ĐỀ BÀI
Những yếu tố tác động tới sự biến đổi
1. Kinh tế (tăng trưởng hay lạm phát)
2. Chính trị (quan điểm lãnh đạo và các chính sách xã hội, hệ tư tưởng)
3. Văn hóa (sự truyền bá những lối sống mới)
4. Xã hội (loại hình tổ chức đời sống xã hội)
5. Khoa học kỹ thuật và công nghệ
6. Môi trường tự nhiên
7. Yếu tố dân số
Các vấn đề trình bày còn dàn trải, chưa tập trung. Vấn đề chính cần giải quyết là
các yếu tổ (kể trên) tác động như thế nào đến sự biến đổi xã hội. Hay Bản chất
của biến đổi xã hội là thay đổi cấu trúc, văn hóa của xã hội. Vậy những yếu tố
của biến đổi xã hội làm thay đổi cấu trúc xã hội như thế nào????????????????
BÀI LÀM
I – ĐẶT VẤN ĐỀ
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định
của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đổi
bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có
bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến đổi trong xã
hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này cho thấy rõ hơn là sự biến
đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở thành chuyện thường ngày. Mọi cái
đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khác, không ngừng vận
động và thay đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một thực trạng đứng yên trong sự
vận động liên tục. Có nhiều cách quan niệm về sự biến đổi xã hội, như:
Phạm vi rộng: biến đổi xã hội là một sự thay đổi so sánh với một tình
trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước;
Phạm vi hẹp: biến đổi xã hội là sự biến đổi về cấu trúc xã hội hay tổ chức
xã hội của xã hội đó, mà sự biến đổi này ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các
thành viên của một xã hội;
Ở Việt Nam, xã hội cũng luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sau đây
là một số yếu tố đã và đang tác động làm biến đổi xã hội: yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, Khoa học kỹ thuật và công nghệ, môi trường tự nhiên, dân số
Đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, các yếu tố trên
đang tác động làm biến đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tất cả mọi mặt của xã hội.
Đặc biệt là từ sau đổi mới 1986 đến nay nó tác động làm biến đổi về mọi mặt một
cách rõ rệt…
Sau đây nhóm em xin trình bày sâu vào hai yếu tố tác động tới sự biến đổi
xã hội mà nhóm nghiên cứu :
1. Chính trị (quan điểm lãnh đạo và các chính sách xã hội, hệ tư
tưởng)
2. Văn hóa (sự truyền bá những lối sống mới)
Vậy chính trị (quan điểm lãnh đạo của Đảng và các chính sách xã hội, hệ
tư tưởng),văn hóa (sự truyền bá những lối sống mới) nó tác động tới sự biến đổi
xã hội như thế nào ??
Những yếu tố trên nó tác động có tính hai mặt: mặt tích cực làm xã hội
phát triển theo chiều hướng tốt đồng thời có cả mặt tiêu cực phải khắc phục.
II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Yếu tố chính trị (quan điểm lãnh đạo và các chính sách xã hội,
hệ tư tưởng) tác động tới sự biến đổi xã hội.
Tính đến thời điểm hiện nay, đổi mới ở Việt Nam đã trải qua hơn 1/5 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian đó, ở Việt Nam đã diễn ra rất nhiều biến đổi trên các lĩnh
vực của đời sống. Trong những biến đổi đó, có biến đổi xã hội, tức là biến đổi về
mặt xã hội, phương diện xã hội của xã hội tổng thể. Có thể nói, đã đủ thời gian
cho việc tổng kết, đánh giá những biến đổi này. Nó cần thiết chẳng những cho
nhận thức mà còn cho việc hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng và điều
chỉnh chính sách, luật pháp, cơ chế quản lý của Nhà nước, hướng tới phát triển
và theo đuổi các mục tiêu phát triển bền vững.
Những biến đổi xã hội ở Việt Nam sau năm đổi mới những biến đổi ở thời
kỳ đương đại, nó đã và đang diễn ra, nó sẽ còn tiếp tục diễn ra, cùng với tiến trình
đổi mới.
Biến đổi xã hội ở Việt Nam, một mặt là hệ quả trực tiếp của đổi mới xã hội
nói chung, trong tổng thể, chỉnh thể của nó, nhất là từ đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, cùng với những tác động vừa trực tiếp vừa sâu xa của những đổi mới,
những biến đổi về văn hoá, về môi trường và hoàn cảnh xã hội. Và điều này
cũng không kém phần quan trọng, những biến đổi xã hội đã tác động trở lại đối
với những biến đổi kinh tế, chính trị và văn hoá. Tác nhân xã hội là điều không
thể không tính đến trong sự nhận diện, phân tích và đánh giá về đổi mới, phát
triển và tiến bộ xã hội ở Việt Nam nói chung. Mặt khác, đổi mới ởViệt Nam còn
gắn liền với mở cửa và hội nhập quốc tế. Đây chẳng những là sự thay đổi căn bản
về tư duy, nhận thức đối với phát triển mà còn thay đổi cả về cách thức và mô
hình phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới của thế giới toàn cầu.
a. Đường lối của Đảng và chính sách xã hội
Khi đi vào đổi mới, áp dụng cơ chế thị trường và từng bước phát triển nền kinh
tế thị trường, tư duy lãnh đạo và quản lý về lĩnh vực xã hội, về vai trò và tầm
quan trọng của chính sách xã hội trong quản lý đã có sự thay đổi về căn bản.Bước
tiến này trong nhận thức xã hội và phát triển xã hội được tạo ra từ thực tiễn đổi
mới kinh tế
Trước đổi mới (từ 1985 trở về trước), ở Việt Nam chỉ có kinh tế kế hoạch
hoá tập trung với vai trò tuyệt đối của Nhà nước trong quản lý kinh tế mà thực
chất là Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh tế, từ Trung
ương tới địa phương, bằng phương thức mệnh lệnh hành chính. Đó là nền kinh
tế hiện vật và bao cấp, đi liền với phương thức phân phối bình quân, không
thể hiện tính khách quan của quy luật giá trị, quy luật thị trường.
Trên thực tế, Nhà nước độc quyền sản xuất - kinh doanh. Trong quan hệ
sở hữu chỉ có sở hữu Nhà nước (đại diện cho sở hữu xã hội) và sở hữu tập thể.
Không có kinh tế tư nhân, không có thị trường và càng không có cạnh tranh.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện tập trung ở công nghiệp và nông nghiệp do Nhà nước
chi phối. Mô hình kinh tế này cùng với phương thức phân phối bình quân chia
đều đã không thể phát triển trong điều kiện bình thường, nó thiếu hụt động lực
nội tại để phát triển. Sau chiến tranh, sự trì trệ, lạm phát và khủng hoảng đã xảy
ra như một tất yếu.
Đổi mới đã tìm thấy lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng ở giữa thập kỷ 80. Với việc phát triển mạnh mẽ nền sản xuất hang
hoá và kinh tế hàng hoá, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh
tế, chú trọng phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, chú trọng lợi ích cá nhân của
người lao động, xã hội đã nhanh chóng chuyển trạng thái từ trì trệ sang năng
động. Khoán sản phẩm và khoán tới hộ gia đình nông dân ở nông thôn là một đột
phá quan trọng của đổi mới kinh tế. Đòn bẩy lợi ích kinh tế và sự thừa nhận lợi
ích cá nhân là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội đã nhanh chóng tỏ rõ tác dụng
tích cực, đóng vai trò là động lực của phát triển. Nhờ đó, kinh tế không biệt lập,
tách rời khỏi xã hội, trái lại gắn liền với xã hội. Những quan niệm trừu tượng về
xã hội được khắc phục nhường chỗ cho những quan tâm cụ thể, thiết thực
về lợi ích thường nhật, nhu cầu thường nhật, hợp lý, chính đáng của con người
với tư cách là chủ thể sản xuất - kinh doanh, vị trí, vị thế của cá nhân, cá thể
được coi trọng, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường.
Quan tâm tới các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế đã dẫn đến một
bước tiến tiếp theo là đặt đúng vị trí của các vấn đề xã hội trong phát triển và thấy
rõ sự cần thiết phải đầu tư cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, làm thay đổi
quan niệm về chính sách xã hội.
Đây là đầu tư cho phát triển kinh tế, vì mục đích trực tiếp phát triển kinh
tế và mục đích sâu xa là phát triển con người - nguồn lực quan trọng và quyết
định nhất của phát triển xã hội. Đầu tư cho các vấn đề xã hội để giải quyết việc
làm, nâng cao mức sống dân cư, phát triển giáo dục, y tế, các dịch vụ xã hội
và phúc lợi công cộng chính là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển.
Nó không còn là một thứ "phụ gia" đi kèm theo kinh tế, coi như đầu tư cho
không, không sinh lợi, chỉ đầu tư sau khi đã đầu tư cho kinh tế như quan niệm
trước đây.
Chính sách xã hội không thụ động đi sau chính sách kinh tế, trái lại nó gắn
liền với kinh tế, thúc đẩy kinh tế trong khi vẫn chịu sự chi phối từ tiềm lực vật
chất của kinh tế. Với đổi mới và kinh tế thị trường, chính sách kinh tế và chính
sách xã hội gắn liền với nhau trong một thể thống nhất, tạo ra sự thống nhất kinh
tế - xã hội với xã hội - kinh tế vì mục tiêu phát triển con người và xã hội, cá nhân
và cộng đồng.
Biến đổi xã hội này có tầm quan trọng chiến lược, bởi nó làm thay đổi
nhận thức từ chủ thể lãnh đạo, quản lý, có thẩm quyền ra các quyết sách, đường
lối và chính sách. Chú trọng tới lợi ích và nhu cầu trong đời sống của con người
là chú trọng tới nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất và của phát
triển xã hội nói chung
Biến đổi xã hội này còn có ý nghĩa sâu xa và to lớn hơn nữa, ở chỗ, mọi
chính sách phải hướng tới phục vụ lợi ích và phát triển các tiềm năng sáng tạo
của con người, coi con người là mục tiêu và động lực của đổi mới và phát triển,
do đó con người trở thành tiêu điểm của mọi chính sách. Đây là định hướng nhân
văn của phát triển xã hội.
Sau những năm đổi mới cùng với các chính sách phát triển kinh tế. Đảng
và Nhà nước đã ban hành một hệ thống chính sách xã hội hướng vào phục vụ lợi
ích và phát triển toàn diện con người như: Chính sách giải quyết việc làm và thu
nhập, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, chính sách dân tộc và tôn giáo, chính
sách đối với người có công với đất nước
Nhờ đó Việt Nam đã đạt được những thắng lợi to lớn về kinh tế - xã hội. Từ
một nước cái gì cũng thiếu nay đã dư thừa, từ chỗ lạc hậu về cơ sở hạ tầng nay
từng bước xây dựng hiện đại. Nói chung nước ta trở thành một nước có nền kinh
tế năng động, ổn định và phát triển nhanh.
Tuy nhiên để thu hẹp khoảng cách giữa Việt Nam với nước phát triển còn
rất nhiều chính sách chúng ta phải giải quyết, những chính sách xã hội: nổi lên
gay gắt như: Người chưa có việc làm, thiếu việc làm ngày càng tăng. Sự phân
hoá giàu nghèo tăng nhanh tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia tăng,
trong các chính sách nêu trên lao động và việc làm đang là một sức ép lớn, là một
trong những chính sách có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhân loại nói
chung và của mỗi quốc gia nói riêng trong đó có Việt Nam chúng ta.
Hiện nay Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước do đó việc nghiên cứu chính sách giải quyết việc làm có ý nghĩa rất thiết
thực, chính sách giải quyết việc làm và chống thất nghiệp là một trong những tiêu
chí bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, là chính sách xã hội cơ bản góp phần
đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
b. Nhà nước đã thực hiện các chính sách giải quyết việc làm
Việt Nam luôn chú trọng và ưu tiên phần vốn ngân sách nhà nước cho
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Kết quả đầu tư ngân sách nhà nước
đối với chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm như sau: Năm 2006 ngân
sách nhà nước đầu tư cho chương trình là 265 tỷ đồng; năm 2007 là 300 tỷ đồng;
năm 2008 là 327 tỷ đồng; năm 2009 là 413 tỷ đồng.
Vốn ngân sách nhà nước cho chương trình việc làm tăng đều qua các năm,
trong đó bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm hàng năm tăng khá: năm 2006
bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm là 235.000 triệu đồng; năm 2007:
250.000 triệu đồng; năm 2008: 250.000 triệu đồng; năm 2009: 313.000 triệu
đồng.
Năm 2006- 2007 tạo việc làm cho hơn 3,2 triệu lao động, ước tính năm
2008 tạo việc làm cho 1,615 triệu lao động (đạt 95% kế hoạch). Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị hàng năm đều giảm (năm 2006: 5,1%; năm 2007: 4,91%, năm
2008: ước đạt 4,9%). Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn giảm dần (năm 2006:
5,86%; năm 2007: 5,79%, năm 2008: ước đạt 5,75%).
Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đạt yêu cầu và còn yếu so với các nước
trong khu vực. Tỷ lệ lao động được đào tạo của nước ta tuy vẫn tăng đều qua các
năm nhưng đến nay vẫn chỉ đạt 24% tổng lao động (tỷ lệ tương ứng của các nước
trong khu vực là 50%). Tỷ lệ đào tạo lao động có bằng cấp còn thấp (tăng khoảng
7,3%/năm) và chưa tương ứng với nhu cầu lao động có đào tạo cho phát triển
kinh tế. Cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, theo trình độ còn nhiều bất cập. Chất
lượng thấp làm lao động Việt Nam mất thế cạnh tranh, ngay cả ở thị trường lao
động nội địa. Với chất lượng nguồn nhân lực như hiện tại, khi hội nhập với thị
trường lao động quốc tế, lao động Việt Nam sẽ mất lợi thế và phải chấp nhận
nhiều thiệt thòi.
Năng suất lao động của Việt Nam hiện tại còn thấp, đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế còn hạn chế. Trong các năm 2006- 2008, năng suất lao động chung
của nền kinh tế tăng từ 22,5 lên 26,5 triệu đồng/năm. Trong điều kiện tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong 2 năm đầu của kế hoạch 2006- 2010 là tương đối khả quan
nhưng năng suất lao động của nền kinh tế vẫn không được cải thiện nhiều thì sự
chững lại của tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 và có thể cả trong một vài
năm tiếp theo sẽ còn làm chậm hơn nữa tốc độ tăng của năng suất lao động.
Về xuất khẩu lao động: Trong 10 tháng qua, cả nước đã đưa được khoảng
72.500 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt khoảng 85,0% kế hoạch năm.
Trong khi đó, rất nhiều người chuyển nguyện vọng sang các nước châu Âu, úc,
Canada, Mỹ, Hàn Quốc… Chưa bao giờ hoạt động xuất khẩu lao động lại ở trong
tình trạng phân hoá thị trường và nguồn lao động mạnh mẽ như hiện nay…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều yếu kém bất cập:
- Tác động chủ động trong chuyển dịch cơ cấu lao động không rõ, hình
thành một cách tự nhiên hơn là có sự điều tiết chủ động. Lao động khu vực nông
nghiệp giảm, nhưng không hẳn là đã dịch chuyển sang khu vực công nghiệp - xây
dựng hay dịch vụ mà cả triệu lao động là nông dân sau khi bị thu hồi đất, rất ít
người tìm được việc làm mới. Số còn lại là thất nghiệp. Trước đây, lao động nông
nghiệp chỉ thiếu việc làm - không có thất nghiệp toàn phần, thì nay số lao động
thất nghiệp toàn phần có xu hướng tăng lên.
- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu dẫn đến thường
xuyên có lao động mất việc làm; hằng năm, lại có thêm 1,1 triệu người bước vào
độ tuổi lao động, khoảng nửa triệu học sinh, sinh viên, người học nghề tốt nghiệp
ra trường nhưng hệ thống chính sách chưa bảo đảm cho người lao động cần
việc là có việc; chưa bảo đảm ổn định tương đối lực lượng lao động sản xuất kinh
doanh trong những thời gian nhất định. Người sử dụng lao động khu vực ngoài
quốc doanh, thường xuyên thay đổi lực lượng lao động bằng cách ký nhiều hợp
đồng lao động ngắn hạn. Hơn nữa, từ phía người lao động, nhiều người bỏ việc,
tự do di chuyển nơi làm việc mà luật pháp, chính sách không kiểm soát được.
- Việc làm ăn kém hiệu quả của không ít các tập đoàn kinh tế, các tổng
công ty, các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến nợ nần quá lớn; việc nhập siêu với
mức độ quá cao (4 tháng đầu năm 2008 bằng cả năm 2007) đã buộc Chính phủ
phải cắt giảm nhiều công trình đầu tư càng làm cho số lao động thiếu việc làm,
mất việc tăng lên.
- Tiền lương của người lao động danh nghĩa đã thấp, đã lạc hậu, giá cả lại
tăng “chóng mặt” làm cho tiền lương thực tế giảm tới mức “hẫng hụt” cũng là
nguyên nhân làm cho thị trường lao động biến động mạnh
c. Đảng đã đưa ra các giải pháp
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về lao động – việc
làm: Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động, nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm,
Luật Tiền lương tối thiểu; xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; kịp thời ban hành những
chính sách liên quan tới giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động để
khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư phát
triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm, đẩy mạnh mở rộng thị trường nhận lao
động Việt Nam; Phê chuẩn các công ước và khuyến nghị của tổ chức lao động
quốc tế (ILO) về lao động, việc làm và thị trường lao động; các thông lệ quốc tế
và cam kết quốc tế liên quan của Việt Nam trong hội nhập…
Thứ hai, hoàn thiện quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và
cấp giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm cho các doanh nghiệp giới thiệu việc
làm; đầu tư nâng cao năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm.
Thứ ba, có chính sách hỗ trợ người lao động trong quá trình đào tạo và đi
xuất khẩu, cũng như nên có chính sách bảo vệ người lao động ở nước ngoài khi
họ gặp khó khăn hay bị người quản lý lao động có những hành động không đúng
pháp luật.
Thứ tư, xây dựng quỹ bảo vệ và hỗ trợ người lao động ở nước ngoài trên
cơ sở đóng góp của các công ty xuất khẩu lao động và người đi lao động nước
ngoài theo một tỷ lệ phù hợp. Thành lập hiệp hội bảo vệ quyền lợi người lao
động đi xuất khẩu, hoặc nâng cao vai trò của công đoàn trong lĩnh vực này nhằm
không để bất cứ người lao động đi xuất khẩu bị thiệt thòi hay bị ngược đãi.
Thứ năm, thành lập Trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao
động nhằm hình thành một hệ thống đồng bộ từ thu thập, xử lý tới phân tích, dự
báo, quản lý và cung cấp thông tin thị trường lao động theo các cấp trình độ, các
ngành nghề, lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu về đào tạo và phát triển kinh tế của các
vùng, ngành, các khu công nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý các dự án, hoạt động trong
Chương trình trong việc cho vay giải quyết việc làm, đầu tư nâng cao năng lực
các Trung tâm giới thiệu việc làm… Phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ bảy, tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác
lao động việc làm. Tiếp tục mở nhiều các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiến
bộ và đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng giao tiếp thực hành cho người lao động để
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài.
Tám là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động thế giới và các
nước để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp cho việc xuất khẩu lao động sang
các nước, tránh để tình trạng phân tán như hiện nay.
Chín là, kiểm soát và giám sát chặt chẽ thị trường xuất khẩu lao động để
hạn chế tình trạng lừa đảo hoặc đẩy chi phí xuất khẩu lao động lên quá cao gây
thiệt hại và khó khăn cho người có nhu cầu xuất khẩu lao động
2. Tác động của yếu tố văn hoá tới sự biến đổi xã hội
a . Khái niệm văn hoá
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952 , hai nhà nhân loại học
Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định
nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được
đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo
cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại theo cách gọi của Châu Âu),dân gian
học, địa văn học, văn hóa học, xã họi học , và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó
định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau.
Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất Văn hóa là sản phẩm của loài
người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và
xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình
hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của
con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà
do con người tạo ra.
b. Tác động của văn hoá tới sự biến đổi xã hội
Những nhà lí thuyết hiện đại hoá từ Karl Marx tới Daniel Bell đã cho rằng
sự phát triển kinh tế sẽ mang tới những biến đổi văn hoá phong phú. Nhưng
những người khác từ Max Weber tới Samuel Huntington lại tuyên bố rằng những
giá trị văn hoá là những ảnh hưởng lâu dài và tự trị lên xã hội. Họ có đợt thử
kiểm tra luận điểm rằng phát triển kinh tế được liên kết với những biến đổi mang
tính hệ thống trong những giá trị cơ bản
Sử dụng những số liệu từ ba đợt khảo sát của Những cuộc khảo sát những
giá trị thế giới, bao gồm 65 xã hội và 75% dân số thế giới, họ phát hiện thấy
những bằng chứng của cả sự biến đổi văn hoá rộng lớn và sự duy trì những
truyền thống văn hoá khác nhau. Sự phát triển kinh tế kết hợp với những biến
chuyển từ những chuẩn mực và giá trị tuyệt đối hướng tới những giá trị duy lí,
khoan dung, tin tưởng và tham dự ngày càng tăng lên. Biến đổi văn hoá, tuy thế,
lại là một con đường độc lập. Những di sản văn hoá rộng mở của một xã hội - Tin
Lành, Công giáo, Chính thống, Khổng giáo hay Cộng sản - để lại một dấu ấn lên
những giá trị, tồn tại bất chấp sự hiện đại hoá. Hơn thế nữa, những khác biệt giữa
những giá trị được nắm giữ bởi những thành viên của những tôn giáo khác nhau
trong những xã hội đó nhỏ hơn nhiều so với những khác biệt giữa các quốc gia.
Một khi đã được tạo lập, những sự khác biệt liên văn hoá như vậy trở thành một
phần của một dân tộc được truyền phát bởi những thiết chế giáo dục và truyền
thông đại chúng. Họ kết luận với một số những biến đổi được đề xuất của lí
thuyết hiện đại hoá.
c. Sự truyền bá những lối sống mới
Việt Nam ngày nay đang trong quá trình vận động và biến đổi mạnh mẽ.
Sự biến đổi này biểu hiện trên nhiều phương diện - không chỉ ở các phương diện
kinh tế, chính trị, xã hội quen thuộc, mà còn cả ở các phương diện văn hóa và lối
sống với mọi biểu hiện vừa đa dạng vừa sinh động của nó.
Những xu hướng biến đổi trong văn hóa và lối sống ở Việt Nam, cũng
như những nguyên nhân, những yếu tố ảnh hưởng đến những biến đổi đó:
1- Việt Nam ngày nay đang ở trong quá trình vận động và biến đổi mạnh
mẽ. Sự phát triển theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hoá về thực chất
sẽ là một quá trình biến đổi mà trong đó cơ cấu xã hội cũng bị thay đổi tận gốc rễ.
Cơ cấu tổ chức của xã hội Việt Nam trước đây là cơ cấu xã hội mà trong
đó hoạt động của các cộng đồng làng xã là nền tảng cơ bản. Nó tồn tại trong suốt
chiều dài của lịch sử Việt Nam và gắn liền với sản xuất nông nghiệp, dựa trên
nền tảng của chế độ công điền công thổ, với việc tự quản cao của các cộng đồng
lãng xã.
Để bước vào xã hội hiện đại với những sự phát triển hoàn toàn mới, mang
tính đột phá cao, lần đầu tiên trong lịch sử, cơ cấu của xã hội Việt Nam truyền
thống sẽ phải đối diện với những sự thay đổi mạnh mẽ nhất, trong đó những trì
trệ và bảo thủ của xã hội nông nghiệp truyền thống sẽ bị phá vỡ. Cơ cấu xã hội
gắn liền với các cộng đồng làng xã sẽ bị thay đổi. Nó giải phóng con người khỏi
tác động đơn tuyến của môi trường xã hội cổ truyền, đồng thời mang lại cho họ
quyền tự do lựa chọn các phương thức sinh sống và phong cách văn hoá mà mình
ưa thích. Sự biến đổi này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, mà có cơ sở xã hội,
hoặc sâu xa, hoặc trực tiếp gắn liền với nó.
Sự biến đổi này biểu hiện trên nhiều phương diện - không chỉ ở các phương diện
kinh tế, chính trị, xã hội quen thuộc, mà còn ở cả các phương diện văn hóa và lối
sống, với mọi biểu hiện vừa đa dạng vừa sinh động của nó. Dưới đây là một số
biểu hiện dễ thấy nhất:
Thứ nhất, đó là sự biến đổi của mỗi cá nhân gắn liền với biến đổi gia
đình.
Trong khoảng vài ba chục năm trở lại đây, kiểu gia đình mở rộng "tam tứ đại
đồng đường" cổ truyền đang ngày càng bị thu hẹp, ngược lại kiểu gia đình hạt
nhân lại ngày càng chiếm ưu thế. Kiểu gia đình thứ hai này vừa tăng nhanh về số
lượng, vừa đa dạng về hình thức, đó là gia đình gồm vợ - chồng và các con chưa
trưởng thành của họ, gia đình độc thân, gia đình sống chung ngoài gía thú, gia
đình "sống thử" của sinh viên, gia đình đồng giới, gia đình có con nhưng không
đăng ký kết hôn, v.v… Nhưng điều này chưa quan trọng, quan trọng hơn là sự
biến đổi về lối sống của gia đình.
Các số liệu điều tra xã hội học chỉ ra rằng, ở các khu vực nông thôn, bữa
cơm gia đình đến nay vẫn còn giữ được phần nào sự sum họp, đầm ấm của cả nhà
mà phong tục cổ truyền để lại. Nhưng ở các đô thị tình hình không còn như vậy,
nhiều gia đình chỉ có bữa tối mới tập trung đông đủ. Bữa sáng - mỗi người ăn
mỗi nơi, theo khẩu vị riêng. Bữa trưa, con nhỏ ăn ở lớp bán trú, con lớn ở trường
đại học, còn người vợ ăn với bạn ở đầu phố bên này, trong khi người chồng cũng
ăn với bạn, nhưng ở cuối phố bên kia. Sự cố kết lỏng lẻo trong lối sống gia đình
vô hình trung đã tạo ra một lỗ hổng lớn cho mỗi người tự đa dạng hóa cách sống
của mình theo sở thích riêng.
Ngoài ra, gia đình với tư cách một thiết chế xã hội cũng có những biến đổi
đáng kể. Cùng với quá trình đổi mới, các cá nhân và gia đình đang cấu trúc lại
chiến lược sống của họ nhằm đảm bảo và phát triển phúc lợi trong điều kiện mới.
Điều này được thể hiện qua những thay đổi trong phân công lao động gia đình và
vai trò của các thành viên, trong các quan hệ kinh tế giữa các thành viên trong gia
đình và họ tộc,…
Thứ hai, sự biến đổi về cơ cấu lứa tuổi trong chu trình đời người.
Trong các xã hội cổ truyền, thông thường một thiếu niên 14 - 15 tuổi trong làng
đã nghỉ học để lo kiếm sống cùng gia đình. Ở thời hiện đại lại khác, việc học tập
được kéo dài hơn, do vậy mà thời kỳ "hậu thiếu niên" cũng được tính bằng số
năm tháng nhiều hơn. Với các bậc cha mẹ, do mỗi gia đình chỉ sinh từ một đến
hai con, nên khi chúng đã trưởng thành thì hầu hết các bà mẹ ông bố chỉ mới
bước vào tuổi hồi xuân. Nếu lấy tuổi trung bình của cha mẹ khi con cái đã trưởng
thành hoàn toàn trong xã hội hiện đại từ 45 -50 và tuổi tương ứng trong xã hội cổ
truyền là 60 -65, thì thời kỳ "hậu cha nẹ" của các ông bố bà mẹ ngày nay có thêm
một khoảng thời gian tự do dài thêm 15 năm! Cũng tương tự, do tuổi thọ trung
bình tăng lên, trong khi tuổi nghỉ hưu lại có xu hướng giảm xuống, làm cho thời
kỳ nghỉ hưu của nhóm người thuộc lứa tuổi thứ ba cũng được kéo dài ra. Với
những khoảng thời gian tự do đó, mỗi nhóm tuổi ngày nay đều có thể tham gia
vào các hoạt động mới mẻ như đến nhà nghỉ mát hay đi tham quan, du lịch… mà
ở độ tuổi tương ứng, các bậc tiền bối của họ chưa từng được biết đến.
Thứ ba, sự thay đổi trong quan hệ hàng xóm, láng giềng
Nhìn chung những quan hệ này vẫn giữ được tính chất đoàn kết, nghĩa tình, thậm
chí còn được củng cố hơn bởi mạng lưới xã hội dưới các hình thức khác nhau.
Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường, do bận công việc làm ăn, các gia
đình có xu hướng "kín cổng cao tường", ít giao lưu hơn trước đây. Đặc biệt ở
thành phố thì các điều kiện giao lưu với hàng xóm, láng giềng càng hạn chế hơn
trước, chủ yếu "nhà nào biết nhà ấy". Do quá trình phát triển kinh tế, những quan
hệ này cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều mâu thuẫn nảy sinh, như những vấn đề liên
quan đến đất đai, nợ nần, vướng mắc tranh chấp về thị trường, khách hàng… Tất
cả những điều này đã làm thay đổi không ít các mối quan hệ hàng xóm, láng
giềng.
Như vậy, quan hệ làng xóm trong thời hiện đại, bên cạnh những xu hướng
tốt đẹp đã xuất hiện những yếu tố không tốt. Sự cố kết cộng đồng này nếu được
vận hành tốt thì sẽ trở thành động lực để cả cộng đồng và mỗi thành viên phát
triển.
Thứ tư, sự biến đổi trong văn hóa tiêu dùng.
Có thể quan sát được rằng, đã bắt đầu có những thay đổi quan trọng trong
cơ cấu và thói quen tiêu dùng thực phẩm của người dân thành phố. Từ "ăn no,
mặc ấm" chuyển sang "ăn ngon, mặc đẹp", hay từ "ăn gì" chuyển sang "ăn ở đâu,
với ai"…
Như vậy, nhu cầu của người tiêu dùng không chỉ bao hàm khía cạnh dinh
dưỡng mà cả nhiều khía cạnh khác như mức sống, lối sống, quan niệm về sức
khoẻ và thẩm mỹ đang biến đổi. Nó cũng không chỉ có ý nghĩa đối với người dân
thành phố mà ngay lập tức, đã tác động tới ngoại ô và các tỉnh liền kề. Nhu cầu
và mô hình tiêu dùng thay đổi khiến người sản xuất và cung ứng phải nhận biết
thị trường để có các quyết định đại loại như "chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi", hoặc bảo đảm các yêu cầu về vệ sinh an tòan thực phẩm cho người tiêu
dùng…
Hay về nhu cầu nhà ở cũng vậy. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, đại
đa số người dân Hà Nội thích được sở hữu những căn nhà phân lô riêng biệt,
khép kín, ngoài chức năng cư trú có thể có thêm chức năng sinh lợi về kinh tế.
Các căn hộ tập thể cũ bị xem là không thích hợp, còn các căn hộ chung cư hiện
đại thì còn quá xa lạ với các tầng lớp thị dân. Tỉ lệ người dân có nguyện vọng
sống trong các "căn hộ chung cư hiện đại" rất thấp. Nhưng chỉ sau hơn 10 năm,
những năm đầu của thế kỷ XXI, các khu đô thị mới với những toà nhà chung cư
cao tầng, hiện đại được bắt đầu xây dựng và đưa vào sử dụng, gần như ngay lập
tức, nhu cầu về các căn hộ này đã vượt quá khả năng xây dựng và cung cấp. Như
vậy, mô hình cư trú đang biến đổi. Một mô hình mới đang ra đời, và tương ứng,
những chuẩn mực, lối sống mới, cho một thời kỳ mới, những nhóm xã hội sẽ
hình thành và phát triển.
Thứ năm, xu hướng thay đổi giá trị, triết lý sống của cá nhân và các nhóm
xã hội.
Sự chuyển dịch trong quan niệm về giá trị bắt đầu từ chính sự thay đổi
triết lý sống của nhân dân. Trước đây sự sùng bái đồng tiền đồng nghĩa với sở
hữu tư nhân, và lối sống làm ăn của chủ nghĩa tư bản. Người ham tiền được xem
là kẻ vô đạo đức. Tất cả sự giáo huấn đều theo tư tưởng coi khinh đồng tiền.
Nhưng hiện nay, cùng với sự thay đổi thành phần sở hữu, công nhận kinh tế tư
nhân, những quan niệm, triết lý này dần được thay đổi. Sự xuất hiện của đồng
tiền chính là một thành tựu của văn minh nhân loại. Nhờ nó mới phát triển được
giao thương, đem lại sự giàu sang, của cải vật chất cũng như tinh thần cho nhân
loại. Việc đánh giá về đồng tiền cũng như các lợi ích kinh tế cũng khác đi, đây
chính là động lực tích cực thúc đẩy lao động con người. Lợi ích cá nhân được trả
lại đúng vị trí của nó, là cơ sở thực hiện lợi ích xã hội.
Như vậy, triết lý sống của người Việt đã dần chuyển sang xu hướng thực
dụng. Một bộ phận không nhỏ coi thực dụng là yếu tố chủ đạo, người ta không
quan tâm đến những lý tưởng cao siêu, các cuộc tranh luận mang tính ý thức hệ.
3- Như vậy, sự biến đổi văn hoá và lối sống này chính là sự chuyển tiếp
từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại được đặc trưng bởi logic chuyển tiếp
từ văn hóa đơn phong cách sang văn hóa đa phong cách. Xu hướng đa dạng hoá
và cá thể hóa đời sống không phải là một đặc thù của Việt Nam, mà là hiện tượng
phổ biến đối với tất cả các quốc gia đã và đang tiến hành công nghiệp hoá và hiện
đại hoá. Nhìn một cách tổng thể, người ta thấy quá trình xã hội sôi động này đang
diễn ra rất nhanh, trong đó không chỉ có những biểu hiện bên ngoài, mà sâu xa
hơn nữa như các vai trò, vị trí xã hội cũng không ngừng thay đổi. Những biểu
hiện muôn hình muôn vẻ đó khiến cho đường ranh giới giữa các nhóm xã hội
không còn thật sử rạch ròi như trong các xã hội truyền thống. Trong các ngành
khoa học xã hội, người ta gọi đây là bước nhảy vọt bất ngờ của tính cơ động xã
hội và sự nhảy vọt này làm cho việc nhận dạng con người cá nhân trở nên khó
khăn hơn rất nhiều.
Sự biến đổi trên là hệ quả của quá trình thực hiện công bằng xã hội, đã
và sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy tính năng động xã hội trong mỗi cá nhân, mỗi
nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác các cơ hội để phát triển vượt
lên. Là kết quả tất yếu của quá trình phát triển xã hội, có tác dụng thúc đẩy quá
trình đó tiếp tục đi lên. Sự biến đổi này có ảnh hưởng hai mặt, tích cực và tiêu
cực.
Với tư cách là một phần trong cơ cấu xã hội, các biến đổi này sẽ là tấm
gương phản ánh những biến đổi xã hội vi mô. Các vấn đề đa dạng và phong phú
của nó đã góp phần vào sự nhận diện các biến đổi xã hội của đất nước trong giai
đoạn hiện nay. Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới hiện nay, việc đa dạng hoá
phong cách sinh sống là chuyện tất yếu, phải nhìn nhận những biến đổi này là
một hiện tượng có tính quy luật đối với bất kỳ xã hội nào có trong giai đoạn
chuyển đổi. Vấn đề chỉ là nhận biết mức độ và đánh giá được các hệ quả chính trị
xã hội, bên cạnh những mặt tích cực còn có những mặt tiêu cực của quá trình
này. So với thời trước đổi mới mà bình quân có nghĩa là chia đều sự nghèo khổ,
những năm qua người dân thuộc nhiều đối tượng khác nhau đã có sự tăng tiến rõ
rệt về nhu cầu, do đó cũng có những biến đổi mạnh mẽ về lối sống. Đó là sự biến
đổi xã hội quan trọng, với những biểu hiện sau :
- Từ nhu cầu vật chất hướng sang nhu cầu tinh thần, văn hoá tinh thần.
- Từ mặt lượng của nhu cầu hướng tới nâng cao chất lượng nhu cầu, cả nhu cầu
cho tồn tại và nhu cầu cho phát triển sáng tạo.
- Biến đổi nhu cầu diễn ra mạnh mẽ và ưu trội ở lớp trẻ, từ nhu cầu dân
chủ và tự do, khẳng định cá tính, nhân cách đến nhu cầu thông tin, giao tiếp, thụ
hưởng văn hoá với xu hướng hướng ngoại, bị lôi cuốn bởi mốt, thị hiếu, giá
trị mới.
- Nhu cầu phát triển các thuộc tính của nguồn nhân lực: thể lực, tâm lực, trí lực.
- Cũng có sự khác biệt, thậm chí là khác biệt lớn về nhu cầu giữa các thế hệ, do
đó nảy sinh cả những mâu thuẫn, xung đột về nhu cầu.
- Có sự chênh lệch khá lớn giữa nhu cầu của cộng đồng dân cư các vùng miền,
rõ nhất là nhu cầu trong các gia đình khá giả, giàu có ở đô thị với nhu cầu trong
các gia đình nghèo khổ ở nông thôn, miền núi.
Những lệch lạc trong thể hiện và thực hiện nhu cầu thường bắt đầu từ sự
lệch lạctrong lựa chọn định hướng giá trị sống, sự yếu kém, phát triển chậm
trong giáo dục nhu cầu, giáo dục giá trị đối với lớp trẻ, từ gia đình, nhà trường
đến xã hội.
Biến đổi lối sống của con người Việt Nam có thể coi là tổng hợp những
biến đổi xã hội dưới tác động của đổi mới, của hội nhập.
Bên cạnh những nhân tố lành mạnh, tích cực trong lối sống với các đức tính cần
cù, trung thực, khiêm tốn, giản dị, vị tha, nhân ái cũng đang xuất hiện những lệch
lạc trong lối sống: hưởng thụ, thực dụng, tôn thờ vật chất, tiền của, khoái lạc,
sự phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thờ ơ với xã hội, lãnh cảm xã
hội ở một bộ phận dân cư, trong đó có lớp trẻ, sự suy đồi đạo đức, gây phản cảm
từ những người lớn với con em họ, thói cơ hội, tùy thời, thói đạo đức giả của
những quan chức và công chức thoái hoá trong bộ máy công quyền.
Đó là những mặt trái, gây cản trở đối với giáo dục đạo đức, lối sống cho lớp trẻ.
III – KẾT LUẬN
Trên đây là một trong những yếu tố tác động tới sự biến đổi xã hội có tính
điển hình và phổ biến ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập.
Lĩnh vực xã hội là hết sức phức tạp, bởi nó gắn liền với đời sống con
người, các quan hệ xã hội của con người. Cũng chính vì thế, cần phải chú trọng
quản lý phát triển xã hội bằng một hệ giải pháp đồng bộ từ giáo dục nhận thức,
hoàn thiện thể chế và chính sách, đảm bảo môi trường lành mạnh, tạo ra một
không gian văn hoá - đạo đức - pháp lý cho sự lành mạnh của biến đổi xã hội.
Điều đó cho thấy chính trị (quan điểm lãnh đạo và các chính sách xã hội,
hệ tư tưởng), văn hóa (sự truyền bá những lối sống mới) có tác động rất lớn tới sự
biến đổi của xã hội.
Nếu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đi đúng hướng sẽ tác
động tốt tới sự biến đổi xã hội theo hướng tốt và ngược lại sẽ phát triển theo
hướng xấu. Nền văn hóa du nhập của thị trường cũng ảnh hưởng tới biến đổi đời
sống xã hội