sở cho việc ban hành
cách chính sách phục vụ cho mục tiêu tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế dài hạn, trong đó sử dụng các chính sách thúc đẩy quá trình tái cơ
cấu đầu tư như một bước đột phá trong giai đoạn trước mắt.
2. Sự lồng ghép mục tiêu ngắn hạn với mục tiêu trung-dài hạn trong chính
sách kinh tế vĩ mô là cần thiết, nhưng cũng đang thể hiện sự lúng túng trong
chính sách kinh tế-tài chính hiện nay.Nguyên nhân sâu xa là trong một quá
trình dài chúng ta quan tâm nhiều đến kết quả, mà thiếu quan tâm đến
phương tiện tạo ra kết quả.
Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 2011-2015 đề ra mục tiêu "phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng năng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh" với chỉ tiêu
tăng GDP bình quân hàng năm 6,5-7%, đến năm 2015 quy mô GDP đạt khoảng
180-184 tỷ USD; GDP/ người đạt khoảng 1965-2000 USD.Trong bối cảnh các



Theo Luật quản lý nợ công, thì nợ công chỉ bao gồm : nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lĩnh và nợ của chính
quyền địa phương, không bao gồm nợ của DNNN.
3

chính sách kinh tế- tài chính của chính phủ phải tập trung vào nhiệm vụ kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, mà trong suốt 4 năm qua phải liên tục ứng phó
bằng những giải pháp tình thế,thì các mục tiêu nêu trên đang thực sự là những
thách thức lớn.
Thật vậy,sau 20 năm ( 1991-2010) tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh
tế, với mô hình tăng trưởng kinh tế dựa lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô; tăng
trưởng theo chiều ngang dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư, mở rộng nền công
nghiệp gia công hướng vào xuất khẩu… tuy đã thực hiện tốt sứ mệnh đưa nước ta từ
một nền kinh tế kém phát triển trở thành quốc gia có thu nhập trung bình( ngưỡng
thấp),chỉ số phát triển con người ( HDI) đạt mức trung bình của thế giới, thành
công ấn tượng trong mục tiêu giảm nghèo và cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và xã hội, nhưng đống thời cững bộc lộ những yếu kém từ nội tại cơ cấu của
nền kinh tế,trở thành nguyên nhân bên trong của tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô hiện
nay.
Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng (GDP) liên tục trong 20 năm đứng thứ nhì
khu vực châu Á, nhưng lại rơi vào tình trạng “ người béo nhưng không khoẻ, ốm
bệnh liên miên” phải có nguyên nhân sâu xa của nó. Sau Đại hội Đảng lần thứ XI
và nhất là sau Nghị quyết TW 3 ( khoá XI) nguyên nhân được thừa nhận rõ ràng
hơn là từ sự bất cập của mô hình tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là sự tăng trưởng kinh
tế của Việt nam trong 20 năm qua chưa tuân thủ nguyên tắc cố hữu và bản chầt
nhất của kinh tế thị trường là : sử dụng các yếu tố sản xuất hữu hạn ( tài nguyên tự
nhiên, lao động và vốn) nhằm tạo ra lợi ích cao nhất.Chỉ số TPF đóng góp vào tốc
độ tăng GDP ngày càng giảm, nhất là giai đoạn 2001-2010 là sự minh chứng rõ nét
nhất về mối quan hệ giữa việc sử dụng các yếu tố sản xuất với tốc độ tăng GDP của

nền kinh tế Việt nam.
Thật vậy, thử nhìn lại 4 kế hoạch 5 năm 1991-2010 sẽ thấy rõ hơn điều này: Tính
từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất là trong 5
năm đầu (1991-1995- riêng năm 1995 GDP tăng 9,5% mức cao nhất cho đến nay)
và kéo dài đến hết năm 1996 (GDP tăng 9,3%), trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng
tài chính khu vực (1997-1999). Có thể nói giai đoạn này là thời kỳ nền kinh tế có
sức bật mạnh nhất, nhờ động lực đổi mới thể chế kinh tế (chuyển từ cơ chế cũ sang
cơ chế mới- như sự bung ra của chiếc lò xo bị đè nén). Nhưng thời gian tăng trưởng
chỉ được 4 năm (1992-1996), cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã kéo lùi tốc độ
tăng trưởng kinh tế từ 1997 đến năm 2000, mà năm 1999 được xem là đáy của suy
giảm (GDP tăng 4,8%). Tại sao một nền kinh tế mới chớm bước vào thời kỳ đầu
của tăng trưởng, có ưu thế về tài nguyên, lao động và lợi thế tự nhiên về nông
nghiệp, chưa hội nhập vời nền tài chính khu vực, nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh
như vậy? Có thể lý giải bằng 2 nguyên nhân chính: (1) tăng trưởng dựa vào nguồn
đầu tư trực tiếp của các nước trong khu vực và xuất khẩu dựa vào sự trung gian của
các quốc gia này; (2) thể chế kinh tế chưa đồng bộ và đủ mạnh để phát huy năng
4

lực nội sinh của nền kinh tế (nội lực), nên dù quy mô nền kinh tế còn quá nhỏ vẫn
không “trụ” được.Trong thời kỳ này nhà nước đề ra chủ trương phát huy nội lực,
dựa vào nội lực là chủ yếu để phát triển, nhưng trên thực tế việc đổi mới thể chế
kinh tế không kịp thời và cũng không đáp ứng được chủ trương trên, nên thực chất
nền kinh tế vẫn lệ thuộc vào thị trường nước ngoài.
Bước qua giai đoạn 2001-2005, tình hình kinh tế khu vực và thế giới diễn biến
thuận lợi, cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 2000, nền kinh tế nước ta
như có một luồng sinh khí mới để phục hồi tốc độ tăng trưởng, nhưng chưa lấy lại
được tốc độ của giai đoạn 1992-1996. Năm 2005, tốc độ tăng GDP đạt mức cao
nhất của thời kỳ này cũng chỉ 8,4% và bắt đầu suy giảm dần từ 2006 (tăng 8,2%)
cho đến chạm đáy vào năm 2009 (5,32%), do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Năm 2010 nền kinh tế có hồi phục tăng trưởng

nhờ “gói kích thích kinh tế” áp dụng trong 2 năm 2009-2010, nhưng bước vào năm
2011 nền kinh tế lâm vào tình trạng tái lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô và dấu
hiệu trì trệ.
Như vậy trong 4 kế hoạch 5 năm từ 1991 đến 2010, thì trong 5 năm đầu (1991-
1995), nhờ vào cải cách đột phá về thế chế (chuyển sang thể chế thị trường) nền
kinh tế đã tự vượt qua cuộc khủng hoảng từ bên trong (1986-1988) và đặc biệt là
vượt qua sự hụt hẫng do mất chỗ dựa từ khối XHCN; trong 5 năm tiếp theo (1996-
2000) do động lực tạo ra sức bật giảm dần cùng với khủng hoảng tài chính khu vực,
nền kinh tế trở nên trì trệ; trong 5 năm kế tiếp (2001-2005) nhờ vào sự tiếp tục cải
cách thể chế (nổi bật là Luật doanh nghiệp năm 2000 và Luật đất đai năm 2003 ),
sự phát triển mạnh mẽ khu vực tư nhân trong nước (tốc tộ tăng trưởng của khu vực
tư nhân cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, cũng chính giai
đoạn này nền công nghiệp gia công phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng giá trị gia tăng so
với giá trị sản xuất (VA/GO) trong các ngành công nghiệp giảm sút; thị trường tiêu
thụ hàng ngoại nhập (thành phẩm và bán thành phẩm) tăng mạnh; tính chất tiêu thụ
của một nền kinh tế hiện ra rõ nét. Bên cạnh đó, do sự yếu kém về thể chế (luật
pháp, quản trị công, tiêu cực trong quản lý nhà nước ) đã tạo ra bong bóng của 2
thị trường: chứng khoán và bất động sản, mà sự bùng nổ của nó diễn ra trong 2 năm
2006-2007. Suốt trong năm 2006 cho đến quý 1/2007, cơn sốt chứng khoán đã làm
đảo lộn mọi hoạt động kinh tế, khi chỉ số VN-INDEX lên đến gần 1200 điểm vào
tháng 3/2007; giá đất đô thị tăng đến 4-5 lần (cá biệt có nơi tăng 7-8 lần) chỉ trong
6 tháng cuối năm 2007. Hậu quả của 2 bóng bóng này là nguyên nhân chủ yếu gây
nên cuộc " tiểu khủng hoảng" vào giữa năm 2008, khi bắt đầu có dấu hiệu của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong kế hoạch 5 năm cuối
cùng (2006-2010) của 20 năm thực hiện CNH-HĐH ( 1991-2010), thì mất 3 năm
tập trung sức để đối phó với tác động từ bên ngoài và khắc phục sự bất ổn từ bên
trong của nền kinh tế, nên những kết quả đạt được chỉ là những thành công ngắn
hạn, những lại bộc lộ rõ nét hơn về những bất ổn từ cơ cấu kinh tế.
5


3. Kinh tế Việt nam đang ở đâu khi tiến hành tái cơ cấu và chuyển đổi mô
hình tăng trưởng:Trọng tâm của nhiệm vụ tái cơ cấu kinh tế trong giai đoạn
2011-2020 là chuyểnmạnh nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất.
Điểm qua một vài nét chấm phá của 4 kế hoạch 5 năm vừa qua ở phần trên, để có
thể rút một số nhận định:
+ thứ nhất, chúng ta đã đi 2/3 đoạn đường của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước do
Đại hội VII (1991) đề ra, với 4 kế hoạch 5 năm, nhưng nền kinh tế chưa ra khỏi
giai đoạn 1 của 4 giai đoạn trong quá trình CNH ( 1: gia công, lắp ráp; xuất khẩu
thô, lao động rẻ, dựa vào nước ngoài; 2: hình thành công nghiệp phụ trợ, sản xuất
linh kiện phụ kiện, xuất khẩu tinh, phụ thuộc một phần nước ngoài (như Thái lan,
Malaisia ); 3: làm chủ công nghệ và quản lý, có năng lực tự sản xuất hàng hóa
chất lượng cao, quan hệ tương thuộc với nước ngoài (như Hàn quốc, Đài loan );4:
các nền kinh tế CNH hàng đầu thế giới).
+ thứ hai, từ Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) chúng ta đã chủ trương chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và định chế kinh tế-
tài chính quốc tế, mà đỉnh cao là gia nhập WTO cuối năm 2006. Đây là chủ trương
đúng đắn để rút ngắn quá trình CNH (rút ngắn 4 giai đoạn nêu trên), nhưng trên
thực tế đường như chúng ta không có hành động gì mang tính" chủ động"có hiệu
quả nhằm tạo ra sức mạnh nội lực để tham gia "cuộc chơi" này. Hệ quả là càng hội
nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, thì nền kinh tế dễ bị tổn thương trước sự biến
động của kinh tế thế giới. Mọi mục tiêu của các kế hoạch 5 năm dường như chỉ chú
trọng vào tốc độ tăng GDP, mà không chú trọng vào chất lượng tăng trưởng. Sự
tăng đột biến về đầu tư từ 2001 đến nay, làm tăng nhanh hệ số ICOR, cho thấy
trong 10 năm vừa qua chúng ta đã "trả giá" quá đắt cho mục tiêu tăng GDP (năm
1991, yếu tố vốn đóng góp 8,4% vào tốc độ tăng trưởng; lao động 16,9%; năng suất
tổng hợp 74,7% thì các con số trên vào năm 2000 là: 47,4%; 13,8% và 38,8%; năm
2005 là : 59,8%; 16,4% và 23,8%; năm 2007 là: 59,5%; 14,8% và 27,7% ). Như
vậy, từ năm 1991 đến nay, yếu tố vốn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế giảm đi
7 lần, nhưng sự tăng đầu tư đã không tạo được sự chuyển biến đáng kể tính chất
của nền kinh tế. (Chúng ta thường giải thích sự tăng nhanh hệ số ICOR là do đầu tư

vào hạ tâng kỹ thuật và xã hội. Điều đó là có thật, nhưng chính hạ tầng kỹ thuật
ngày càng tụt hậu so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.).
+ thứ ba,trong tất cả các kế hoạch 5 năm đều có nội dung" đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế", nhưng trên thực tế không có chính sách (thể hiện qua hệ thống luật
pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô) thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dường như chúng ta cứ an tâm rằng, mỗi năm giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp
trong cơ cấu GDP giảm và 2 khu vực còn lại tăng lên chút ít là cơ cấu kinh tế
chuyển dịch, mà ít quan tâm đến sự chuyển dịch cơ cấu giá trị trong từng nhóm
ngành kinh tế hay sự thay đổi về giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ trong cơ
cấu giá trị sản xuất của mỗi sản phẩm. Nếu xét về phương diện chính sách kinh tế
và sự điều tiết vĩ mô, thì trong suốt 20 năm qua, không thể hiện ý đồ về mục tiêu
6

chiến lược CNH của Nhà nước. Sự điều hành các kế hoạch 5 năm hoàn toàn không
có tác dụng định hướng cho sự vận động của thị trường, hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp, mà chỉ đối phó với sự tự phát của thị trường (trong và ngoài nước),
nên không đạt được các mục tiêu dài hạn.
Những điều rút ra như trên cho thấy, những bất ổn kinh tế vĩ mô tiềm ẩn từ nội
tại của nền kinh tế đang đặt ra hiện nay, là hệ quả không tránh khỏi của quá trình
20 năm thực hiện sự nghiệp CNH, nhưng không đạt được mục tiêu chiến lược (mục
tiêu có ý nghĩa quyết định để nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững trên con
đường CNH - là chuyền nền kinh tế từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 trong 4 giai
đoạn nói trên-).
4. Tiến hành đồng bộ 7 nhóm nội dung tái cơ cấu nền kinh tế.
Để nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và bền vững cần phát triển trên 3 trụ
cột : thể chế kinh tế; nguồn nhân lực chất lượng cao và kết cấu hạ tầng đảm bảo cho
tốc độ tăng trưởng kinh tế và cải thiện dân sinh. Thực hiện chiến lược 10 năm
2001-2010, nền kinh tế Việt nam có tốc độ tăng trưởng khá so với nhiều quốc gia
trên thế giới, nhưng do sự kéo dài quá lâu tình trạng tăng trưởng dựa trên lao động
rẻ, tăng nhanh vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thô và phát triển nền công nghiệp

gia công đã tạo nên sự bất ổn từ nội tại cơ cấu của nền kinh tế. Do đó trong 4 năm
qua dưới tác động không thuận lợi của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt nam
càng bộc lộ những yếu kém, mà thể hiện rõ nét là tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô,
phải liên tục áp dụng các biện pháp tình thế để ứng phó. Ba đột phá chiến lược
trong chiến lược 10 năm 2011-2020, do Đại hội XI của Đảng đề ra chính là những
giải pháp chủ yếu nhằm vào trọng tâm của bài toán phát triển.
Năm 2012 đã là năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm 2011-2015, phải đồng thời
giải quyết cả những vấn đề ngắn hạn và tính đến trung và dài hạn. Nhưng trên thực
tế thì những giải pháp trung và dài hạn phải "nhường chỗ" cho những giải pháp tình
thế nhằm ứng phó với lạm phát. Trong hơn 4 năm qua chúng ta vừa chống chọi với
khó khăn do tác động từ bên ngoài và bất ổn từ nội tại cơ cấu kinh tế, để duy trì
mức tăng trưởng kinh tế tối thiểu, giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh nên chủ
yếu vẫn tập trung cho các vấn đề ngắn hạn. Nhưng đã mất một năm của kế hoạch 5
năm 2011-2015, nên cần sớm có chính sách căn cơ để triển khai 3 khâu đột phá,
trong đó ưu tiên khâu thể chế kinh tế. Chính đột phá vào khâu thể chế kinh tế mới
tạo ra “lợi thế động” nâng cao sức cạnh tranh.
Với thực trạng nền kinh tế hiện nay, nhiệm vụ tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế cần có lộ trình và bước đi cần thiết, nhưng trước mắt cần tập
trung làm nhanh 7 nhóm vấn đề và mỗi nhóm có hệ thống chính sách riêng:
+ thứ nhất là phải tái cơ cấu nền công nghiệp, chuyền từ nền công nghiệp gia
công sang sản xuất ( bao gồm cả công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp);
+ thứ hai, tái cơ cấu đầu tư, trong đó ưu tiên đầu tư công dựa trên hai nguyên tắc
là phí tổn cơ hội và tính lan tỏa, tính đồng bộ; gắn liền với chính sách phân bố lại
nguồn lực để nâng cao hiệu quả sử dụng đối với mọi thành phần kinh tế;
7

+thứ ba, là tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó ưu tiên hệ thống ngân hàng
thưong mại và phát triển các định chế tài chính- tín dụng phi ngân hàng;
+thứ tư , tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó ưu tiên tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà
nước và phải sớm ban hành cho được luật về quản lý vốn kinh doanh của nhà nước;

+ thứ năm là tái cơ cấu thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa. Đã tới lúc
không phải cái gì xuất khẩu được là xuất, không chạy theo kim ngạch đơn thuần mà
phải tính toán giá trị nội địa hóa trong cơ cấu giá trị xuất khẩu và hiệu quả sử dụng
nguồn lực. Cần phát triển thị trường nội địa, tạo ra sức mua từ bên trong, đặc biệt
khuyến khích các doanh nghiệp trong nước làm chủ mạng phân phối nội địa;
+thứ sáu, tái cơ cấu thị trường lao động, gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo;
+thứ bảy cơ cấu lại các vùng và địa bàn kinh tế trọng điểm; xóa bỏ tư duy và
phương thức quy hoạch phát triển kinh tế địa phương theo ranh giới hành chính
tỉnh.
Hiện nay đang thực hiện chủ trương ưu tiên tái cấu trúc 3 lĩnh vực, trong đó có
đầu tư là đúng đăn, nhưng tôi cho rằng cần có đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh
tế gồm nhiều lĩnh vực và qua đó phân kỳ chính sách ưu tiên cho từng lĩnh vực trong
từng giai đoạn từ nay đến năm 2020, trong đó vấn đề cơ cấu lại thị trường cũng
cần được ưu tiên thực hiện đồng bộ ngay trong kế hoạch 5 năm này.
5. Đổi mới nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường: vấn đề tiên quyết để tái cơ cấu trúc đầu tư, trong đó có đầu tư
công.
Trước hết cần xác định rõ chức năng của Nhà nước trong kinh tế thị trường.Đây
là cơ sở để đổi mới nội dung thể chế kinh tế nói chung và tái cấu trúc đầu tư công
nói riêng.Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào thị trường
cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế; sự thất bại của thị trường
sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, tạo nên những cuộc
khủng hoảng kinh tế; thị trường không thay nhà nước thực hiện chức năng xã hội;
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây với các cơn “sốt” nhà đất, chứng
khoán, lương thực, thực phẩm… là minh chứng rõ nét về sự thất bại của thị trường
trong việc phân bố nguồn vốn đầu tư, làm méo mó thị trường, lãng phí nguồn lực
xã hội. Do đó, nhiều nhà kinh tế đã ví mối quan hệ giữa thị trường với Nhà nước

như “hai bánh xe” của một cỗ xe vận hành nền kinh tế; sự thiếu đồng bộ trong quá
trình vận hành của “hai bánh xe” này chính là điều, mà chúng ta thường nói là sự
bất cập trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của các nền kinh tế, vai
trò của Nhà nước càng đặc biệt quan trọng. Sự cạnh tranh doanh nghiệp, cạnh tranh
sản phẩm đã trở thành cạnh tranh quốc gia và 3 giác độ cạnh tranh này ngày càng
8

không thể tách rời, mà yếu tố cạnh tranh quốc gia đã và đang trở thành nhân tố
quyết định đối với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh
tranh sản phẩm trong quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế. Sức cạnh tranh của doanh
nghiệp và sản phẩm, trước hết dựa vào sức cạnh tranh của nền kinh tế và trong mối
quan hệ tác động qua lại giữa 3 chủ thể này, thì sức cạnh tranh của nền kinh tế có
vai trò là chủ thể dẫn đường. Do đó, có thể nói rằng chức năng quản lý kinh tế của
nhà nước là tạo ra các yếu tố dẫn dắt thị trường phát triển.
Hiện nay, dường như trong một số chính sách và quan niệm của một số
người đi lệch theo hướng cường điệu hóa vai trò của thị trường trong phát triển, mà
chưa thấy hết vai trò của Nhà nước. Thị trường hoạt động theo quy luật của “bàn
tay vô hình”, mà các quy luật đó giống như quy luật “nước chảy xuống chỗ trũng”.
Còn vai trò của Nhà nước can thiệp vào thị trường, là dẫn dắt dòng nước chảy theo
mục đích của mình (như đắp đê, khai mương, đặt máy bơm v.v…). Tức là quan hệ
giữa nhân tố khách quan của quy luật thị trường với ý muốn chủ quan trong mục
tiêu phát triển của Nhà nước không làm triệt tiêu lẫn nhau. Đây chính là điểm khó
khăn nhất về phương diện tư duy, cũng như hành động trong suốt quá trình chuyển
đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường và
cũng chính là điều bất cập trong cơ chế quản lý kinh tế hiện nay.
6. Một thể chế kinh tế ưu việt là có khả năng giải quyết tốt nhất những
khuyết tật của thị trường.
Về thuộc tính của kinh tế thị trường, cho đến nay vẫn bộc lộ 3 khuyết tật
lớn:(1) Luôn luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng

thừa hoặc khủng hoảng thiếu;(2) Vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh
nghiệp ít quan tâm đến lợi ích toàn cục, lợi ích cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại
môi trường, trốn tránh luật pháp gian lận thương mại v.v…) là những điển hình;(3)
Kinh tế thị trường về bản chất là mô hình làm giàu cho thiểu số; tự nó không thể
làm giàu cho mọi người.
Những khuyết tật trên, các quốc gia, tuỳ theo điều kiện lịch sử và đặc điểm của
mình và tùy theo mục tiêu của nhà nước đó đề ra những công cụ quản lý khác nhau.
Ngày nay, khi nói đến phát triển bền vững, tức là sử dụng vai trò của Nhà nước để
khắc phục 3 khuyết tật của thị truờng nói trên.
Nhà nước không bao cấp rủi ro cho doanh nghiệp, nhưng cũng không tạo ra những
rủi ro cho doanh nghiệp bằng các quyết định hành chính của mình. Hiện nay, hệ
thống pháp luật của nước ta trong quản lý kinh tế thị trường, tuy chưa hoàn thiện,
nhưng cũng đã phủ kín hầu hết các lĩnh vực. Nhưng thực tế hiệu lực và hiệu quả
quản lý Nhà nước về kinh tế chưa cao là do sự can thiệp của Nhà nước, ở nhiều cấp
chính quyền khác nhau, không phù hợp với sự vận động của thị trường. Nhưng mặt
khác Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể
tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra.Đầu tư công chính là
9

nhà nước sử dụng công cụ ngân sách để bổ khuyết cho thị trường nhằm hướng đến
mục tiêu phát triển bền vững.
7. Tiếp tục thực hiện chính sách tài chính công tích cực, nhưng phải có điều
kiện:
Trong nhiều năm nữa, nước ta còn phải thực hiện chính sách chủ động bội chi ngân
sách bằng con đường vay nợ để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội, thúc đẩy
nhanh quá trình CNH đất nước.Đó là chính sách tài chính công tích cực trong điều kiện
tích lũy của nền kinh tế còn thấp, tiết kiệm nội địa chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
bền vững.Nhưng chính sách này phải kèm theo các điều kiện rất nghiêm ngặt như : phải có
chiến lược nợ Chính phủ và nợ quốc gia rõ ràng; những điều kiện bảo đảm hiệu quả trong
đầu tư; khả năng trả nợ hàng năm, cả về VND lẫn ngoại tệ; tuân thủ nguyên tắc "phí tổn cơ

hội" và tính đồng bộ trong đầu tư; chi tiêu nhà nước thật sự tiết kiệm; cơ chế phân bố vốn
đầu tư minh bạch; cớ chế giám sát dòng vốn đầu tư chặc chẽ Tuy nhiên, thực tế trong các
năm qua, việc bội chi ngân sách nhà nước chưa thật sự tuân thủ các điều kiện nêu trên và
nhiều điều kiện khác nữa, nên chính sách “tài chính công tích cực” đã trở thành nhân tố
tiêu cực, có nguy cơ gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Nếu tiếp tục đầu tư như cách làm trong những năm qua thì hệ quả không chỉ tăng rủi
ro cho hệ thống tài chính, mà còn góp phần gây bất ổn vĩ mô ( lạm phát, nhập siêu…):
Trong nhiều năm qua, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa 12, đã liên tục tăng
mức bội chi và phát hành trái phiếu Chính phủ ( nhưng không tính vào bội chi) để phân bố
cho các ngành và địa phương đầu tư vào các lĩnh vực mà Quốc hội cho phép. Tuy nhiên,
chưa có sự đánh giá mang tính định lượng nào về hiệu quả của các dự án và công trình đã
sử dụng nguồn vốn này.Khi phân bố nguồn vốn đầu tư Bộ kế hoạch& đầu tư có đưa ra tiêu
chí để phân bổ, nhưng chưa thấy có sự đánh giá về kết quả thực hiện một cách cụ thể.Tình
trạng các ngành và địa phương đưa ra quá nhiều dự án, trong khi đó nguồn vốn rất hạn
chế, nên nơi nào, ngành nào "chạy" thủ tục sớm thì được chấp thuận và giải ngân sớm, nơi
nào chậm thì để lại. Cách làm này dẫn đến hệ quả là phá vỡ tính ưu tiên và tính đồng bộ
của đầu tư, tình trạng "vốn nằm" khắp nơi; ngân sách phải trả lãi, nhưng dự án thì phơi
sương phơi gió.Với cách phân bố vốn đầu tư như hiện nay,tôi có cảm tưởng là chúng ta
lâm vào tình trạng" phóng lao phải theo lao", vì nếu dừng lại chương trình hay dự án nào,
thì tiền đã bỏ ra trở thành "của đổ".
Đất nước ta khó khăn mọi điều, lĩnh vực nào, địa bàn nào cũng cần phải đầu tư, chứ
không chỉ ở địa bàn khó khăn hay ngành nào.Dĩ nhiên,phải có địa bàn và lĩnh vực cần phải
ưu tiên,nhưng phải kèm theo điều kiện.Nếu chúng ta nhìn ở giác độ toàn cục,thì ở địa bàn
khó khăn việc đầu tư là vì mục tiêu chính trị, xã hội; còn ngay địa bàn có lợi thế như Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, thì cũng phải đầu tư để nuôi nguồn thu chung cho đất nước,
chứ không chỉ vì nơi đó . Ví dụ, ưu tiên cho nông thôn, miền núi,biên giới thì nên thực
hiện theo chương trình quốc gia, có sự hỗ trợ của TW trong quá trình thực hiện,kể cả giai
đoạn thiết lập dự án, triển khai thực hiện, đánh giá kết quả, chứ không nên khoán trắng cho
địa phương, theo cách phân cấp như hiện nay; đầu tư cho dạy nghề phải tính đến "phần
10


mềm" tức là sự đồng bộ của việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên, đồi tượng tuyển sinh, sử dụng
sau đào tạo, chứ không chỉ việc xây dựng trường lớp; ngành y tế cũng vậy Do đó, không
thể phân bố đầu tư với một cách nhìn khá đơn giản là ngành hay địa bàn, mà phải cụ thể
đến từng dự án; thời điểm đầu tư,cách thực hiện để cân đối nguồn vốn với phương châm :
làm dự án nào phải dứt điểm đưa vào sử dụng; phải bảo đảm tính đồng bộ và tính lan tỏa
của từng dự án. Chúng ta chưa có cơ chế trách nhiệm về đầu tư kém hiệu quả.
8.Xác định ngưỡng an toàn của nợ công.
Cơ cấu nợ công ( theo khái niệm nợ công đã được định nghĩa trong Luật quản lý nợ
công) của nước ta hiện nay, chủ yếu là nợ dài hạn, nên chưa có áp lực lớn về khả năng trả
nợ. Ví dụ năm 2011 bố trí 85 ngàn tỷ để trả nợ so với 590 ngàn tỷ thu ngân sách ( tỷ lệ gần
15%), thì vẫn an toàn. Tuy nhiên, nếu phần thu còn lại sau khi trả nợ và chi thường xuyên
ngày càng giảm tiếp cận đến 0, thì việc vay nợ đã đến ngưỡng mất an toàn. Nếu một nền
tài chính công, mà việc bội chi liên tục để đầu tư trong 10 năm, mà không tạo ra được hiệu
quả của một nền kinh tế có khả năng tạo ra giá trị cao hơn ( tính tương đối)thể hiện sự
thặng dư cho "tái sản xuất mở rộng" ( căn cứ mức chênh lệch giữa nguồn thu và chi
thường xuyên+ trả nợ đến hạn),thì nguy cơ mất an toàn thực sự xảy ra.Nói cụ thể : nếu
năm 2001 bắt đầu bội chi bằng nguồn vay dưới nhiều hình thức để đầu tư,ở thời điểm chưa
có thặng dư giữa nguồn thu và chi thường xuyên, thì vào thời điểm 2010, phải có thặng dư
ngân sách cho đầu tư, sau khi chi thường xuyên và trả nợ đến hạn.Với cách tính như vậy
tôi đề nghị phân tích và đánh giá tình hình vay nợ trong 10 năm qua và xây dựng chiến
lược tài chính công trong 10 năm tới, khi đó mới có sở đánh giá về tính an toàn.Do đó, nếu
không có dự báo xa ở tầm quốc gia cũng như doanh nghiệp nhà nước,mà đến khi thấy sự
mất an toàn xuất hiện, thì thể chống đỡ kịp. Tình trạng này được gọi là “vỡ nợ”.
9. Giải quyết mối quan hệ giữa đầu tư và sự vận động của thị trường tài chính.
Trong giai đoạn 2001-2005,nền kinh tế Việt nam phục hồi sau tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực, tốc độ tăng GDP bình quân 7,5%/ năm. Trong giai đoạn
này tổng dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM tăng trung bình 23-24%/năm;bội chi ngân
sách dưới 5% GDP; tổng đầu tư xã hội/GDP khoảng 38%. Tình hình diễn ra tương đối
bình thường trong năm 2006 ( GDP tăng 8,3%; dư nợ tín dụng tăng 24%; bội chi ngân

sách 5% GDP ). Nhưng từ 2007, hiện tượng bất thường đã xảy ra: Dư nợ tín dụng của hệ
thống NHTM tăng đột biến và thậm chí ngược chiều với tốc độ tăng GDP (năm 2007 :
GDP tăng 8,6%; dư nợ tín dụng tăng 53,4%; năm 2008 : GD P tăng 6,4%, dư nợ tín dụng
tăng 27,6%; năm 2009 : GDP tăng 5,3 %, dư nợ tín dụng tăng 37,3%; năm 2010 : GDP
tăng 6,78%; dư nợ tín dụng tăng 31,19%-) và bội chi ngân sách ở mức 6-7%GDP; tổng
đầu tư xã hội đạt mức 42% GDP.
Qua quan sát thực tiễn tình hình, tôi có 3 nhận xét về nguyên nhân sau đây:
+ thứ nhất, bong bóng của thị trường chứng khoán và TTBĐS từ cuối năm 2006 đến
cuối năm 2007 đã tạo đột biến thị trường tín dụng và nó đã hình thành lượng tài sản ảo so
với nền kinh tế thực( sự chênh lệch giữa tài sản tài chính với tài sản thực ) mà lạm phát
trong 2 năm 2007-2008 đã sang bằng khoảng chênh lệch đó bằng một mặt bằng gía mới
.Sự tăng tín dụng các năm đó không tạo ra sự tăng tài sản thực đáng kể của nền kinh tế, mà
11

chỉ biểu hiện ở GDP danh nghĩa .Mặt khác, tăng nhập siêu đột biến trong 3 năm qua cũng
làm tăng tổng cung tiền ( quan hệ hàng-tiền), nhưng do nền kinh tế gia công, tỷ trọng giá
trị giá tăng trong cơ cấu giá trị hàng hóa thấp, nên dù tăng khối lượng tiền tệ, nhưng không
làm tăng GDP( ước khoảng 70- 80% giá trị nhập siêu vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết
bị chỉ chuyển hóa vào giá trị xuất khẩu, chứ không làm tăng trực tiếp GDP).
+ thứ hai, trong 3 năm qua 2008-2010, TTCK chủ yếu hoạt động ở thị trương thứ cấp,
mọi nguồn vốn hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp đều dựa vào hệ thống NHTM.
Chính trong giai đoạn này là thời kỳ mất cân đối cung -cầu “ dịch vụ tín dụng ngân hàng”,
nên cũng là giai đoạn tạo ra “mảnh đất màu mỡ “ cho các ngân hàng thương mại cỗ phần
nhỏ ra đời hoạt động, đua tranh làm bùng nổ tín dụng và nghiêm trọng hơn là gây rối thị
trường tín dụng; làm cho chính sách tiền tệ mất phương hướng, phải liên tục đối phó ngắn
hạn, nguy cơ bất ổn tăng cao. Trong bối cảnh cảnh đó cộng thêm tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến sự mất niềm tin của nhà đầu tư, nên
cả chứng khoán vốn lẫn chứng khoán nợ trên TTCK đều bế tắc. NHTM “một mỉnh một
chợ”. Lợi nhuận của NHTM tăng, nhưng rửi ro của cả hệ thống và yếu tố bất ổn kinh tế vĩ
mô không giảm, mà chỉ chuyển hóa hình thức mà thôi.

+ thứ ba,Tình trạng bội chi ngân sách triền miên ngày càng lớn như “chiếc thùng không
đáy”; đầu tư công thiếu đồng bộ và không tuân thủ nguyên tắc chi phí cơ hội đã góp phần
tăng nhanh hệ số ICOR.Trong năm 2009-2010,để thúc đẩy tăng GDP, khu vực đầu tư
công, bao gồm đầu tư ngân sách nhà nước và DNNN tăng nhanh, thu hút một khối lượng
tín dụng khá lớn; trong đó một phần bội chi ngân sách dựa vào tín dụng và phát hành.
Ngay cả cả trái phiếu của Chính phủ cũng dựa chủ yếu vào ngân hàng thương mại,phần
huy động trực tiếp từ công chúng chiếm tỷ trọng nhỏ.Nhìn chung, từ mọi thành phần kinh
tế lẫn ngân sách nhà nước đều dựa chủ yếu vào hệ thống ngân hàng thương mại. Một khối
lượng tiền khá lớn đưa vào khu vực này, nhưng do tiến độ đầu tư kéo dài, thiếu đồng bộ
nên không tạo ra khối lượng tài sản tương ứng, kéo chậm vòng quay của đồng tiền.
Ba nguyên nhân trên có thể giải thích hiện tượng tăng tín dụng bất thường trong 3 năm
qua và sự mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu của thị trường tài chính.Dĩ nhiên nguyên nhân sâu
xa từ cơ cấu của nền kinh tế, nhưng chính sách tài chính-tiền tệ, đặc biệt là chính sách tài
khoá; sử dụng công cụ đầu tư công có ảnh hưởng rất quan trọng đến định hướng tái cơ cấu
trúc nền kinh tế, mà dường như chúng ta chưa sử dụng có hiệu quả Do đó, vấn đề đang đặt ra
là : Phải sử dụng công cụ chính sách tài khoá nói chung và đầu tư công nói riêng để định
hướng cho thị trường tài chính cấu trúc lại; buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế phải tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp; phải giảm "nhiệt "hệ thống NHTM trong cơn
lốc tăng huy động vốn, tăng tín dụng;phát huy chức năng huy động vốn trực tiếp của TTCK
10.Tái cấu trúc lực lượng DNNN theo hướng sử dụng như công cụ để bổ khuyết
những “khuyết tật “ của thị trường.
Vấn đề cải cách Doanh nghiệp nhà nước chính là “tái cấu trúc “ lực lượng này để làm
tốt vai trò tham gia điều tiết thị trường, cung cấp tốt hơn các loại “hàng hoá và dịch vụ công
cộng” phục vụ mục tiêu phát triển bền vũng;
12

Nếu đứng trên quan điểm này để phân tích lực lượng DNNN hiện hữu, thì đang tồn tại 3
vấn đề sau đây : (1) nhập nhằng giữa doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận ( hình
thức công ty ) với định chế công phi lợi nhuận ( phi lợi nhuận không có nghĩa là bản thân tổ
chức đó hoạt không sinh lời, mà chủ sở hữu không thu lợi nhuận);(2)mặc dù tất cả các DNNN

hiện nay đều được chủ sở hữu ( nhà nước ) cho được hưởng cơ chế phi lợi nhuận ( nhà nước
không lấy lợi nhuận sau thuế như khu vục tư nhân chia cỗ tức chẳng hạn), nhưng trong hầu
hết các ngành có DNNN đều không “ dẫn dắt “ được thị trường, nếu bỏ cơ chế độc quyền.
Điều này cho thấy việc quản trị kém hiệu quả và (3)hai nhóm lãnh vực cần sự can thiệp mang
tính chủ đạo của lực lượng kinh tế nhà nước là : cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng và
các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời thấp, nhưng cần thiết cho quá trình CNH như cơ khí
chế tạo, công nghiệp phụ trợ, đầu tư cho TTBĐS sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển
công nghiệp công nghệ cao…nhưng dường như nhà nước lại “nhường” cho thị trường.Nhà
nước đầu tư phát triển lĩnh vực nào phải thể hiện quyết tâm chính trị của nhà nước, chứ
không phải để mặc DNNN cân nhắc hiệu quả tài chính đơn thuần.
Tái cấu trúc lực lượng DNNN để lực lượng này thực sự là sức mạnh vật chất, cùng với
thể chế kinh tế trở thành công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả. Đây là một nội dung rất
quan trọng, không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, mà còn gắn kết
được vấn đề đề kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.Một đạo luật để chế định vấn trên
đang là vấn đề bức xúc đối với các nhà lập pháp Việt nam.
11. Chuyển nền công nghiệp từ giai công sang sản xuất : Cần một đạo luật về
vấn đề này.
+ Chủ trương tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo
hướng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế trong điều
kiện hội nhập vói kinh tế toàn cầu và khu vực là chủ trương lớn của Đảng ( Đại hội
XI). Mặc dù Nghị quyết TW 3 ( khoá XI) đề ra yêu cầu tập trung tái cấu trúc 3 lĩnh
vực : đầu tư công;hệ thống ngân hàng thương mại và các tập đoàn tổng công ty nhà
nước trong những năm trước mắt,nhưng để có thể chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế từ chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thô, lao động rẻ, tăng vốn đầu tư,
phát triển công nghiệp gia công… sang nền kinh tế tăng trưởng dựa vào tăng giá trị
gia tăng, năng suất, hiệu quả… thì một trong các mục tiêu phải đạt được là : chuyển
nền công nghiệp gia công sang sản xuất; chuyền nền nông nghiệp xuất khẩu sản
phẩm thô sang chế biến Do đó, vấn đề khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ,
hình thành các “cụm liên kết sản xuất’ – cluster đang là vấn đề cần ưu tiên trong lộ
trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.

+ Vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ đã được Chính phủ đặt ra trong nhiều
năm qua, nhưng thiếu một hệ thống chính sách đồng bộ để dẫn dắt thị trường nên
hệ quả là sự thất bại của nhiều ngành công nghiệp sau nhiều năm thu hút đầu tư đầu
tư, nhất là FDI) mà điển hình nhất là công nghiệp ô-tô và công nghiệp điện tử.Ngày
24.12.2011 Thủ tướng ban hành Quyết định số 12/2011QĐ-TTg về chính sách phát
triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ, nhưng nội dung và địa vị pháp lý cùa Quyết
13

định này không đủ sức để thực hiện mục tiêu phát triển như nền kinh tế đang đòi
hỏi. Chính sách khuyến khích phát triển phải được chế định dưới hình thức một
đạo luật đủ sức tác động dẫn dắt thị trường, định hướng đầu tư cho các thành phần
kinh tế theo nguyên tắc : thông qua chính sách kinh tế Nhà nước tác động vào thị
trường, chính thị trường sẽ tác động vào hoạt động của doanh nghiệp.Chính sách
kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống, khi đã được luật hoá.
+ Phạm vi điều chỉnh : Luật này quy định các chính sách khuyến khích phát triển
4 nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ : (1) cơ khí; (2) điện tử-viện thống; (3) cao su-
plastic và (4) hoá chất. Công nghiệp hỗ trợ của 4 nhóm ngành trên phục vụ cho tất
cả ngành sản xuất công nghiệp của nền kinh tế; khuyến khích phát triển các “cụm
liên kết sản xuất”.
+ Đối tượng áp dụng : Các doanh nghiệp, nhà đầu tư; tổ cơ quan nhà nước có liên
quan trong lãnh đến công nggiệp hỗ trợ.; các dự án đầu tư phát triển công nghiệp
hỗ trợ và xây dựng các “cụm liên kết sản xuất”.
Cần nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về nội dung của luật ( trong đó các quốc
gia và vùng lãnh thổ như Hàn quốc; Đài loan khá thành công trong lĩnh vực này).
Trước mắt có thể xác định một số nội dung như :
+ Xác định nội dung của khái niệm công nghiệp hỗ trợ và ‘cụm liên kết sản
xuất”.
+ Những loại hình doanh nghiệp khuyên khích và không khuyến khích sản xuất
các ngành công nghiệp hỗ trợ ( gắn với chính sách phát triển doanh ngghiệp vừa và
nhỏ).

+ Nội dung các chính sách khuyến khích phátr triển công nghiệp hỗ trợ; đặc biệt
là chính sách thuế; đất đai, tín dụng; nội địa hoá sản phẩm…
+ Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan; vai trò của các định chế
hỗ trợ …
12. Khuyến khích phát triển mô hình đối tác công tư (PPP): khâu đột phá để
thực hiện “đột phá chiến lược” về xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tâng.
Loại hình đấu tư theo hình thức đối tác công tư ( Privite-public Partnership-
PPP) la mô hình huy động nguồn vốn khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực cung
cấp dịch vụ và hàng hoá công cộng, đặc biệt trong lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật và xã
hội, xử lý môi trường đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trong vài thập niện
qua.Đây là một hình thức xã hội hoá đầu tư nhằm mục dích vừa giảm gành nặng
của ngân sách nhà nước, vừa đẩy nhanh tiến dộ cung cấp dịch vụ hạ tầng kỹ thuật
và xã hội đáp ứng kịp thời ( và kể cả đi trước một bước) yêu cầu phát triển kinh tế
và cải thiện dân sinh.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương “ xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ “ là một trong 3 đột phá chiến lược trong giai đoạn 2011-
2020, nên cần tập trung huy động mọi nguồn lực, có thể có được để thực hiện mục
tiêu trên. Bên cạnh sự rất hữu hạn của nguồn vốn ngân sách, ước chỉ bảo đảm 20-
30% nhu cầu đầu tư, nên cần có chính sách để huy động các nhà đầu tư trong và
14

ngoài nước đầu tư vào hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông và
hạ tầng đô thị. Nguồn lực này chì có thể huy động bằng chính sách và cơ chế mang
tính đột phá đủ sức hấp dẫn khu vực tư nhân đầu tư, xây dự khuôn khổ pháp lý bảo
đảm cho qua trình xây dựng , triển khai thực hiện và sự vận hành của dự án đầu
tư.
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09.11.2010, kèm
theo Quy chế thí điểm, nhưng với địa vị pháp lý của một quyết định do Thủ tướng
ban hành nên tác dụng rất hạn chế về mặt chính sách và cơ chế hoạt động của hình
thức “ đối tác công tư”.Trên thực tế Quyết định nói trên không đủ bảo đảm một

khuôn khổ pháp lý để vận hành mô hình trên và không đủ mức hấp dẫn đối với nhà
đầu tư. Mặt khác nếu các địa phương và các ngành có điều kiện thực hiện hình
thức đầu tư này bắng các chính sách “sáng tạo” riêng của mình sẽ dẫn đến sự tuỳ
tiện trong chính sách và không bảo đảm sự an toàn về pháp lý cho các Bên.Do đó,
một đạo luật do Quốc hội ban hành là yêu cầu cấp thiết để thực hiện một chủ
trương lớn của Đảng về xã hội hoá đầu tư, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh:
+ Lĩnh vực được thực hiện theo hình thức công tư đối tác;
+ Quyền và nghĩa vụ của Nhà đầu tư được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư.
+ Quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có liên quan.
Nội dung luật:
Việc xác định nội dung luật cần phải được nghiên cứu trong quá trình xây dựng
dự án luật, kể cả nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài. Tuy nhiên trước mắt có thể
xác định một số nội dung như sau :
+ Xác định mô hình đầu tư “đối tác công tư ”; loại hình doanh nghiệp hoạt động;
+ Xác định lĩnh vực thực hiện mô hình trên.
+ Chính sách bù đắp cho nhà đầu tư để bảo đảm sinh lời trong qua trình đầu tư
như về đất đai; thuế; tín dụng ưu đãi; bảo lĩnh tín dụng; tham gia vốn của nhà
nước; cơ chế thu phí hoàn vốn và sinh lời…
+ Quyến và nghĩa vụ của nhà đầu tư;
+ Quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có liên quan : dự án thuộc bộ
ngành TW, thuộc chính quyền địa phương;
+ Cơ chế vận hành của dự án như quy trình thủ tục, ký kết hợp đồng…
13. Xây dựng Luật về thể chế tài chính công thay Luật ngân sách nhà nước hiện hành.
Chuyển nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước hàng năm thành luật ngân sách
hàng năm theo quy trình làm luật của Quốc hội.
Trong điều kiện của Việt nam, cần xây dựng một hệ thống quan điểm đồng bộ về xây dựng
một nền tài chính quốc gia dựa trên quan điểm “tài chính công tích cực”; sử dụng công cụ
chính sách tài khoá bội chi chủ động để xây dựng kết cấu hạ tầng và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế;nhưng chính sách trên là “con dao hai lưỡi”,nếu cơ chế quản trị công yếu kém sẽ có

tác dụng ngược lại. Để tái cơ cấu đầu tư công trước hết phải đổ mới căn bản phương thức
15

quản trị tài chính công, mà phương thức này liên quan đến cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước; phương thức phân bố đầu tư;cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả; quan điểm về vị
trí vai trò, chức năng của DNNN…, nên cần đặt vấn đền tái cơ cấu đầu tư công trong mối
quan hệ hệ thống để có bước đi cụ thể.Một trong những ưu tiên là : sửa đổi luật ngân sách nhà
nước theo hướng tách biệt 2 loại ngân sách : ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương,
theo hướng trở thành Luật về thể chế tài chính công. Nhà nước thống nhất về thể chế tài chính
công, còn thiết lập và thực thi ngân sách thì giao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương
đối với ngân sách địa phương ( HĐND quyết định); ngân sách quốc gia do Quốc hội quyết
định ( bao gồm phần trợ cấp cho địa phương); tiến tới việc xây dựng luật ngân sách hàng năm
theo quy trình xây dựng luật của Quốc hội, như thông lệ quốc tế; bảo đảm sự giám sát của
Quốc hội đối với ngân sách quốc gia và Hội đồng nhân dân đối với ngân sách địa phương.
14. Cải cách thể chế tài chính công theo hướng: minh bạch hoá quyền hạn và trách
nhiệm các cấp chính quyền.
Đổi mới công tác kế hoạch nhằm xác định rõ những nội dung kinh tế - xã hội
mà mỗi cấp chính quyền cần hoạch định; đồng thời tính toán sự cân đối các nguồn
lực tương ứng với các mục tiêu đã xác định, nhằm định hướng cho thị trường phát
triển. Đổi mới công tác kế hoạch và quy hoạch thực chất là xác định lại vai trò của
Nhà nước trong suốt quá trình dẫn dắt thị trường phát triển theo mục tiêu của mình.
Do đó, một trong các nhiệm vụ quan trọng của công tác quy hoạch kế hoạch là chỉ
dẫn và dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển.
Cần đổi mới nội dung và phương thức xác định các chỉ tiêu kinh tế - xã hội
hiện nay theo hướng chuyển từ tính chất pháp lệnh sang tính chất chỉ dẫn (
Indicated plan). Ví dụ như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động vốn đầu tư, chỉ số
tăng giá … mang tính chất dự báo để định hướng cho nhà đầu tư, không cần xem
đó là những trói buộc trong điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Trọng tâm của
công tác kế hoạch là Nhà nước đưa ra những tín hiệu mang tính chỉ dẫn để dẫn dắt
thị trường; đồng thời xác định các chính sách, biện pháp, giải pháp nhằm bảo đảm

các mục tiêu đề ra.
Về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần tập trung vào các chỉ tiêu phát
triển bền vững như các chỉ tiêu về an sinh xã hội, môi trường… nhằm trói buộc các
cấp chính quyền phải thực hiện nhiệm vụ của mình. Các chỉ tiêu về kinh tế, xét cho
cùng, chỉ là phương tiện; còn các chỉ tiêu về an sinh – xã hội mới là mục tiêu của
phát triển.
Thực hịên nguyên tắc phân quyền trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm bảo
đảm tính linh hoạt của thị trường là xu hướng chung của kinh tế thị trường thế giới
ngày nay. Xu hướng này ở nước ta thường gọi là mở rộng việc phân cấp của Chính
phủ cho chính quyền địa phương. Việc phân cấp cần được thực hiện trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản sau:
16

- Mở rộng phân cấp, nhưng đồng thời phải tạo cơ chế để tăng cường kiểm tra,
thanh tra, giám sát của chính quyền Trung ương đối với chính quyền địa phương.
Cụ thể là Chính phủ cần tập trung vào 3 nhiệm vụ: (1) hoạch định chính sách; (2)
ban hành các quy định và (3) kiểm tra giám sát chế tài vi phạm. Còn các quyết định
cụ thể liên quan đến đời sống kinh tế ở mỗi địa phương, nên để địa phương thực
hiện.
- Việc phân cấp cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của nền hành chính quốc
gia, bảo đảm tính chất của một nhà nước đơn nhất, nhưng phải đề cao tính tự chủ
của địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh của các địa
phương, các vùng kinh tế và các đô thị. Xu hướng chung của thế giới là mở rộng
quyền tự quản về ngân sách và cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị.
- Việc phân cấp cần được thực hiện theo hướng việc gì cấp dưới, địa phương
làm tốt thì giao cho cấp đó thực hiện; cấp nào giải quyết sát thực tế hơn, có điều
kiện thực hiện và có hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó.
- Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm toàn bộ, có thẩm quyền
đầy đủ (tự quyết, tự quản đối với công việc được giao; không trùng lắp giữa việc do
Trung ương làm với việc của địa phương làm và công việc giữa các cấp chính

quyền trong phạm vi một địa phương với nhau nhằm tránh sự đùn đẩy trách nhiệm,
chồng chéo, lẫn lộn, cản trở trong hoạt động).
Từ các nguyên tắc nêu trên, để nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý Nhà nước
cần tiến hành nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các đạo luật liên quan đến tổ chức bộ
máy hành chính Nhà nước như Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức HĐND và
UBND; Luật Ngân sách Nhà nước… Cần xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, trong đó bao gồm sự đặc thù của chính quyền ở nông thôn, đô thị , hải đảo
như đã được xác định tại Nghị quyết Đại hội Đảng X.
- Chuyển nền hành chính đang mang nặng mục tiêu quản lý, bao cấp trách
nhiệm dân sự của công dân sang nền hành chính mang tính chất phục vụ. Trong
nền kinh tế thị trường, Nhà nước không quản lý xã hội theo phương thức bao cấp
trách nhiệm dân sự của công dân hay nói cách khác là hành chính hóa các quan hệ
dân sự, mà Nhà nước cần nâng cao vai trò trách nhiệm của công dân trong các quan
hệ dân sự. Điển hình là trong các loại thủ tục hành chính tư pháp của nước ta dường
như Nhà nước đã làm thay trách nhiệm của công dân trong các quan hệ dân sự như:
hoạt động công chứng; thi hành án dân sự; hộ tịch … Tư duy bao cấp trách nhiệm
của Nhà nước trong các quan hệ dân sự đang để lại dấu ấn rất nặng nề trong hệ
thống pháp luật có liên quan. Cách quản lý này vừa không phù hợp với tính chất
của nền kinh tế thị trường, vừa làm cho bộ máy quản lý hành chính Nhà nước ngày
càng “phình to” nhưng bất cập.
Xây dựng nền hành chính phục vụ dựa trên cơ sở hình thành các tổ chức
cung cấp dịch vụ công, các định chế yểm trợ. Hiện nay luật pháp nước ta chưa chế
17

định các định chế cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận. Cần xác định rõ bản chất
của định chế cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận là các tổ chức cung cấp các dịch
vụ công cho xã hội như: y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, dịch vụ đô thị, hỗ trợ
pháp lý, hỗ trợ thông tin; các tổ chức khuyến nông, khuyến ngư v.v… do các thành
phần kinh tế và Nhà nước đầu tư; không phân biệt ai là chủ sở hữu được thành lập
để phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng, mà nhà đầu tư không thu

lợi nhuận về cho mình (nhà đầu tư không thu lợi nhuận không có nghĩa là tổ chức
đó không hoạt động kinh doanh, mà phải mang tính chất kinh doanh nhằm tích tụ
vốn để không ngừng phát triển). Để thực hiện vai trò này của Nhà nước cần sớm
xây dựng một đạo luật về các tổ chức dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật
này, thì vai trò quản lý Nhà nước chính là giám sát sự hoạt động của các tổ chức
trên, chứ không phải làm thay các tổ chức này.
15.Lành mạnh hóa thị trường bất động sản.
Việt nam là một rong những nước có diện tích đất tính theo đầu người thấp của
thế giới ( 0,37 ha đất tự nhiện/ người và 0,28 ha đất nông nghiệp/người). Trong số
hơn 33 triệu ha đất tự nhiên, thì có hơn 90% đã đưa vào khai thác sử dụng, chỉ còn
hơn 9% chưa khai thác.Diện tích đất nông nghiệp chiếm 79,2% và đất phi nông
nghiệp chiếm 11,2% diện tích đất tự nhiên.Theo số liệu thống kê đến 31.12.2010
Nhà nước đã giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng theo
luật đất đai là 24,996 triệu ha chiếm 75,53% diện tích đất tự nhiện.Hiện nay chưa
có số liệu chính xác có bao nhiêu phần trăm trong tổng số diện tích đất nêu trên có
đủ điều kiện để tham gia vào thị trường quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo quy
định của Luật đất đai hiện hành và trên thực tế giao dịch thì phần lớn các chủ thể có
quyền sử dụng đất được giao dịch trên thị trường quyền sử dụng đất dưới cách hình
thức chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp , nên có thề nói : thị trường quyền sử
dụng đất là thị trường có quy mô lớn nhất trong các loại thị trường ở nước ta và
có tác động mạnh nhất đối với đời sống kinh tế của đất nước. Kể từ khi ban hành
Luật đất đai năm 1993 ( thay thế Luật đất đai năm 1988) thừa nhận 5 quyền của
người sử dụng đất ( quyền chuyển đổi,; chuyển nhượng; cho thuê; thế chấp và thừa
kế) thì quyền sử dụng đât đã trở thành một loại ‘hàng hoá đặc biệt’, thực hiện việc
mua-bán trên thị trường với những điều kiện hạn chế của pháp luật, chịu sự kiểm
soát của nhà nước ( thông qua các quyết định thu hồi đất và giao đất).Đến Luật đất
đai năm 2003 ( hiện hành) thì quyền sủ dụng đất trở thành bất động sản chủ yếu
tham gia thị trường bất động sản ( trước đó vẫn là bộ phận chủ yếu của TTBĐS
nhưng chưa chính thức). Vấn đề này liên quan trực tiếp đến quan điểm của Đảng về
đất đai trong quá trình đổi mới, với sự thừa nhận thị trường BĐS ở Việt nam ( Văn

kiện Đại hội IX của Đảng năm 2001).
Từ Đại hội IX của Đảng đến nay, nhiều lần TW yêu cầu phải lành mạnh hoá
và phát triển TTBĐS, mà trong đó quyền sử dụng đất là bộ phận chính yếu, nhưng
có thể nói : trong những bất cập về quản lý kinh tế của đất nước, thì sự bất cập
18

trong quản lý TTBĐS là điển hình nhất. Nguyên nhân sâu xa của sự bất cập trong
quản lý thị trường BĐS xuất phát từ sự thiếu minh bạch và “không chính danh”
trong các quy định liên quan đến quyền sở hữu và quyến sử dụng đất. Cho đến nay,
về mặt vĩ mô, Nhà nước chưa có chính sách tài chính đồng bộ để điều tiết TTBĐS.
Chưa sử dụng công cụ thuế và phí để điều tiết lợi nhuận siêu ngạch trong kinh
doanh BĐS trong nhiều năm và chống đầu cơ đất. Các công trình hạ tầng kỹ thuật
xã hội Nhà nước đầu tư nhằm chỉnh trang và phát triển đô thị, nâng giá trị sử dụng
đất, tạo ra địa tô cấp sai rất lớn, nhưng người hưởng lợi không chịu một nghĩa vụ
tài chính nào. Khi tiến hành quy hoạch thì nảy sinh vấn đề như sẽ có một số người
hưởng lợi và sẽ có một số người bị thiệt hại một cách vô lý. Một số người có nhà
đang ở trong hẻm được giải tỏa ra mặt tiền, khi đó giá đất và giá nhà tăng vọt, trong
khi một số người đang ở mặt tiền thì bị giải tỏa với giá đền bù nhiều khi chưa bù
đắp được giá cả theo hiện trạng. Đây là sự bất công. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa
có chính sách thuế và phí để điều tiết tình hình này. Ở nhiều nước trên thế giới,
người ta sử dụng chính sách thuế và phí để giải quyết sự bất công đó. Hay như
trong vấn đề chống đầu cơ nền nhà, nhiều nước được quy định rất chặt chẽ và dùng
chính sách thuế để buộc nhà đầu tư phải đảm bảo cơ sở hạ tầng công cộng được
xây dựng hoàn thiện, trước khi bán nền cho người xây dựng nhà ở và tăng thuế
BĐS để chống lại hiện tượng mua đất bỏ hoang trong các khu đô thị, làm chậm tiến
độ xây dựng theo quy hoạch.Để phát triển thị trường BĐS cần phải sửa đổi đồng bộ
các đạo luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Xây dựng, Luật Kinh
doanh BĐS và kể cả luật về các tổ chức tín dụng. Tác động đến TTBĐS bao gồm
hệ thống pháp luật liên quan đến đất đai quy hoạch, xây dựng và pháp luật về tài
chính, nên việc hoàn thiện TTBĐS không thể chỉ dựa vào những đạo luật riêng rẽ.

Hiện nay đang tổng kết để sửa đổi Luật đât đai là cần thiết và quan trọng nhất,
nhưng cần rà soát tất cả các pháp luật có liên quan, như đã nêu trên để kiến nghị
Quốc hội sửa đổi bổ sung một cách đồng bộ; đồng thời nên chế định loại hình Quỹ
đầu tư tín thác BĐS (REIT) thành một định chế đầu tư giúp những nhà đầu tư
BĐS không chuyên có thể tham gia vào định chế này.
Kết luận: Tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công tuy đang là vấn đề bức xúc,
nhưng nó không thể giải quyết riêng rẽ, mà phải được đặt vào một hệ thống quan điểm
đồng bộ nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, với ít nhất 7 nội dung như đã nêu trên.Gắn liền với
đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế cần phải làm rõ những nội dung cần phải sủa đổi,
bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành mang tính đồng bộ.Không thể
chống đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, nếu chúng ta vẫn duy trì cách thiết lập và phân bố
ngân sách nhà nước, cách phân cấp quan lý đầu tư như hiện nay.




19

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010.
2. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.
3. Báo cáo "Tình hình kinh tế -xã hội 5 năm 2006-2010 và kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội 5 năm 2011-2015", tháng 10.2011; Chính phủ.
4. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015-nhiệm vụ tái cấu trúc nền
kinh tế và các giải pháp thực hiện; Ủy ban kinh tế quốc hội, tháng 10.2011.
5. Niên giám thống kê Việt nam từ năm 1995 đến 2010.
6.Bộ kế hoạch &đầu tư,2010. "Báo cáo về phân cấp đầu tư".
7.Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW;"Báo cáo tái cấu trúc kinh tế.";2009.
8. Bộ kế hoạch&đầu tư, " đề án tái cơ cấu đầu tư" tháng 12.2011.
9.Trần du Lịch, “ Nhận diện vấn đề và định hướng tái cấu trúc” tap chí Tài chính,

số 6, 2011.
10. Trần du Lịch; " Cần một đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế", Tạp chí
NCKT, Đại học kinh tế TP. HCM, xuấn 2012.
11. Trần du Lịch, "Nhận diện những vấn đề kinh tế đang đặt ra: thực trạng và giải
pháp", Hội thảo UBKT.Quốc hội ngày 23.9.2011.
12. Trần du Lịch, "Đổi mới thể chế kinh tế ", Báo cáo chương trình cấp nhà nước,
Kx 01/06-10, năm 2011.

×