Thảo luận tài chính công
Đề tài: Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị
trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào? Liên hệ những hình thức can thiệp đó trong
việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công của chính phủ Việt Nam hiện nay.
Bài làm
I Khái niệm, đặc điểm và phân loại chi tiêu công
1. Khái niệm
Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền,các đơn vị quản lý hành chính,các đơn
vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi chính phủ
2 .Đặc điểm
Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân
cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia
Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế_xã hội của nhà nước và
cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó nhà nước đã cung cấp một lượng hang hóa
công khổng lồ cho nền kinh tế
Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,chính trị ,xã
hội mà nhà nước thực hiện
Các khoản chi tiêu công do chính quyền nhà nước các cấp đảm nhận theo nội dung đã
được quy định trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và các khoản chi tiêu công này nhằm
đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý phát triển kinh tế_xã hội . Mặt
khác,các cấp của cơ quan quyền lực nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu ,nội dung
,mức độ của các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện các mục tiêu ,nhiệm vụ kinh tế,chính trị,xã
hội của quốc gia
Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng
Chi tiêu công tương ứng với những đơn đặt hang của chính phủ về mua hang hóa dịch vụ
nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời đó cũng là những khoản phải
Nhóm 11
1
Thảo luận tài chính công
chi cần thiết,phát sinh tương đối ổn định như :chi lương cho viên chức bộ máy quản lý nhà nước
,chi hàng hóa,dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng công cộng của các tần lớp dân cư…
Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện
ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn
lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công.
II Hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công
1.Vai trò của hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công
Quản lý chi tiêu công phản ánh hoạt động của Nhà nước đối với quá trình phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính công nhằm thực hiện tốt các chức năng của nhà nước, ảnh hưởng
trực tiếp đến các cân đối vĩ mô về tài chính, tiền tệ, giá cả trong nền kinh tế.
Đối với đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trườngđịnh hướng
XHCN, có sự điều tiết của Nhà nước, hàng năm Nhà nước đã thực hiện chi NSNN hàng chục
nghìn tỷ đồng thông qua các cơ quan tài chính và kho bạc Nhà nước (KBNN) để bảo đảm các mục
tiêu phát triểnkinh tế - xã hội của đất nước. Thông qua ngân sách nhà nước, chính phủ đã thực hiện
vai trò sau:
1.1 Xây dựng khuôn khổ pháp lý quản lý chi tiêu ngân sách hợp lí
Luật NSNN ban hành năm 1996 và qua các lần bổ sung, sửa đổi ở các năm 1998 và năm
2002 đã tạo ra khuôn một khổ pháp lý khá hoàn chỉnh trong việc phân định trách nhiệm giữa các
cơ quan nhà nước về quản lý chi NSNN: Quốc hội: Quyết định chi NSNN bao gồm chi NSTW và
chi NSĐP, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ.
Trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, quyết định mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo
dục, khoa học và công nghệ.Chính phủ: Quyết định giao nhiệm vụ chi cho các cơ quan trực thuộc
Chính phủ; quyết định giao nhiệm vụ chi cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW; quy định
nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách điạ phương; quy định hoặc phân cấp cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân sách.
Nhóm 11
2
Thảo luận tài chính công
Hội đồng nhân dân các cấp: Quyết định dự toán chi ngân sách, bao chi ngân sách cấp mình
và chi ngân sách địa phương cấp dưới; quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình và
mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
UBND các cấp: Lập dự toán ngân sách điạ phương; quyết định giao nhiệm vụ chi cho các
cơ quan trực thuộc; quyết định giao nhiệm vụ chi cho ngân sách cấp dưới; quy định
nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách điạ phương đối với một số lĩnh
vực chi được HĐND quyết định.
Các đơn vị sử dụng ngân sách: Tổ chức lập và thực hiện dự toán chi ngân sách thuộc phạm
vi quản lý; chi đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; các đơn vị sự nghiệp được
quyền chủ động sử dụng nguồn sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu qủa
hoạt động.
1.2. Giúp cải thiện tính minh bạch chi ngân sách
Tính minh bạch chi NSNN có tầm quan trọng trong việc giải trình trước công dân về việc
phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước và giải trình về chất lượng chi tiêu NSNN tổng thể. Tính
minh bạch chi NSNN cũng rất quan trọng đối với các nhà tài trợ – những người tất nhiên sẽ không
hài lòng khi họ hỗ trợ nguồn lực tài chính nhưng lại không có đầy đủ thông tin tin cậy để đánh giá
được số tiền tài trợ được sử dụng vào việc gì và sử dụng tốt như thế nào. Đối với Chính phủ cũng
như các cơ quan của Chính phủ, tính minh bạch tài chính có tầm quan trọng để nâng cao hiệu quả
quản lý chi tiêu ngân sách, Chính phủ đã ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước đồng thời
quy định một số công tác kế toán chủ yếu như chứng từ, sổ sách, báo cáo quyết toán, kiểm tra kế
toán; tính giá thành và phí lưu thông hàng hóa, bảo quản tài liệu kế toán. Nó đã góp phần quan
trọng đối với việc củng cố công tác kế toán trong các xí nghiệp, các đơn vị, tăng cường kiểm tra,
kiểm soát của tài chính Nhà nước .Tính minh bạch hoá việc sử dụng nguồn lực tài chính nhà
nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm mức bội chi NSNN và tỷ lệ lạm phát theo mục tiêu
đề ra của nền kinh tế.
1.3. Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực đát nước
Nhờ sự can thiệp của chính phủ, nước ta đã hình thành hệ thống định mức làm cơ sở phân
bổ ngân sách:
Nhóm 11
3
Thảo luận tài chính công
Sau khi ban hành Luật NSNN năm 1996, Chính phủ đã quyết định ban hành hệ thống định
mức chi tiêu ngân sách năm 1997 và các định mức thường xuyên sửa đổi. Những định mức được
tiêu chuẩn hóa và áp dụng cho các mục chi trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Dựa vào hệ thống định mức, chính quyền địa phương dự toán nhu cầu chi tiêu và phân bổ nguồn
lực tài chính… Có thể nói, phương pháp xác lập hệ thống định mức chi tiêu là một yếu tố quan
trọng trong việc xác định hiệu quả về phân bổ và hiệu quả về mặt kỹ thuật trong chi tiêu công. Thể
hiện :
Xây dựng ngân sách theo chương trình thông qua hoạch định chương trình đầu tư công.
Việc xây dựng chương trình đầu tư công cộng đã tạo ra một khuôn khổ thiết lập chương
trình chi tiêu công toàn diện, bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, qua đó giúp cho
Chính phủ kiểm soát tốt việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính trong dài hạn.
Chính sách của Chính phủ ưu tiên chi đầu tư hơn là chi thường xuyên. Điều này được thể
hiện khá rõ nét ở quan điểm đã nêu trong Nghị quyết do Quốc hội thông qua cho giai đoạn
1996-2000 là tốc độ tăng chi thường xuyên không được vượt quá tốc độ tăng chi đầu tư.
Nâng cao định hướng phục vụ người nghèo của chi tiêu công. Chính phủ đã thành công
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo, bao gồm cải thiện sự công bằng
trong chi tiêu cho các lĩnh vực giáo dục và y tế.
Công tác chi tiêu công của chính phủ giúp hướng tới mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy
nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới; tạo lập môi trường tài chính ngân
sách lành mạnh nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực; đảm bảo công bằng phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; ổn định và phát triển
nền tài chính quốc gia, góp phần tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, thực hiện xóa đói giảm nghèo.
2 .Nội dung các hình thức
2.1. Chính phủ tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó
Nhóm 11
4
Thảo luận tài chính công
Chi tiêu công là một phạm trù tài chính gắn liền với chức năng quản lý của Nhà nước và có
liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Hiệu quả quản lý chi tiêu công được đặt ra
trong bối cảnh là nguồn lực tài chính của mỗi quốc gia có sự giới hạn nhất định, nhưng làm thế
nào để thỏa mãn tốt những nhu cầu cần thiết nhằm đạt các mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị, xã
hội của Nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước đã làm nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu quả quản lý chi
tiêu công. Điều này được biểu hiện bằng việc Nhà nước đã xây dựng khuôn khổ pháp lý về quản
lý chi ngân sách; cải thiện tính minh bạch chi ngân sách; hoàn thiện cơ chế phân bổ nguồn lực tài
chính nhà nước.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng cần cân
nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị
trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính đáng và
thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở
việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện
nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những
dịch vụ phúc lợi.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn định kinh tế
vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá
công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã
hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một
cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền…Ví dụ như là quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai
trò tối quan trọng của Nhà nước. Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá
hoàn toàn khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn
vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở
đây, bảo vệ cho một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người
tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.
Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp
tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh
doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho
những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả
Nhóm 11
5
Thảo luận tài chính công
kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính
xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc
phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính
công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế. Một nền kinh tế không thể "cất cánh" được
trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của
hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các
nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là
hàng hoá công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng
hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn và nó có lợi
cho tất cả mọi người. Do vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên
tầm vĩ mô.
Hàng hóa công cộng
Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và không thể
loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên
Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng
hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém
nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc
phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn
không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có
thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào
xem.
Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá
nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng
nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó.
Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì
người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng
không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
Nhóm 11
6
Thảo luận tài chính công
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc
phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một
người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể
phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.
Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó
ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những
người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau.
Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó
có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc,
cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.
Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương
Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia.
Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công
cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính
sách lưu thông tiền tệ, v.v…
Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công
dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc
mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng địa phương tiêu
biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v…
Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp
trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng
hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem
lại.
Ví dụ 1 :
Tiêu biểu cho chương trình chi tiêu công là Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong
Nhóm 11
7
Thảo luận tài chính công
các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998.
Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-
TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1
từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến
năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn
1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010).
Giai đoạn I(1997-2006)
Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã
đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng
chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ
ngành và các đại diện đoàn thể xã hội.
Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là:
• Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số;
• Phát triển cơ sở hạ tầng;
• Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế,
nước sạch
• Nâng cao đời sống văn hóa.
Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự
án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công),
miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v...
Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và
các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và
thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I
kết thúc, Nhà nước Việt Nam đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử
dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền
Nhóm 11
8
Thảo luận tài chính công
núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cũng có đánh giá rằng hiệu quả của
Chương trình 135 còn chưa cao, nhiều mục tiêu chưa thực hiện được.
Giai đoạn II (2006-2010)
Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc
biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương
trình 135.
Mục tiêu tổng quát
• Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất
• Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường.
• Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
• Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước.
• Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.
Nội dung chính chương trình
Nhà nghèo trước khi chưa có chương trình
• Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của
đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến
bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc,
gia cầm có giá trị.
• Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân
sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức
hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2,
trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ
thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác
nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây
dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết.
Nhóm 11
9
Thảo luận tài chính công
• Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao
năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm
trường, công trường và xuất khẩu lao động.
• Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu
tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm
sóc sức khỏe cộng động.
Một số dự án của chính phủ cho chương trình 135
Các dự án nông, lâm, khuyến ngư phát triển các ngành nghề: cung cấp cho người nghèo
những kiến thức kỹ năng, lập kế hoạch, phân bổ thích hợp sản xuất, nâng cao công nghệ sản xuất
để họ tạo được thu nhập ổn định. Chính sách hỗ trợ ngư dân tổng kinh phí năm 2008 là trên 2100
tỷ đồng. Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí. Thống kê cho thấy
, nhóm chính sách này lên tới 5 loại, trong đó có thuế sử dụng đất nông nghiệp, tiền thuê mặt đất-
mặt nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… Việc áp dụng các loại thuế này,
nhiều đối tượng đã được hưởng lợi, tạo thuận lợi lớn cho người dân, doanh nghiệp ở vùng khó
khăn
Các dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đặc biệt khó khăn: Ngân sách TW
hỗ trợ sẽ là 800.000.000/ năm theo chương trình 135. Năm 2005, tỉnh Lào Cai nâng cấp 532 công
trình với tổng chiều dài 1.400km và 93 cây cầu; gần 300 công trình thủy lợi, tưới tiêu cho 6 ngàn
ha lúa và hoa màu. Tỉnh Thanh Hóa, từ năm 1999 đến 2006 trên địa bàn 102 xã đặc biệt khó khăn
của tỉnh Thanh Hóa đã có 503 công trình cơ sở hạ tầng nông thôn được xây dựng và hoàn thành,
với tổng kinh phí đầu tư 277,5 tỷ đông. Năm 2008, chính phủ đã dành 3.800 tỷ đồng cho chương
trình 135 giai đoạn II, hỗ trợ đầu tư rất quan trọng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng
mới được hơn 500 công trình trong phạm vi cả nước, chủ yếu là các chương trình về hạ tầng giao
thông, giáo dục, y tế và tăng cường nhận thức pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số… tính
đến nay, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ của nhà nước, các tổ chức trên thế giới đã hỗ trợ
khoảng 300 triệu USD cho chương trình 135 của Việt Nam . Kết thúc năm 2008, Chương trình đã
có 110 xã hoàn thành mục tiêu: 93,7% xã cơ bản đã có các công trình thiết yếu về cơ sở hạ tầng;
61% xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo phục vụ sản xuất.
Về cơ bản thì đạt được mục tiêu: phát triển cơ sở hạ tầng các xã nghèo, hoàn thành các
công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu. nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại: cuối năm 2003, phát
Nhóm 11
10
Thảo luận tài chính công
hiện sai phạm 8 tỷ đồng trong việc chi cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho dân tộc thiểu số, một số
công trình không tính đến hiệu quả lâu dài: Ninh Thuận công trình thủy lợi không hiệu quả trong
mùa khô, chưa đưa vào sử dụng, Đập Phà Sắc 3km đường ống nước bị gãy.
Cung cấp hàng hóa công
Chính sách trợ giúp kinh tế: cung cấp dịch vụ y tế nhiều hơn cho người nghèo, để giảm rủi
ro đối với họ. Một chính sách thân thiết khác là khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6
tuổi. Được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2009 đã có 21 triệu người được thụ hưởng. Tổng kinh
phí để mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo trong giai đoạn 2005-2009 là trên 8.500 triệu lượt
người nghèo được cấp thẻ BHYT và khoảng 90% được khám chữa bệnh bằng thẻ.
Chính sách hỗ trợ giáo dục: nâng cao số lượng trẻ em được đến trường, phát triển trình độ
giáo dục cho người nghèo bằng cách thực hiện các chương trình hỗ trợ như: cho vay vốn ưu đãi
sinh viên ĐH, CĐ thuộc diện hộ nghèo, khó khăn ( Ngân hàng chính sách xã hội còn có 597 phòng
giao dịch ở các quận huyện nơi đang theo học tại các trường ĐH, CĐ để làm thủ tục vay vốn ưu
đãi); các học bổng cho các sinh viên nghèo hiếu học, miễn giảm học phí cho học sinh thuộc diện
hộ nghèo, hoàn cành khó khăn. Năm 2007, 5 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí,
năm 2007-2008 có hơn 750.000 học sinh, sinh viên đã được vay vốn học tập gần 5.169 tỷ đồng.
Trong đó, số hộ nghèo chiếm hơn 14%, hộ cận nghèo 67%, hộ khó khăn gần 15%. Theo đánh giá
của Ngân hàng chính sách xã hội, sau hai năm thực hiện quyết định 157 của thủ tướng chính phủ
về đào tạo, đối tượng và chính sách ưu đãi được mở rộng hơn, số tiền cho vay của chương trình đã
tăng lên 47 lần so với chín năm trước đó. Số học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được thụ
hưởng cũng tăng gấp 14 lần.
Chính sách về nước sạch và nhà ở: cung cấp cho người nghèo đặc biệt là dân tộc thiểu số
về nhà ở và nước sạch để xóa đói giảm nghèo bền vững. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà
ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Về nhà ở: mức giao diện tích đất tối thiểu 200m
2
cho mỗi hộ đồng bào sống ở nông thôn.
Căn cứ quỹ đất ở và khả năng ngân sách của địa phương. Ngân sách TW hỗ trợ với mức 5 triệu
đồng/ hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và
huy động sự giúp đỡ của cộng đồng.
Nhóm 11
11